Rose and Cactus Blog
  • Home
  • About me
  • Rose
  • Cactus
  • Books
  • Stories
  • Film
  • English
Chuyên mục:

Rose

Rose

Mùa chim én bay (8)

by Rose & Cactus February 29, 2024

NĂM NHUẬN

Các năm 2020, 2024, 2028, 2032, 2036, 2040 và 2044 có điểm gì chung? Đó chính là Năm nhuận, khi tháng Hai có thêm một ngày và dài 29 ngày.

Nhưng tại sao? Lý do đằng sau nó hơi phức tạp. Ví dụ, hầu hết mọi người tin rằng năm nhuận xảy ra bốn năm một lần, nhưng điều đó không phải lúc nào cũng đúng.

Tại sao chúng ta có năm nhuận?

Một năm dương lịch thường dài 365 ngày. Những năm này xác định một cách tương đối số ngày Trái đất cần để hoàn thành một quỹ đạo quanh Mặt trời. Nhưng 365 thực chất là một con số được làm tròn.

Trái đất mất 365,242190 ngày để quay quanh Mặt trời, hay 365 ngày 5 giờ 48 phút và 56 giây. Năm “thiên văn” này dài hơn một chút so với năm dương lịch và bằng cách nào đó cần phải tính thêm 5 giờ 48 phút 56 giây đó. Nếu chúng ta không tính đến thời gian thêm này, các mùa sẽ bắt đầu trôi đi.

Điều này sẽ gây ra phiền nhiễu nếu không muốn nói là tàn phá, bởi vì trong khoảng thời gian khoảng 700 năm, mùa hè của chúng ta, mà chúng ta dự đoán vào tháng 6 ở bán cầu bắc, sẽ bắt đầu diễn ra vào tháng 12!

Bằng cách thêm một ngày vào mỗi bốn năm, năm dương lịch của chúng ta vẫn được điều chỉnh theo năm thiên văn, nhưng điều đó cũng không hoàn toàn đúng.

Tại sao không phải lúc nào cũng là “cứ bốn năm lại có một năm nhuận”?

Một số phép toán đơn giản sẽ cho thấy rằng trong bốn năm, sự khác biệt giữa năm dương lịch và năm thiên văn không chính xác là 24 giờ.

Thay vào đó là 23,262222 giờ. Làm tròn lại gây tai họa một lần nữa! Bằng cách thêm một ngày nhuận cứ sau bốn năm, chúng ta thực sự làm cho lịch dài hơn hơn 44 phút. Theo thời gian, hơn 44 phút thêm này cũng sẽ khiến các mùa trôi đi trong lịch của chúng ta.

Vì lý do này, không phải bốn năm một lần đều là năm nhuận. Quy tắc là nếu năm chia hết cho 100 và không chia hết cho 400 thì bỏ qua năm nhuận. Ví dụ, năm 2000 là năm nhuận, nhưng các năm 1700, 1800 và 1900 thì không. Lần tiếp theo năm nhuận sẽ bị bỏ qua là năm 2100.

Tại sao gọi là “năm nhuận”?

Vâng, một năm thông thường có 52 tuần và 1 ngày. Điều đó có nghĩa là nếu năm nay sinh nhật của bạn xảy ra vào thứ Hai thì năm tiếp theo nó sẽ diễn ra vào thứ Ba. Tuy nhiên, việc thêm một ngày vào năm nhuận có nghĩa là ngày sinh của bạn bây giờ “nhảy” hơn một ngày.

Thay vì sinh nhật của bạn diễn ra vào Thứ Ba như các năm thông thường, trong năm nhuận, sinh nhật của bạn “nhảy” qua Thứ Ba và bây giờ sẽ diễn ra vào Thứ Tư.

Và nếu bạn sinh vào ngày nhuận 29 tháng 2, điều đó không có nghĩa là bạn chỉ tổ chức sinh nhật bốn năm một lần. Vào những năm không có ngày nhuận, bạn sẽ tổ chức sinh nhật vào ngày 1 tháng 3 và tiếp tục già đi như tất cả chúng ta.

Nhờ năm nhuận nên các mùa của chúng ta sẽ luôn diễn ra đúng thời điểm chúng ta mong đợi và năm dương lịch của chúng ta sẽ trùng với năm thiên văn của Trái đất.

MỘT SỐ SỰ THẬT THÚ VỊ VỀ NĂM NHUẬN

By Esther Frauenstein

1. Tất cả các tháng khác trong lịch Julian đều có 30 hoặc 31 ngày, nhưng tháng Hai đã thua thiệt vì cái tôi của Hoàng đế La Mã Caesar Augustus. Dưới thời người tiền nhiệm Julius Caesar, tháng Hai có 30 ngày và tháng mang tên ông – tháng Bảy – có 31. Tháng Tám chỉ có 29 ngày.

Khi Caesar Augustus trở thành Hoàng đế, ông đã thêm hai ngày vào tháng ‘của mình’ để làm cho tháng Tám giống với tháng Bảy. Thế là tháng Hai đã thua tháng Tám trong trận chiến của những ngày thêm.

2. Nếu một người đàn ông từ chối lời cầu hôn, anh ta sẽ bị phạt một nụ hôn, một chiếc váy lụa hoặc mười hai đôi găng tay.

3.Theo truyền thống, phụ nữ phải mặc quần ống túm hoặc váy lót màu đỏ tươi để cầu hôn.

Phụ nữ có thể cầu hôn nam giới vào năm nhuận: Theo truyền thuyết vào thế kỷ thứ V khi một nữ tu sĩ người Ireland tên là St Bridget đã phàn nàn với thần hộ mệnh của nước này, thánh Patrick về việc người phụ nữ phải đợi chờ quá lâu để “nửa kia” nói lời cầu hôn. Sau đó, Thánh Patrick đã quyết định chọn ngày 29/2 là ngày phụ nữ có thể “cầu hôn” với nam giới. Năm 1288, Scotland đã thông qua đạo luật cho phép phụ nữ được cầu hôn nam giới trong năm nhuận.

4. Một trong năm cặp đôi đã đính hôn ở Hy Lạp sẽ lên kế hoạch tránh kết hôn vào năm nhuận. Họ tin rằng đó là điều xui xẻo.Nếu như đối với nhiều người hoặc một số quốc gia, ngày 29/02 được xem là ngày đặc biệt may mắn thì ở Hy Lạp và Scotland ít ai chào đón, vì ngày này được xem là ngày xui xẻo tương tự như thứ 6 ngày 13 và họ cho rằng những cặp đôi kết hôn vào ngày 29/02 sau này sẽ gặp kết cục không may mắn.

5. Người sinh ngày 29 tháng 2 được gọi là “người nhảy vọt”.

6. The Honor Society of Leap Year Babies là câu lạc bộ dành cho những người sinh ngày 29 tháng 2. Hơn 10.000 người trên toàn thế giới là thành viên.

7. Các nhà chiêm tinh tin rằng những người sinh ngày 29 tháng 2 có tài năng khác thường, chẳng hạn như khả năng đọc bảng chữ cái hoặc vẽ tranh như Picasso.

8. Người đáng chú ý duy nhất được biết là sinh và mất vào ngày 29 tháng 2 là Ngài James Wilson (1812–1880), Thủ hiến Tasmania.

9. Tỷ lệ sinh vào ngày nhuận là 1/1500

10. Karin Henriksen người Na Uy sinh ba người con liên tiếp vào ngày 29 tháng 2 – một con gái vào năm 1960 và hai con trai vào năm 1964 và 1968.

11. Ở Hồng Kông, ngày sinh nhật hợp pháp của một “người nhảy vọt” là ngày 1 tháng 3 trong các năm thông thường, trong khi ở New Zealand là ngày 28 tháng 2. Nếu tính đúng thời gian, khi bay từ nước này sang nước khác, bạn có thể tận hưởng ngày sinh nhật dài nhất thế giới.

12. Hôm nay bạn đang làm việc không công nếu bạn nhận mức lương cố định hàng năm. Và những tù nhân có mức án một năm phải chấp hành thêm ngày nếu thời hạn vượt qua ngày nhuận.

13. Con ếch là biểu tượng gắn liền với ngày 29 tháng 2. Loài ếch tên lửa Úc có thể nhảy cao hơn hai mét.

14. Anthony, Texas tự xưng là “Thủ đô năm nhuận của thế giới”. Nơi đây tổ chức một lễ hội bao gồm chuyến đi có hướng dẫn đến Hang Aztec, “vui chơi ở trang trại ngựa” và khiêu vũ vuông.

15. Matthew Goode, ngôi sao điện ảnh người Anh đóng trong phim Leap Year, cho biết anh biết bộ phim sẽ bị nhớ đến là “bộ phim tệ nhất năm 2011” nhưng muốn “được ở gần nhà và có thể đến thăm bạn gái và con gái mới sinh của mình.” .”

16. Ở Nga, người ta tin rằng năm nhuận có thể mang đến nhiều kiểu thời tiết kỳ dị hơn và nguy cơ tử vong cao hơn. Kinh nghiệm dân gian làm nông nói rằng đậu và đậu Hà Lan trồng vào năm nhuận “phát triển sai cách”.

17. Ở Đài Loan, theo truyền thống, con gái đã lấy chồng sẽ về nhà vào tháng nhuận vì người ta tin rằng tháng âm lịch có thể mang lại sức khỏe không tốt cho cha mẹ. Con gái được yêu cầu mang mì chân giò (lợn) để cầu chúc sức khỏe và may mắn.

18. Năm nhuận trong lịch sử: Trong những năm nhuận, George Armstrong Custer đã đánh trận Little Bighorn (1876), tàu Titanic bị chìm (1912), Benjamin Franklin đã chứng minh rằng sét là điện (1752) và vàng được phát hiện ở California ( 1848). 

Google Doodle sáng nay chào mừng năm nhuận bằng hình ảnh đẹp các bạn nhỉ. Mình vốn thích nhìn hình vẽ chú ếch xanh trên cái lá môn xanh trên làn nước xanh “Kìa chú là chú ếch con. Có hai là hai mắt tròn” nhưng thoạt đầu cũng chưa hiểu dụng ý của Google là gì khi đưa  chú ếch để minh họa.

Phải mất một lúc một luận ra được các bạn ạ (hơi chậm nhỉ): Trong tiếng Anh điệu nhảy (giống như của chú ếch) là leap (từ này được từ điển định nghĩa nghĩa thứ nhất của nó tương đồng với jump – cú nhảy). Mà năm nhuận cũng là Leap: Leap year.

Cho nên biết thêm ngoại ngữ (ngoài tiếng mẹ đẻ ra) nó thú vị lắm các bạn ạ, giống như mở ra cho mình cánh cửa để khám phá chân trời tri thức và văn minh nhân loại. Tất nhiên không ai có khả năng biết hết mọi ngôn ngữ trên thế giới, nhưng ít nhất cũng nên biết (thành thạo thì càng tốt) một trong hai thứ tiếng: Anh và Trung.

Kho tàng tri thức đồ sộ và những gì tinh túy nhất mà con người đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử đều có thể tìm thấy qua những tài liệu được phản ánh bằng hai ngôn ngữ này. Nó thật sự là vô giá.

Nhưng, lại tiếc, là chúng ta không có (và không xây dựng được) đội ngũ những dịch giả, những người viết thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học tự nhiên để chuyển thế những tri thức đó sang ngôn ngữ tiếng Việt và phổ biến rộng rãi ra đại chúng bằng một hệ thống thư viện bao phủ.

Tiếng Việt càng ngày càng yếu vì hai nguyên nhân:

Thứ nhất gốc tiếng Việt phần lớn là tiếng Hán, những từ hay nhất trong tiếng Việt chính là từ Hán Việt đó các bạn,  thì chúng mình lại chẳng được học tiếng Hán nên đọc  văn chương thơ ca cổ gần như không hiểu gì;

Thứ hai với khoa học hiện đại phần lớn các  phát minh đều được khám phá ra ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nên cũng được viết bằng ngôn ngữ khác, với những thuật ngữ khoa học rất là mới (từ kinh tế cho đến khoa học cơ bản) mà không kiếm đâu ra được ở kho tàng tiếng Việt đã quá cũ kỹ.  Thành thử đôi khi phải để nguyên từ của tiếng nước ngoài

Hệ thống thư viện từ cấp quốc gia đến  địa phương quá nghèo nàn, lạc hậu. Đọc sách mới chỉ dừng ở mức hô hào khẩu hiệu, nặng về hình thức mà không xây dựng được một chiến lược bài bản. 

Chúng ta mãi chỉ như anh thợ đẽo cày giữa đường

ta trồng cây chiều hôm nay

và thu hoạch quả vào sáng ngày mai

 

rồi vội vàng chở về

trong một chiếc xe kéo cồng kềnh ọp ẹp

trên những con đường ngoằn ngoèo chật hẹp

những con đường mấp mô và luôn đông nghẹt,

những con đường nắng chang

 

không một bóng cây rợp mát

ta chỉ thấy xung quanh

bên này đường

quán cà phê, trà đá,  thức ăn nhanh

và bên kia

tiệm giặt là, sửa xe, làm tóc

 

bật khóc

ta dừng chân nơi đèn đỏ

 

một cơn gió

phả vào mặt ta bỏng rát

rồi mây vần vũ và mưa bắt đầu rơi

nặng hạt

 

mưa như lũ thác

cuốn cuộn dưới bàn chân,

 

ta xuyên qua

những tiếng ó la

và những tiếng chửi thề tựa âm thanh sấm sét

 

ta băng qua

hàng trăm ki lo mét

 

và may mắn khi thấm mệt

kịp về đến hiên nhà

 

nhưng những thành tựu của mùa màng, lúc mở ra

quả thì còn  xanh,

trái lại đã

dập nát!

(mình viết vội bài này một cách ngẫu hứng cách đây hơn chục năm, khi đi công tác về gặp cơn mưa tầm tã và nhìn ra ngoài cửa kính xe, tại một cây đèn đỏ, ,mình thấy một người buôn hoa quả không có áo mưa, người ướt hết và phía sau anh chở thùng trái cây giữa hỗn độn đủ thứ  âm thanh. Giờ mình lại nghĩ đến nó  nên đăng ở đây)

Có một bộ phim liên quan đến ‘Năm nhuận” (Leap year), không biết đã bạn nào xem chưa ? Đó là một bộ phim tình cảm nhẹ nhàng kể về hành trình ngẫu nhiên tìm thấy được tình yêu chân chính đời mình của một cô gái thành thị đến từ nước Mỹ tên Anna.

Anna bay đến Dublin, Ireland để cầu hôn bạn trai cô, một vị bác sĩ  thành đạt nhưng bận rộn, người đang công tác tại đây, vào đúng ngày 29 tháng 2 bởi theo truyền thuyết của người Ireland thì người đàn ông nào được hoặc bị cầu hôn vào ngày nhuận phải chấp nhận lời cầu hôn đó.

Tuy nhiên vì thời tiết xấu nên chuyến bay của cô bị trục trặc và cô bị mắc kẹt ở một ngôi làng nhỏ vùng miền quê đẹp như tranh của Ireland. Tại đây cô đã gặp được chàng trai thực sự yêu mình dù bề ngoài anh ta luôn tỏ ra cục cằn thô lỗ, để rồi cuối cùng cô nhận ra cuộc sống hào nhoáng cùng vị hôn phu giàu có không phải là nơi dành cho mình.

Nội dung phim này thì không có gì mới lạ nhưng mình ấn tượng với những cảnh quay đẹp như mộng của đồng quê thiên nhiên của nước Anh. Và dù ở một đất nước phát triển như vậy rồi nhưng vẫn có sự khác biệt rõ rệt về hạ tầng và dịch vụ giữa khu vực thành thị và nông thôn; giữa đô thị lớn và tỉnh lẻ

NGƯỜI H’MONG

By Sarah Turner

6.

Giống như trâu có vị trí then chốt trong xã hội, nghi lễ và sinh kế của nhiều nhóm dân tộc thiểu số ở vùng cao Tây Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam, thì rượu chưng cất và rượu ngô cũng vậy (thường được gọi là cawc trong tiếng Hmong, jiu trong tiếng Trung và rượu trong tiếng Việt) .

Truyền thống chưng cất rượu phổ biến đã là thói quen của các hộ gia đình người Mông trong nhiều thế kỷ. Mặc dù luôn quan trọng nhưng đồ uống có cồn trước đây chỉ được dành cho những dịp đặc biệt, chẳng hạn như các nghi lễ vòng đời như đám cưới, đám tang, lễ tổ tiên và Tết Nguyên đán.

Ngày nay, việc tiêu thụ rượu chưng cất tự chế ở địa phương đã trở nên phổ biến hơn nhiều và được ưa chuộng để chiêu đãi khách, tại các hội chợ, trong thời gian lao động chung và tại nhiều lễ hội khác.

Các gia đình người Mông coi việc mời khách uống rượu gạo (tiếng Hmong: cawv nplej) hoặc rượu ngô là biểu hiện của sự lịch sự, tôn trọng và tình bạn.

Rượu thường được cung cấp – và được mong đợi – trong quá trình trao đổi lao động nhóm hoặc thỏa thuận lao động được trả lương, chẳng hạn như trồng lúa hoặc xây nhà. Trong khi người chưng cất và thương nhân có thể là nam giới hoặc phụ nữ, việc tiêu thụ rượu một cách công khai có xu hướng là một hoạt động giới tính.

Thông thường, phụ nữ uống rượu quá mức trong các sự kiện xã hội thường bị phản đối, mặc dù đàn ông thường làm như vậy vào những ngày họp chợ và các cuộc tụ họp khác. Tuy nhiên, việc phụ nữ uống đồ uống có cồn trong các nghi lễ quan trọng như đám cưới và nghi lễ sau tang lễ là điều bình thường.

Rượu là một phần  trong các cuộc đàm phán hôn nhân và đám cưới của người Hmong, nơi rượu thường được phục vụ trong những chiếc cốc tre được chạm khắc đặc biệt.

Theo phong tục, rượu cũng được đưa vào như một phần của khoản thanh toán trong đám cưới và của cải cô dâu do nhà trai tặng cùng với lợn, gà, bạc thỏi hoặc tiền. Việc trao đổi những vật phẩm này, cũng có giá trị biểu tượng, đóng vai trò như một khế ước xã hội, củng cố mối liên minh giữa hai thị tộc thông qua hôn nhân.

Mặc dù tổng số tiền trao đổi này thay đổi tùy theo địa vị xã hội và tình trạng giàu có của một hộ gia đình, nhưng 40 đến 50 lít rượu vẫn là một kỳ vọng khá nhất quán trong hàng thập kỷ qua. Danh sách các khoản thanh toán đám cưới thường, được báo cáo vào năm 2013, bao gồm 40 đến 50 lít rượu, 100 kg lợn sống, 5 kg thịt gà (hai hoặc 3 con) và số tiền tương đương khoảng 500 USD tiền địa phương.

Để so sánh, khi Tsi, một phụ nữ Hmong trung niên, kết hôn vào giữa những năm 1980, lượng rượu trao đổi trung bình chỉ bằng một nửa số đó, có lẽ do nền kinh tế bao cấp của miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1986, khi hoạt động sản xuất và buôn bán tư nhân rượu bị cấm.

Trước đó nữa, Giàu, một người đàn ông lớn tuổi người Mông Sa Pa, kể rằng khi lấy vợ năm 1968, bố mẹ ông phải chu cấp cho gia đình vợ năm mươi chai rượu, năm mươi thỏi bạc, năm mươi đồng bạc và năm mươi kg thịt lợ

Một cặp vợ chồng người Hmong lớn tuổi ở Maguan, Vân Nam, tiết lộ rằng rượu ngô là một phần của lễ cưới khi họ kết hôn vào năm 1970 và vẫn tiếp tục là thông lệ cho đến giờ.

Một người đàn ông Hmong lớn tuổi khác lưu ý rằng khi ông kết hôn vào cuối những năm 1960, các khoản thanh toán bao gồm 40 lít rượu cùng với 70 đến 80 kg thịt lợn, bảy bộ quần áo may thủ công, hai con gà và Y80. Những người được phỏng vấn này xác nhận chức năng quan trọng của rượu vùng cao ở những thời điểm khác nhau và ở cả hai bên biên giới Trung-Việt và nhấn mạnh tính liên tục của ý nghĩa văn hóa của rượu.

Nhu cầu về gạo và rượu ngô của các hộ gia đình Hmong đạt đỉnh điểm trong khoảng thời gian trước Tết Nguyên đán, diễn ra vào cuối tháng Giêng hoặc đầu tháng Hai. Mùa nghỉ lễ có thể bắt đầu sớm nhất là vào tháng 10 hoặc tháng 11, khi rượu, thường được dùng làm quà tặng, được sử dụng trong nhiều lễ kỷ niệm và các chuyến thăm xã hội.

Trong những tháng sau vụ thu hoạch, các hộ gia đình có nhiều thời gian hơn dành cho những sự kiện xã hội quan trọng, đặc biệt là đám cưới.

Để chuẩn bị cho nhu cầu gia tăng, các nhà sản xuất rượu tự chế bắt đầu chưng cất số lượng lớn vào tháng Bảy. Sản xuất và buôn bán rượu giảm dần sau Tết, vào cuối tháng 2 và tháng 3, trùng với thời điểm bắt đầu mùa trồng lúa và ngô, khi các hộ gia đình dành sức lao động để sản xuất nông nghiệp và giữ tiền mặt  để mua giống và phân bón. 

Ở Việt Nam, rượu vẫn được sản xuất ở các hộ gia đình và các làng vùng cao. Việc phân phối đang mở rộng cả qua biên giới và về phía vùng đồng bằng Việt Nam, nơi rượu vùng cao có những khách hàng ruột.

Rượu vùng cao tự chế đóng vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa, thu hút sự quan tâm ngày càng tăng từ các bên liên quan ngoài địa phương và người tiêu dùng kể từ cuối những năm 1990.

Mối quan tâm này đã làm tăng bối cảnh thương mại vượt ra ngoài khu vực địa phương; các chuỗi hàng hóa mới bao gồm các dòng thương mại khu vực và vùng cao-đồng bằng đã được xây dựng và vướng vào các mạng lưới quan hệ và ý nghĩa xã hội rộng lớn hơn.

Khi những hàng hóa này di chuyển qua các thị trường địa phương và quốc gia, chúng gặp phải các hình thức sản xuất, lưu thông, tiếp thị, quản lý và tiêu dùng khác nhau.

Giá trị thương mại ngày càng tăng của các sản phẩm này được thể hiện qua việc quảng bá và xây dựng thương hiệu cho các “làng sản xuất rượu”, tức là các làng dân tộc thiểu số đã nổi tiếng là nơi sản xuất rượu đặc sản khắp miền Bắc Việt Nam kể từ cuối những năm 1990.

Sự nổi tiếng ngày càng tăng của những ngôi làng này bắt nguồn từ sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm du lịch, đầu tư nhà nước, quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng và sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng ở vùng đồng bằng. Một nghiên cứu điển hình về một ngôi làng như vậy sẽ giúp chứng minh tác động của việc thương mại hóa rượu ngô.

Sự phát triển của các thị trường thương mại rộng lớn hơn cho những hàng hóa này đang tạo ra những cơ hội cũng như không gian tranh chấp và lật đổ mới, từ đó dẫn đến các cuộc đàm phán và ứng biến sáng tạo. Những logic cụ thể đóng khung các chuỗi hàng hóa rượu vùng cao này thể hiện rõ ràng trong các diễn ngôn, kiến ​​thức và cách thể hiện đang thay đổi mà qua đó dòng chảy của những hàng hóa này đang được định hình và định hình lại.

Một truyền thống gia đình.

Trước đây, các hộ gia đình người Mông thường tự sản xuất rượu nhưng ngày nay một số gia đình chuyên chưng cất rượu để trao đổi với các hộ khác hoặc để buôn bán. Kiến thức truyền thống địa phương về nghề này được lưu truyền qua nhiều thế hệ và được coi là tài sản thiết yếu của hộ gia đình.

Ở vùng cao Việt Nam, chuyên môn hóa sản xuất rượu được người Mông xem là biểu tượng của uy tín, một phần vì nó phản ánh sự giàu có của một hộ gia đình.

Theo anh Cau, một người Hmong sản xuất và buôn bán rượu ngô ở tỉnh Lào Cai,

“Có nhà chỉ nấu rượu khoảng 5 lần/năm, có nhà làm quanh năm. Những hộ sản xuất nhiều rượu hơn như nhà tôi cũng buôn bán. Đây là điều đã được truyền lại cho chúng tôi từ những người lớn tuổi. Bố mẹ, ông bà và các cụ của tôi sản xuất rượu ngô để bán nên bây giờ đến lượt tôi kế nghiệp. Có gia đình đã chuyên làm nghề này từ rất lâu; những gia đình này được người dân trong làng biết đến và kính trọng”.

Đối với một số nhà sản xuất người Mông như Chia, người đã chưng cất rượu ngô 18 năm, buôn bán rượu được ưa thích hơn việc bán hạt ngô.

Tiếp bước cha mẹ, Chia giải thích: “Việc sản xuất rượu đã có trong lịch sử gia đình tôi và tôi không muốn đánh mất văn hóa của mình”.

Mong muốn gắn bó với nghề chưng cất và kinh doanh rượu ngô của anh càng trở nên quan trọng hơn bởi thực tế là bản thân hạt ngô đang trở thành cây trồng vùng cao có lợi nhuận cao ở phía đông sông Hồng.

Giá trị và uy tín cao mà những người Hmong ở Việt Nam mang lại cho hoạt động sản xuất và buôn bán rượu mạnh trái ngược với tình trạng xảy ra ngay bên kia biên giới ở huyện Maguan, Vân Nam. Ở đó, thanh niên và người lớn tuổi người Mông giải thích rằng trước đây nhiều hộ gia đình chưng cất rượu nhưng ngày nay rượu ngô công nghiệp được mua ở các cửa hàng hoặc chợ.

May, một phụ nữ Hmong ở độ tuổi 20, lớn lên ở vùng nông thôn huyện Maguan, kể với chúng tôi: “Người làng tôi từng làm rượu ngô nhưng đã bỏ nghề sau khi ngừng nuôi lợn. Ngày xưa họ vừa trồng ngô vừa thu mua ngô để làm rượu nhưng hiện nay một quán trong làng chỉ bán rượu người ta mua về dùng trong đám cưới, đám tang.

Ngày nay ở Maguan, nhiều người Hmong, cũng như các thành viên của các nhóm thiểu số khác mà chúng tôi đã nói chuyện, coi việc sản xuất rượu là một công việc vất vả và đặc biệt là giới trẻ dường như không muốn tham gia vào hoạt động này.

Hơn nữa, trong khi rượu ngô vẫn giữ được tầm quan trọng về mặt văn hóa xã hội, rượu được sản xuất công nghiệp hiện được nhiều người Hmong và Zhuang ở Vân Nam coi là có chất lượng ngang bằng hoặc cao hơn so với các loại rượu chưng cất tại nhà.

Kết quả là, ở phía bắc biên giới, việc sản xuất rượu phần lớn đã trở nên tách rời khỏi văn hóa, nền kinh tế uy tín và sự giàu có của hộ gia đình.

Rượu vùng cao và phương trình sinh kế của người Hmong

Ở vùng cao Việt Nam, rượu do các hộ gia đình người Mông chưng cất thường được sản xuất từ ​​gạo hoặc ngô. Đôi khi, các loại cây lấy củ như sắn được sử dụng, mặc dù nhiều nhà chưng cất cho rằng loại rượu này có chất lượng kém và không thể bán được với giá tốt trên thị trường.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi loại ngũ cốc mà nhà chưng cất sử dụng là loại cây trồng chủ lực ở địa phương. Chúng tôi nhận thấy rượu gạo được sản xuất nhiều hơn ở phía tây sông Hồng, nơi địa hình và khí hậu cho phép sản xuất lúa nước bậc thang. Rượu ngô có xu hướng là rượu được sản xuất ở phía đông con sông, nơi điều kiện khô hạn và thổ những thích hợp với ngô hơn lúa.

Thật vậy, ở khu vực phía đông của Lào Cai, cũng như ở tỉnh Hà Giang xa hơn về phía đông, ngô là nguồn sinh kế chính của người dân Hmong, những người tiêu thụ ngũ cốc, sử dụng trong chăn nuôi gia súc và bán ở chợ dưới dạng rượu hoặc làm ngũ cốc cho ngành thức ăn chăn nuôi  ở đồng bằng sông Hồng.

Việc một hộ gia đình có chưng cất rượu hay không phần lớn được quyết định bởi khả năng tiếp cận đủ đất để tạo ra lượng gạo hoặc ngô dư thừa vượt quá nhu cầu sinh hoạt hàng năm.

Những hộ này – những người vẫn làm nông nghiệp nhưng cũng chuyên sản xuất rượu thường xuyên – do đó có xu hướng khá giả hơn, có thửa đất lớn hơn.

Do đó, việc sản xuất rượu ở một mức độ nào đó phản ánh sự khác biệt về kinh tế xã hội trong và giữa các thôn. Tuy nhiên, đồng thời, việc thu hẹp diện tích đất nông nghiệp của các hộ gia đình đang dẫn đến việc giảm sản lượng lúa và rượu ngô ở một số vùng miền núi Việt Nam. Như đã lưu ý ở trên, các hộ gia đình người Mông theo chế độ phụ hệ và con trai thường được thừa kế thửa đất từ ​​cha mẹ khi kết hôn.

Những thỏa thuận thừa kế theo truyền thống này, khi kết hợp với các yếu tố khác, chẳng hạn như tăng trưởng dân số, nhập cư và việc giao đất do chính phủ tài trợ, đang tạo ra một mô hình tổng thể về tình trạng giảm quỹ đất sẵn có trên mỗi hộ gia đình.

Ví dụ, cho đến những năm 1990, người Mông ở các xã thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào cai như Tả Van, Lao Chải, Giàng Tả Chải, Tả Phìn đều tham gia sản xuất rượu gạo quy mô nhỏ thường xuyên, chủ yếu phục vụ nhu cầu gia đình, tiêu dùng hoặc mua bán, trao đổi trong thôn. Ngày nay, chỉ còn một số hộ gia đình ở các xã này có thể tiếp tục chưng cất vì diện tích đất trồng lúa bình quân đầu người đã bị thu hẹp.

Các hộ gia đình hiện nay sử dụng nhiều đất hơn để trồng lúa phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày. Hơn nữa, nông dân Hmong ở huyện Sa Pa giải thích rằng họ chỉ có thể làm rượu nếu họ nuôi nhiều lợn. Do đó, hầu hết các nhà sản xuất Hmong ở các thôn lân cận, những người bán hàng ở chợ Hmong hoặc các hộ gia đình Giáy địa phương nằm trong các thung lũng vẫn tiếp tục chưng cất ở quy mô lớn hơn.

Trong khi sự khan hiếm đất nông nghiệp bình quân đầu người ngày càng tăng đồng nghĩa với việc sản xuất rượu đang trở thành một hoạt động chuyên môn hơn, thì đối với các hộ gia đình vẫn có đủ đất để hỗ trợ sản xuất thường xuyên, thu nhập từ rượu ngày càng trở nên quan trọng như một cách kiếm tiền rất cần thiết để trả tiền mua hạt giống và vật tư nông nghiệp.

Do đó, việc mở rộng hoạt động buôn bán rượu của các hộ gia đình này có liên quan trực tiếp đến việc Nhà nước Việt Nam khuyến khích các giống lúa lai, giống ngô và các đầu vào nông nghiệp có thể kiếm tiền khác.Các giống lai cũng có một số tác động trực tiếp đến việc sản xuất rượu.

Tại huyện Bát Xát và Sa Pa, tỉnh Lào Cai, những người được phỏng vấn giải thích rằng gạo dùng để sản xuất rượu không còn là giống lúa truyền thống mà là giống lai.

Theo truyền thống, các giống lúa địa phương được đánh giá cao hơn nhờ hương vị vượt trội so với các giống lúa lai, chúng được dành cho tiêu dùng trong gia đình. Hơn nữa, việc sử dụng các giống địa phương để sản xuất rượu hiện được coi là lãng phí vì thiếu đất nên khó tạo ra đủ sản lượng để chưng cất quy mô lớn hơn.Đối với người Hmong và những người sản xuất rượu ngô thuộc các dân tộc thiểu số khác, tình hình còn phức tạp hơn.

Những người chưng cất rượu Hmong coi hạt giống ngô lai có chất lượng thấp và họ không thích sử dụng những hạt giống này để làm đồ uống bán trên thị trường. Do đó, các nhà sản xuất rượu chuyên dụng ở tỉnh Lai Cai và Lai Châu chỉ cố gắng chưng cất rượu từ giống ngô địa phương của họ.

Tuy nhiên, ở các vùng cao phụ thuộc vào ngô, các hộ gia đình trồng ngô lai ngày càng nhiều với mục đích tiếp thị nó dưới dạng ngũ cốc và thức ăn chăn nuôi. Các nhà chưng cất ở Hà Giang ngày càng dựa vào ngô lai do điều kiện sinh thái nông nghiệp khó khăn nên sẽ thỏa hiệp khi cần thiết và sử dụng ngô lai.

Tuy nhiên, người Hmong thích ăn các giống ngô truyền thống của địa phương và ngô lai vẫn chưa được con người ưa chuộng, chẳng hạn như bột ngô, một loại lương thực chủ yếu của người Hmong.

Thu nhập và sử dụng thu nhập của hộ gia đình

Ngoài các chức năng văn hóa xã hội và mức độ liên quan của rượu vùng cao như một biểu tượng cho kiến ​​thức truyền thống và vốn văn hóa của hộ gia đình, nó còn đóng một vai trò tài chính quan trọng đối với người Hmong và các dân tộc thiểu số khác tham gia sản xuất.

Buôn bán rượu dường như là một chiến lược sinh kế sinh lợi hơn so với bán gạo hoặc ngô – nhưng lại kém lợi nhuận hơn bạch đậu khấu. Lò Mây, một phụ nữ người Yao sản xuất và buôn bán rượu ở xã Thanh Kim, huyện Sa Pa, từng bán số gạo dư thừa của mình nhưng sau đó nhận ra rằng mình có thể kiếm được nhiều tiền hơn nhờ buôn bán rượu.

Năm 2009, Lò Mây có thể thu về 140.000 đồng nhờ bán 40kg lúa lai. Tuy nhiên, dùng số tiền tương tự để sản xuất rượu, cô có thể thu về 600.000 đồng – gấp hơn 4 lần.

Tuy nhiên, quan sát của chúng tôi cho thấy rằng các nhà chưng cất không sản xuất nhiều rượu hơn mức cần thiết để duy trì sinh kế chung của họ. Doanh thu từ việc bán rượu thường được chuyển trở lại sản xuất gạo hoặc ngô để tiêu dùng và chưng cất thêm.

Thu nhập từ việc bán rượu cũng tài trợ cho việc mua hạt giống lai hàng năm cũng như các loại phân bón và thuốc trừ sâu tốn kém nhưng cần thiết để những hạt giống này phát triển tối ưu.

Các khoản mua sắm thường xuyên khác từ thu nhập thương mại được các nhà sản xuất rượu Hmong trích dẫn bao gồm các mặt hàng sử dụng hàng ngày trong gia đình, thịt, gạo (đặc biệt ở các vùng trồng ngô), và ít phổ biến hơn là thiết bị nông nghiệp, trâu, xe máy và chi phí giáo dục cho con em.

Quá trình sản xuất

Mặc dù hãy nhớ rằng các quy trình sản xuất cụ thể cho các loại rượu khác nhau là khác nhau, nhưng mô tả của các nhà sản xuất Hmong về quy trình chưng cất cơ bản cho thấy rằng chúng vẫn có công nghệ thấp và chi phí thấp, giống như các quy trình được mô tả trong các báo cáo của thực dân Pháp từ cuối thế kỷ 19, những năm 1890.

Cái khác là các máy chưng cất ngày nay cũng sử dụng hạt lai khi cần thiết và sản xuất các chất lên men; mặt khác, không có nhiều thay đổi.

Dụng cụ chưng cất được sử dụng ở một làng người Mông ở Lào vào cuối những năm 1960 cũng tương tự như những dụng cụ chưng cất ở vùng cao Việt Nam ngày nay.

Hệ thống này còn thô sơ nhưng hiệu quả, mặc dù thực dân Pháp không mấy ấn tượng với nó, họ lưu ý rằng “Người dân trong vùng sản xuất rượu eau de vie (rượu) có chất lượng kém hơn so với rượu sản xuất ở Đồng bằng do quy trình sản xuất rất thô sơ. Sau khi thu hoạch, mỗi gia đình người Mông hoặc Mân (Yao) dựng một hoặc vài thùng chưng cất rất đơn giản tại nhà. Thóc được giữ nguyên vỏ trấu, đựng trong hũ lớn hoặc thùng gỗ để lên men tự nhiên. Ở mức thấp nhất của gầu là một ống tre để chưng cất từng giọt rượu vào một thùng đất nung. Loại rượu này không được người An Nam (Kinh) đánh giá cao. Một số nhà sản xuất (Hmong và Yao) thích loại rượu này hơn choum-choum (rượu) từ vùng đồng bằng “

Thời đó, như bây giờ, việc chưng cất cần có một cái chảo thép lớn thuộc loại mà các hộ gia đình thường dùng để nấu nướng, một thùng gỗ không có nắp (cùng loại được người Hmông dùng để nhuộm chàm) và một dụng cụ bằng kim loại có đáy lõm trên đỉnh thùng.

Ma, một phụ nữ người Mông mà gia đình thường xuyên chưng cất rượu để bán ở chợ địa phương, đã nêu ra các bước chính trong quá trình sản xuất rượu (bằng gạo hoặc ngô nguyên vỏ):

  1. Chúng tôi phơi khô ngũ cốc dưới ánh nắng mặt trời
  2. Chúng tôi đun sôi gạo hoặc hạt ngô trong chảo lớn trên lửa từ 5 đến 8 tiếng, tạo thành hỗn hợp nhuyễn
  3. Chúng tôi làm nguội hỗn hợp đã nhuyễn đó. Sau đó, chúng tôi thêm chất lên men ban đầu và hương liệu khác. Chúng có thể bao gồm các loại thảo mộc, gia vị và các loại lá đặc biệt khác nhau được trồng trong vườn nhà của chúng tôi hoặc được thu hoạch từ rừng. Hỗn hợp này được đặt trong một thùng chứa và để lên men trong bốn đến mười ngày.
  4. Sau khi lên men, chúng tôi chuyển hỗn hợp vào thùng gỗ lớn. Thùng này được gắn một ống tre chèn vào bên cạnh. Bên trên đặt một chiếc bát kim loại chứa nước mát. Đồ chứa được đặt trên bếp và nấu chín. Chúng tôi cố gắng giữ nhiệt độ ổn định và được kiểm soát chặt chẽ.
  5. Rượu (khói) bốc lên trên đỉnh thùng, tại đây chúng ngưng tụ ở đáy bát kim loại chứa nước lạnh và bắt đầu nhỏ giọt xuống ống tre. Chúng tôi thu thập chất lỏng (bằng phễu) và chuyển nó vào thùng đựng.
  6. Đôi khi chúng tôi lặp lại việc này (chưng cất lại) để làm cho rượu mạnh hơn.

Gia đình của Ma, cùng với nhiều người khác, đầu tư đáng kể lao động chân tay và thời gian – lên tới hai tuần cho mỗi chu kỳ sản xuất – vào việc sản xuất rượu. Họ phải tìm nguồn nguyên liệu từ rừng, sản xuất hoặc mua chất  “men” khởi đầu, trồng và thu hoạch lúa hoặc ngô, tất cả đều trải qua một quy trình chưng cất kéo dài và tinh tế đòi hỏi bí quyết đáng kể.

Lượng rượu mà người Hmong có thể thu được từ mỗi mẻ thay đổi tùy theo kỹ năng kỹ thuật, lao động sẵn có trong gia đình của họ, chất lên men được sử dụng, loại ngũ cốc và thời tiết, cùng các yếu tố khác.

Các nhà sản xuất giải thích rằng 40 kg thóc tạo ra 16 đến 20 lít rượu gạo, trong khi cần khoảng 60 kg ngô để tạo ra 20 lít rượu ngô. Chúng tôi ước tính rằng loại rượu này thường nằm trong khoảng từ 35 đến 50 phần trăm theo thể tích.

February 29, 2024 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
Rose

Mùa chim én bay (7)

by Rose & Cactus February 26, 2024

Mẹ mình bận trước gọi điện nói chuyện với mình bảo: Con ơi, mẹ mới đọc bài con rồi, con cứ viết đều đi nhé để mẹ đọc. Con viết vui quá cơ :)).

Thật mình chẳng có niềm vui nào hơn thế, định hỏi dò bà cụ: Thế mẹ (cười) đã sái quai hàm chưa ? :)) nhưng lại thôi, ăn nói thế sợ phạm thượng :)) trời đày xuống 9 tầng Địa ngục lại chả có cơ hội viết tấu hài cho các bạn xả stress :)) (may ra có “cụ xứ” cụ mở tiệc ăn mừng vì hết người nói xấu cụ, lúc đó cụ mới chính thức “xuống núi” :)).

Ối giồi ôi, nhưng nói thật với cụ đợi được bữa tiệc ăn mừng của cụ, và cũng là ngày thằng William lấy được vợ, thì răng thi sĩ cũng rụng hết mất rồi :)). Chứ chả à, vì mình đi xem bói thầy bói phán mình sống đến 100 tuổi có lẻ cơ, sống dai đến ăn hết phần con cháu :)).

Vậy nhé, giờ mình xin được quay trở lại câu chuyện mình định nói.

Mẹ mình năm nay gần 70 mắt cũng đã kém nhiều và hay bị mỏi nên giờ bà ít đọc mà chuyển sang nghe (chắc lại Jiu Túp bà Tân Vê lốc :)). Chứ thời còn trẻ hơn mẹ cũng hay đọc sách báo. Ngoài vài tờ báo mẹ đặt ở cơ quan cho gia đình mình thì những tờ báo chung của phòng mẹ và phòng khác sau khi mọi người đọc xong mẹ đều mượn về nhà cho mình đọc.

Bố mình thì là bộ đội nên ông thích đọc báo an ninh và quân đội. Những quyển Văn nghệ Quân đội rất dày, hình như được phát hành mỗi Quý một lần, mỗi lần về phép từ đơn vị ở Tây Nguyên ông cũng hay mang về theo và mình thường giữ lại.

Ngày xưa hay có các tập san truyện ngắn hay ghê, như Văn nghệ quân đội (của báo Quân đội nhân dân), Áo trắng (của NXB Trẻ), Hương đầu mùa (của báo Hoa Học Trò) thì mình gần như là “con mọt” luôn. Ngoài những truyện ngắn trữ tình trên các ấn phẩm đó thì các câu chuyện hài hước trên Tuổi trẻ Cười mình cũng không mấy bỏ sót (toàn đọc nhờ báo nhà cô hàng xóm phát thanh viên truyền thanh đối diện nhà mình như trong Loạt truyện mình đã viết về thời học cấp ba của mình đó).

 Có hai tờ báo của Tp.HCM mình rất thích từ ngày mình còn là học sinh ở quê là Tờ Tuổi trẻ Cười + Tuổi trẻ cuối tuần (đều của báo Tuổi trẻ) và Tờ Thời Báo Kinh tế Sài Gòn. Từ mấy chục năm trước, các nhà báo kỳ cựu phía Nam có thể do trước đây được tiếp xúc nhiều hơn với báo chí phương Tây (so với phía Bắc) nên cách viết và bố cục bài viết của họ mang hơi hướng kiểu Anh Mỹ hơn: Hài hước, dí dỏm, hiện đại nhưng vẫn có chiều sâu.

Mình đặc biệt thích đọc cái bài viết về các vấn đề kinh tế, vốn bản chất khô khan, theo hướng viết này. Sau này có vài bác sĩ viết các vấn đề về sức khỏe trên “Tuổi trẻ” cũng rất vui và hài, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một ví dụ.

Tiếc là thời đỉnh cao của báo giấy đã qua lâu rồi!

Hôm nay tự dưng mình nhớ lại là bởi báo Xuân vốn luôn là một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với thế hệ những người yêu đọc và viết thế hệ mình. Vì những tờ báo Tết luôn là ấn phẩm chất lượng nhất trong năm, nơi tập hợp rất nhiều các tản văn, tùy bút, các bài thơ Xuân vừa bay bổng mà lại vừa sâu lắng của nhiều cây viết được bạn đọc yêu thích!

Ngày xưa thiếu thốn nhưng nhờ đọc nhiều sách báo nên thời học sinh mình cũng hay viết lách vớ vẩn nhiều. Ngoại trừ lớp 12 phải tập trung lo ôn thi đại học nên dừng hẳn 1 năm chứ còn học hành bận mấy thì bận, thi cử cứ thi cử,kệ, ngày nào cũng phải dành 1,2 tiếng để viết.

Viết đôi khi chỉ để giữ cho riêng mình chứ cũng chẳng gửi đi đâu cả nhưng vì thích thì viết thôi. Buồn cười nhất là thời đó mình toàn viết  mấy truyện tình cảm con gà bông mà chính mình 17,18 rồi nào đã biết Yêu là gì :)).

Cả lớp mình  33 mạng, tốt nghiệp lớp 12 mà có đúng 3 đứa là có yêu đương, còn 30 đứa ngố tàu còn lại “chỉ biết điên tiết với ba đứa kia thôi chứ chả làm được gì” :)). Gía kể lúc ấy chúng mình mà có bị bồ đá thì (chắc là) cũng vẫn thấy vui vì ít ra là còn (đã từng) có bồ, đây làm gì có mà bị (được) đá, “nhục” chưa :)) ?

Thế nên 30 số phận đáng thương, khốn khổ, bơ vơ không nơi nương tựa, huhuhu, chỉ còn biết dồn sức vào …chơi :))), cho bọn đã trúng mũi tên thần Cupid ganh tị chết đi vì cái bọn đó chỉ biết đến nhau thôi chứ mà làm gì biết đến…. “chơi bời trác táng” :))

Đấy, đại loại là thời cấp ba tươi đẹp mà lại bi thương về khoản Tình yêu thế đấy các bạn ạ :)). Chúng mình cứ ca bài ca “đời tôi cô đơn” dài cổ đến tận khi đi làm mới bắt đầu thực sự biết mùi “Chết trong lòng một tí” :)). Mà đến lúc ấy “chết” là “chết” hẳn luôn, chết đứ đừ đừ không nhúc nhích :))

Nên các bạn mới lớp 10 thì cứ vui vẻ đi nhá, tận hưởng cuộc sống độc thân là khỏe nhất, chả vướng bận làm gì cho nhức đầu :)). Đấy các bạn nhìn gương anh Leo đó, ảnh chạy cờ lông công lên với ông nhạc tương lai của ảnh mà có đáp ứng được yêu cầu của ổng đâu. Nội tiêu chí “chịu đựng đủ bảy giờ một ngày, bảy ngày một tuần nghe tiếng sư tử, hổ báo, vượn rú khỉ kêu từ trong nhà ra ngoài ngõ” đã đủ khiến ảnh “đầu hàng không điều kiện rồi” :)):

-DẠ CHÁU XIN HÀNG Ạ. CHÁU XIN TRỞ VỀ CUỘC SỐNG CỦA “NHỮNG NGƯỜI ĐỘC THÂN VUI VẺ” ĐỂ HÀNG NGÀY CHÁU SÁNG TÁC THƠ CHO HỘI THƠ CỦA THẰNG WILLIAM BẠN CHÁU ĐẶNG KIẾM MẤY ĐỒNG NHUẬN BÚT MÀ SỐNG SÓT CHO QUA NGÀY!

:))

NGƯỜI H’MONG

By Sarah Turner

5.

Trên khắp vùng biên giới Trung-Việt, sinh kế nông thôn và các mối quan hệ xã hội luôn trong tình trạng thay đổi. Trong khi một số xã hội vùng cao thận trọng trong việc thay đổi các tập quán lâu đời đã phù hợp với họ qua nhiều thế hệ, thì những xã hội khác lại đón nhận những triển vọng mới do chuyển đổi nông nghiệp, thị trường hàng hóa sâu rộng, tăng cường thương mại, tự do hóa thị trường, cơ sở hạ tầng và công nghệ truyền thông mới mang lại.

Những tình thế tiến thoái lưỡng nan được tạo ra bởi sự kết hợp giữa các nguyên tắc hiện đại và những thực hành này đặc biệt rõ ràng trong trường hợp một lâm sản ngoài gỗ vùng cao, bạch đậu khấu, hiện được thương mại hóa trên khắp các vùng cao này.

Nhu cầu về loại gia vị có giá trị cao này đã tăng lên đều đặn trong hai thập kỷ qua và nhiều nông dân người Hmong đã nắm bắt cơ hội trồng bạch đậu khấu, loại cây phải được trồng dưới tán rừng. Bạch đậu khấu được vận chuyển đến vùng đồng bằng thông qua trung gian hoặc thường xuyên hơn được xuất khẩu sang Trung Quốc theo chuỗi hàng hóa phức tạp.

Thương mại diễn ra thông qua mạng lưới các mối quan hệ xã hội, cơ cấu quyền lực không đồng đều và lợi nhuận kinh tế khác nhau giữa các chủ thể cạnh tranh để tiếp cận các nguồn tài nguyên quan trọng trong suốt quá trình.

Giống như khi cây anh túc trở thành cây trồng chính và thuốc phiện trở thành sản phẩm được đánh giá cao ở những vùng núi này, không phải tất cả người dân địa phương đều được hưởng lợi như nhau từ sự bùng nổ bạch đậu khấu hiện nay. Thật khó để không nhận ra sự tương đồng giữa hai mặt hàng này khi nhìn vào ảnh hưởng của chúng đối với sự cân bằng kinh tế và chính trị ở vùng cao.

Hãy ghi nhớ tiền lệ về thuốc phiện khi đánh giá tác động ngắn hạn và dài hạn của bất kỳ loại cây trồng thương mại hoặc sản phẩm rừng mới nào đối với nền kinh tế địa phương giúp chúng ta giải thích ý nghĩa kinh tế xã hội của các loại cây trồng “mới”, đưa ra những kết luận sâu sắc hơn và có nguồn gốc lịch sử hơn.

Khai thác lâm sản

Người Hmong rất tôn trọng đất đai và mùa màng. Do đó, các quyết định về môi trường được điều chỉnh không chỉ bởi lý do kinh tế mà còn bởi các lối sống và tín ngưỡng văn hóa góp phần duy trì phong tục, bản sắc và một trật tự thế giới nhất định. Các vùng đất rừng cụ thể vẫn còn nguyên vẹn, đặc biệt nếu chúng được cho là nơi ở của các linh hồn nhân từ, trong khi luật tục áp dụng để quản lý tài nguyên chung.

Như Claes Corlin giải thích, “Lãnh thổ và tài nguyên của nó – nước, thảm thực vật và thú săn – thuộc về tổ tiên và linh hồn của địa phương, còn con người sống chỉ đơn giản là những người quản lý vùng đất này”. Do đó, hệ thống sinh thái nông nghiệp của người Hmong có thể được coi là “sự dung hòa giữa hai nhu cầu: nhu cầu về lương thực và những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống nhưng cũng là sự tôn trọng sâu sắc đối với thiên nhiên và tinh thần của nó”.

Ngoài ra, các hệ thống này có thể được coi là sự cân bằng giữa nhu cầu vật chất trước mắt và tính bền vững của môi trường, tính bền vững của môi trường bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự hiện diện của các linh hồn trong tự nhiên.

Ở cả hai bên biên giới Trung-Việt, người Hmong, giống như nhiều xã hội khác của khối núi Đông Nam Á, sử dụng kiến thức sâu rộng về các sản phẩm rừng có thể ăn được để bổ sung vào chế độ ăn uống của mình khi không cần lao động ở nơi khác.

Một số thực phẩm  theo mùa – ví dụ như măng, được thu hoạch vào mùa mưa từ tháng 3 đến tháng 6 – trong khi những thực phẩm khác có sẵn quanh năm, chẳng hạn như tổ ong rừng, thú săn, côn trùng hoặc nấm mọc nhiều sau mưa lớn. Ngoài ra, quanh năm, phụ nữ và trẻ em thu hái củi ở các khu vực rừng gần nhà hoặc trên các nương rẫy, trong khi đàn ông đi lấy củi từ những nơi xa hơn.

Rừng thật hào phóng. Cây thuốc là nguồn tài nguyên rừng được thu thập rộng rãi bởi cả hộ gia đình thông thường và những người chữa bệnh chuyên môn, những người xử lý những cây này khác với lâm sản được thu thập để tiêu thụ thông thường. Có thể nói nhiều điều về y học cổ truyền và cách chữa bệnh cũng như ảnh hưởng của chúng đối với bản sắc người Hmong.

Thuốc hoang dã giúp các hộ gia đình dễ dàng tiếp cận các sản phẩm chăm sóc sức khỏe phục vụ các chức năng thiết thực cũng như mang tính biểu tượng. Các tập quán chăm sóc sức khỏe của người Hmong, bao gồm cả thầy lang và việc sử dụng các loại thuốc thực vật, cả tươi và khô, khác biệt với các phương pháp chữa bệnh truyền thống của người Hán hoặc người Kinh.

Tại chợ Mengzi, Honghe, tỉnh Vân Nam, một người buôn bán thảo dược lưu động của người Hmong đã nhấn mạnh với chúng tôi về sự độc đáo của phương pháp chữa bệnh bằng thảo dược của người Hmong và thuyết phục chúng tôi thử phương pháp chữa trị “giảm căng thẳng” mới nhất của cô ấy – với những kết quả còn gây tranh cãi (đáng buồn thay)

Một thầy lang người Hmong lớn tuổi ở Maguan, tỉnh Văn Sơn, giải thích rằng ngay cả khi người Hmong ở thành phố, chẳng hạn như con trai ông, hiện đang làm việc cho chính quyền địa phương, có xu hướng thiên về ‘y học hiện đại’, họ vẫn gọi ông để điều trị một số loại bệnh.

Một số thanh niên người Mông đã tận dụng một thị trường ngách nhỏ để bán hoa lan dại làm cảnh và làm thuốc – được người dân vùng thấp coi là mặt hàng uy tín và xa xỉ – nhu cầu được thúc đẩy bởi hàng nghìn khách du lịch người Kinh đi du lịch cuối tuần đến thị trấn Sa pa.

Những người hái lan mang cây vào thị trấn Sapa vào ngày chủ nhật và bán bên đường hoặc bán cho thương lái người Kinh. Những người buôn lan này không chỉ phục vụ nhu cầu du lịch địa phương mà còn giao dịch với các doanh nghiệp có trụ sở tại các thành phố vùng thấp, bao gồm Hải Phòng, Hà Nội và TP.HCM. Tại một số huyện biên giới Lai Châu và Hà Giang, hoa lan rừng do người Mông thu hái cũng được các tiểu thương săn lùng, xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới sang Vân Nam.

Tuy nhiên, đối với các hộ gia đình người Mông trong và xung quanh Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn, việc buôn bán một số loại thực phẩm, thực vật và động vật hoang dã (đặc biệt là các loài chim biết hót và rắn, loại đầu tiên để bán sống, loại thứ hai ngâm trong chum rượu gạo) được coi là ngày càng có ít lợi nhuận hơn và ngày càng có nhiều rủi ro hơn do nguồn lực khan hiếm, các hạn chế về bảo vệ tài nguyên quốc gia ngày càng gia tăng và giá thị trường giảm.

Thực phẩm hoang dã trước đây đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ đói kém và bất ổn kinh tế hiện chỉ được thu thập bởi các hộ gia đình không có đủ đất trồng lúa hoặc ngô hoặc phải đối mặt với nhu cầu khẩn cấp về tiền mặt do các tình huống bất ngờ như tang lễ tốn kém hoặc đắt đỏ, hoặc phải nhập viên điều trị bệnh. Một ngoại lệ nổi bật đối với quy tắc này ở cả hai bên biên giới là bạch đậu khấu.

Bạch đậu khấu, từ thu hái đến hàng hóa

Cây thảo quả đen lâu năm thân thảo mọc tự nhiên ở những vùng tương đối nhiều mây, mát mẻ và ẩm ướt của khối núi Đông Nam Á. Cùng với các lâm sản khác, nó đã được người dân vùng cao khai thác trong nhiều thế kỷ, chủ yếu để sử dụng trong gia đình nhưng khi nhu cầu tăng lên, nó cũng được dùng để buôn bán. Tuy nhiên, cho đến đầu những năm 1990, hoạt động buôn bán này ở vùng biên giới vẫn còn khiêm tốn.

Ở Việt Nam, cây bạch đậu khấu được tìm thấy ở dãy núi Hoàng Liên và các vùng rừng thuộc tỉnh Lào Cai và Lai Châu. Phía đông Lào Cai, ở các tỉnh Hà Giang và Cao Bằng, cây bạch đậu khấu được trồng ít hơn nhiều do địa hình quá nhiều đá và lộ thiên, nhưng với nhu cầu ngày càng tăng, việc trồng trọt hiện nay diễn ra ở bất cứ nơi nào có thể.

Bạch đậu khấu đã được buôn bán trong nhiều thế kỷ trên khắp  Trung Quốc vì tính chất dược liệu của nó và ngày nay là một trong những loại gia vị đắt nhất thế giới tính theo trọng lượng trái cây khô, sau nghệ tây và vani.

Loại gia vị này thường được sử dụng như một thành phần trong các phương pháp chữa trị truyền thống của Trung Quốc cho bệnh đau dạ dày, táo bón, kiết lỵ và nôn mửa, cùng nhiều bệnh khác.  Một số hoạt động thương mại diễn ra thông qua các kênh chính thức, được tạo điều kiện thuận lợi bởi sự phát triển của ngành dược phẩm trong nước .

Đối với nông dân địa phương, việc trồng bạch đậu khấu như một loại cây trồng mang lại lợi nhuận rất có ý nghĩa. Thu hoạch và sấy khô các sản phẩm tự nhiên là một kiến thức bản địa gắn liền với văn hóa. Quy trình trồng bạch đậu khấu tương đối dễ nắm bắt và đòi hỏi ít lao động hơn nhiều so với lúa hoặc ngô, vì địa hình không cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng, không cần sức lao động của động vật và thời gian thu hoạch gia vị bổ sung cho các công việc thời vụ khác.

Bạch đậu khấu có tỷ lệ giá trị trên trọng lượng cao, một lý do khác khiến nó trở thành nguồn thu nhập cho nhiều người Hmong ở những vùng trồng trọt chính. Theo đó, nhiều hộ đã chuyển từ việc thu hái cây tự nhiên sang trồng và kinh doanh.

Việc buôn bán bạch đậu khấu hiện nay là theo nhu cầu. Chỉ riêng ở Châu Á đã có hàng tỷ người tiêu dùng thuốc tiềm năng và loài cây này có nhiều công dụng ẩm thực cho những người tiêu dùng khác trên toàn cầu.

Như nghiên cứu điển hình của chúng tôi bắt nguồn từ huyện Sapa, Việt Nam, cho thấy, hoạt động buôn bán này phát huy một mạng lưới phức tạp gồm các cá nhân: người trồng trọt, người trung gian, người bán buôn ở vùng cao, nhà sản xuất bạch đậu khấu ở Vân Nam, người buôn bán ở vùng đồng bằng ở Việt Nam và người tiêu dùng ở Trung Quốc, Việt Nam và những nơi khác.

Chuỗi mặt hàng bạch đậu khấu hiện nay ở huyện Sa Pa

Việc buôn bán bạch đậu khấu đương đại bắt đầu vào những năm 1990. Một số hộ gia đình người Mông ở huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai nhận thấy nhu cầu ngày càng tăng và giá cả xuyên biên giới tăng cao đã bắt đầu tăng cường thu hái thảo quả quy mô nhỏ theo thông lệ của họ.

Thời điểm đã chín muồi, khi các chính sách của chính phủ cấm sản xuất thuốc phiện và cắt giảm phần lớn hoạt động khai thác gỗ từ năm 1993 trở đi đã khiến nhiều người Hmong chuyển sang các nguồn thay thế khác để kiếm tiền. Hơn nữa, chính sách Đổi mới, tự do hóa kinh tế được tuyên bố vào năm 1986, đã dẫn đến việc bãi bỏ tập thể và mở ra khả năng tiếp cận thương mại thị trường.

Bạch đậu khấu nhanh chóng nổi lên như một loại cây trồng thay thế đầy hứa hẹn cho thuốc phiện và gỗ. Vụ mùa này mang lại lợi nhuận đủ để các hộ gia đình người Mông có thể nhận được khoản ứng trước chiến lược từ bên trung gian vào tháng 6 và tháng 7, những tháng mà một số gia đình bắt đầu trải qua tình trạng thiếu lương thực hàng năm đáng sợ.

Thu nhập bằng tiền mặt từ bạch đậu khấu đang đóng một vai trò ngày càng có giá trị trong các hộ gia đình người Hmong và hiện giúp nhiều người duy trì nguồn dự trữ đáng kể để đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình trong suốt cả năm, cũng như chi trả cho các đầu vào lúa lai, đám cưới và đám tang cũng như các khoản mua sắm lớn như tậu trâu.

Để tăng sản lượng, phương pháp truyền thống chỉ đơn giản là thu hái bạch đậu khấu trong rừng đã nhường chỗ cho việc trồng thảo quả có chủ ý dưới tán cây rải rác quanh dãy núi Hoàng Liên và các vùng rừng lân cận.

Ở huyện Sa Pa, bạch đậu khấu được thu hoạch từ tháng 8 đến cuối tháng 10, sau đó phơi khô trên ngọn lửa củi trong rừng từ hai đến ba ngày, tùy theo điều kiện thời tiết. Việc trồng trọt chủ yếu dựa vào công việc gia đình và sắp xếp lao động có đi có lại, với các yêu cầu lao động khác nhau tùy thuộc vào quy mô hộ gia đình và thu hoạch. Trồng bạch đậu khấu chủ yếu là công việc của nam giới do phải ở trong rừng xa nhà trong thời gian dài và nạ trộm cắp mùa màng luôn là một rủi ro.

Do tình trạng thiếu đất ngày càng tăng, nhu cầu không ngừng và số lượng người sản xuất tăng nhanh, sự cạnh tranh giữa các gia đình người Hmong trồng bạch đậu khấu ngày càng gia tăng. Năm 2006, Mao, một người H’mông trồng bạch đậu khấu ở xã Sa Pa – nằm khá xa trung tâm vườn quốc gia – đã lưu ý rằng “không có đủ đất rừng cho mọi người trong làng.

Mao lý luận rằng việc thiếu rừng thích hợp để canh tác trong khoảng cách đi bộ là do làng của ông lâu đời hơn, với mật độ dân số tương đối cao nên các hộ gia đình đã định cư đã khoanh vùng mảnh đất của mình. Ngược lại, các hộ gia đình ở xã San Sả Hồ, nằm trong VQG, tiếp tục trồng các cánh đồng bạch đậu khấu mới vì các thôn ở đó mới được thành lập gần đây và nằm gần rừng hơn.

Những người trồng bạch đậu khấu Hmông có xu hướng vẫn ở vị trí cuối cùng trong chuỗi hàng hóa đang mở rộng, giống như họ đã từng làm với thuốc phiện trước đây và với rượu vùng cao ngày nay. Thay vì trở thành những người chơi chủ chốt tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh, nông dân Hmong bán sản phẩm thảo quả thu hoạch thẳng cho những người trung gian không phải người Hmong.

Vào thời điểm thu hoạch, từ tháng 8 đến tháng 11, những người trồng trọt người Mông được những người trung gian trồng bạch đậu khấu đến thăm, phần lớn ở huyện Sapa là phụ nữ Kinh và Giáy.

Những người mua này, sống ở thị trấn Sa Pa hoặc quản lý các cửa hàng tổng hợp nhỏ ở các làng Hmong lớn nhất, là những đối tượng lý tưởng để mua bạch đậu khấu do họ tương tác hàng ngày và quen thuộc với người trồng trọt.

Thương mại thường được thực hiện bằng tín dụng. Mai Pham, một người Kinh bán buôn ở thị trấn Sa Pa, giải thích: “Hầu hết người dân (trung gian) đưa tiền mặt cho người Hmong trước, trước khi thu hoạch bạch đậu khấu”. Ngoài việc đảm bảo thỏa thuận sớm, hệ thống tín dụng này cho phép người dân làng Hmong mua gạo và các hàng hóa khác trong những tháng 6 và 7 khó khăn.

Nhưng điều đó cũng có nghĩa là họ bán một phần sản lượng thảo quả của mình với giá giả định, thường thấp hơn lợi nhuận thực tế vào thời điểm đó. Việc ràng buộc người sản xuất với một mức giá theo cách này mang lại cho các nhà trung gian người Kinh và Giáy lợi thế tài chính so với các nhà cung cấp người Hmong đang gặp khó khăn, về cơ bản quyết định tỷ suất lợi nhuận của họ.

Khi đã sẵn sàng, bạch đậu khấu được những người trung gian trong làng mua và vận chuyển bằng xe máy, xe jeep hoặc xe tải nhỏ đến những người bán buôn ở thị trấn Sa Pa, hầu hết đều là phụ nữ Kinh trung niên.

Thư Mountain,

Tôi đã đứng trước nhà của A Páo. Đó là một căn nhà ba gian  theo kiểu truyền thống của người Mông. Và, nó đã xuống cấp nghiêm trọng. Từ xa thấy rõ những vết nứt trên bức vách đất, như con rắn ngoằn ngoèo trườn từ chân tường lên đến xà. Đó là  những khoảng hở mà những cơn gió lồng lộng mùa Đông nơi biên ải này sẽ rất thích vì chúng được bay vờn, luồn lách, ra vào vào ra. Chỉ có những người trú trong đó là khổ vì cái lạnh. Lạnh ở đây có thể có băng tuyết chứ không đơn giản như dưới xuôi đâu.

Ngôi nhà thấp và xập xệ. Mái nhà được lợp bằng những viên  gạch nung  xám xịt, già nua được phủ bên trên những lớp lá cây dày, những chiếc lá rụng xuống từ những cây đào, cây mận được trồng ngay đầu hiên. Lớp lá  đã mục nát, thi thoảng có đàn chim bay lên sà xuống khiến một chút lớp mục ở phần rìa của mái rơi xuống lả tả, để lộ ra tình trạng thê thảm của những viên ngói, vỡ nát, cái trồi lên cái sụt xuống. Có chỗ một viên ngói đã bay đi từ khi nào, để hở ra cả những khoảng trống hoác.

 Chắc chắn, những ngày nắng, qua những lỗ thủng này những người trong nhà có thể thấy được cả khoảng trời bên trên; nhưng nếu mưa gió thì mới là tệ, nước sẽ xối xuống ào ạt mà chẳng có xô chậu nào có thể hứng kịp.

Trên cái nền đất lỗi lõm ngoài hiên,  chỏng chơ mấy cái chậu nhựa cáu bẩn, đâ sứt mẻ. Bên trong cái thì  lưa thưa vài hạt ngô, cái thì chồng chất những chiếc bát đũa chưa được rửa. Ngay trước bực cửa, mấy chú chó con đang đùa nghịch, tranh nhau giằng xé những  chiếc giẻ rách đen xì.

Ở bên phải hiên, chiếc dây phơi bệ rạc võng cả xuống, có vẻ như chủ nhân của nó chẳng buồn quan tâm căng nó lên lại cho thẳng thớm, khiến quần áo trên dây chạm cả vào những chiếc bao tải ngô dựng sát tường nhà. Nhìn sang trái lại thấy treo rất nhiều trái bắp vàng ươm, chắc vừa được hái chưa lâu. Đây có lẽ là hình ảnh đẹp nhất, sáng của nhất của ngôi nhà.

Căn nhà có hai cửa ra vào, một chính một phụ. Có lẽ do vị trí trên cao, mùa hè mát mẻ phải tương đương mùa thu dưới xuôi, mà mùa đông lại lạnh giá nên căn nhà không hề có cửa sổ. Nhấc chân qua một khung thanh chắn cửa, tôi bước vào nhà. Ban ngày mà trong nhà tối lắm. Ở giữa nhà có một cái cột trụ, bếp ăn được bố trí ở ngay ở bên trong nhà, bên tay trái

A Páo có vẻ ngượng nghịu mời tôi ngồi xuống cái ghế gỗ thấp đặt ở phòng ngoài:

-Nhà A Páo giờ có ai ở nhà không ?

Tôi hỏi

-Có bà nội A Páo thôi. Bà đang ở ngoài vườn

Thằng bé vừa dứt lời thì một người đàn bà với dáng vẻ hơi còng chậm rãi từ phía sau nhà đi vào sân. Tôi áng bà khoảng trên dưới 60. Dáng người bà thấp đậm, với tóc được cuốn trên đỉnh đầu. Bà mặc váy chàm hoa văn sặc sỡ, trên cổ đeo một cái vòng bạc đã xỉn màu.

-A Páo về rồi đó hả?

Bà cất tiếng hỏi và để nhúm rau cầm trên tay lên cái tấm phản tre ngoài sân

Nghe tiếng, A Páo chạy ra ngay:

-Bà ơi, nhà mình hôm nay có khách

Tôi cũng đi ra theo thằng bé, mỉm cười chào bà.

-Chào cháu. Cháu là thầy giáo của A Páo sao?

-Không bà ơi. Anh ấy là khách du lịch, muốn ghé qua nhà mình để tìm hiểu nhà của người dân tộc ta

A Páo nhanh nhảu lắm. Nó trả lời tranh cả phần tôi.

-Ồ, già vui quá được đón khách. Nhưng cái nhà này e làm cháu thất vọng rồi

Bà cụ buồn bã trả lời và ngồi xuống tấm phản

-Bà ơi, hôm nay bà có xuống chợ phiên không?

Tôi cũng ngồi xuống và hỏi cụ

-Lẽ ra là có đấy nhưng mấy hôm nay già cảm thấy người không khỏe, chân đau quá nên đành ở nhà.

Cụ ngưng một xíu rồi tiếp tục:

-Nhưng cứ ở nhà mãi thế này thì lấy gì mà ăn. Đi xuống chợ bán cái nọ cái kia còn có tiền mà đổi thịt, cá

-Xin lỗi cho cháu hỏi bố mẹ A Páo giờ này đang ở trên rẫy ạ?

Bà cụ nghe  tôi hỏi vậy thì rơm rớm nước mắt

-Không. Con dâu tôi, nó chết nhiều năm rồi, khi thằng A Páo mới 3 tuổi. Mùa lũ năm đó về nhanh quá, nước đổ xuống ào ào như thác, cuốn trôi tất cả, cả người cả lợn cả trâu. Mẹ nó lo cho đàn gia súc cứ quanh quẩn ngoài chuồng nên chạy không kịp rồi đi theo dòng nước dữ. Khổ thân, tôi thương nó lắm, chăm chỉ, chịu khó, nhu mì mà ra đi sớm quá. Con bé lấy chồng cũng khổ và đến lúc làm ma cũng vẫn khổ. Con trai tôi nó bệ rạc, suốt ngày chỉ có rượu chè, lêu lổng chứ nào giúp gì được cho mẹ, cho vợ con nó

Tôi không ngờ câu chuyện lại thành ra vậy

-Đấy, nó đi từ sáng, đến giờ mặt trời nên cao bằng con sào rồi mà đã chịu về đâu. Nó đi uống rượu đấy. Nó bị con ma rượu nhập vào rồi không bỏ được. Nó uống rượu nợ nần người ta nhiều quá nên nhà còn có con trâu duy nhất cũng bị họ đến bắt đi mất rồi. Giờ thì chẳng còn gì

Bà cụ dừng lại một chút rồi lấy ống tay áo lau mắt. Thằng Páo đứng cạnh cứ lay lay cánh tay bà nó

-Cái nhà ọp ẹp này là do ông chồng tôi làm từ ngày tôi lấy ông ấy. Ông ấy cũng vì rượu mà sinh bệnh rồi mất sớm, để lại một mình nó cho tôi nuôi. Nhưng nó lớn lên rồi cũng y như bố nó. Cả ngày chả thấy mặt đâu nhưng khi về đến nhà là say xỉn, quát tháo mấy đứa con khiến chúng sợ khiếp. Tội mấy đứa con nó, con Pao tháng trước đã nghỉ học rồi. Nhà hết tiền rồi, nó phải lên nương làm rẫy mới có cái ăn không chết đói hết. Con bé rồi còn khổ hơn cả mẹ nó!

Tôi thấy cụ đang xúc động quá định nói vài câu an ủi để cụ bình tâm lại thì từ ngoài cổng một giọng lè nhè cất lên:

-Thằng Páo đâu, đi lấy ngay cho bố mày một chén rượu nữa ra đây!

Một người đàn ông đen xạm, hom hem, gầy gò, mặt đỏ gay như gà chọi, chân nam đá chân chiêu đứng không vững phải dựa vào cái cột đá đầu cổng.

Thằng Páo ngay lập tức chạy ra đỡ lấy bố nó. Ông ta trong tình trạng đã say lắm rồi, không còn nhận thức được gì nữa nên lấy tay đẩy thằng bé ra, nhưng mất đà nhao về phía trước rồi ngã xuống cái nền đất ngay dưới gốc mận.

Không gian bỗng Im lặng như tờ, chẳng nghe ai nói câu gì.

Phải một lúc, bà cụ người Mông mới chống tay lên tấm phản, khó nhọc đứng dậy

-Ngày nào nó cũng thế này nên chúng tôi quen rồi. Hôm nay chắc hết tiền nên bị người ta đuổi về sớm chứ bình thường là phải đến đêm, khi con ma đã ẩn nấp trên những cành cây kia. Cậu đừng lo, nó không chết đâu, nó còn làm tội làm nợ mẹ nó con nó lâu lắm

Thấy tôi hốt hoảng nhưng cũng chưa biết phải làm gì bà cụ quay sang tôi nói như vậy.

Thằng Páo lúc này  kéo bố nó ngồi lên dựa váo gốc mận. Ba con chó con cứ xoắn xuýt bên chân cậu chủ nhỏ.  Khi bà nó tới, hai người hợp nhau lại để lôi người đàn ông mới hơn ba mươi mà nhìn già hơn đến chục tuổi, vào nhà. Nhưng bà cụ đang đau chân nên cũng không chịu được sức nặng của đứa con trai.

Tôi chạy ra ngay ngó ý giúp bà. Đưa cánh tay phải của người đàn ông Hmong lên vai tôi nghe hơi thở nồng nặc rượu phả ra từ cái miệng hôi hám. Suýt nữa thì tôi đã ói thay vì người say.

Loay hoay một lúc tôi và thằng Páo đã đưa được gã say vào nhà. Ông ta ngã vật xuống giường rồi lăn quay ra ngủ như chết, không còn biết đến trời đất gì nữa.

Bà cụ H’mong thở dài rồi đi về hướng gian bếp. Đã quá trưa sang chiều rồi.

Buổi trưa ấy, hai bà cháu nằng nặc giữ tôi ở lại dùng bữa. Bữa ăn đạm bạc, không có gì ngoài bát canh và một bát  mèn mén.

Mèn mén vốn ngọt mà tôi chỉ cảm thấy vị đắng ngập tràn.

Mời các bạn đọc truyện ngắn dưới đây của nhà văn Đỗ Bích Thúy mang tên “Tiếng đàn môi sau bờ rào đá”.  Tác phẩm này đã được chuyển thể thành bộ phim điện ảnh nổi tiếng “Chuyện của Pao”, được sản xuất cách đây cũng khá lâu rồi, cỡ khoảng gần 20 năm.

Nhà Văn Đỗ Bích Thúy quê Hà Giang và câu chuyện cũng diễn ra ở một ngôi nhà đá nào đó của một gia đình H’mong tại vùng cao nguyên xa xôi này

(vannghequandoi.com.vn)

Trước khi viết Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, tôi nghĩ đến Thương. Khi viết xong, gặp lại Thương, thì thấy may mà tôi không gặp lại Thương trước khi viết, nếu gặp, chắc chắn tôi không viết nổi truyện ngắn đó.

Thương là nguyên mẫu của nhân vật May (trong truyện); Pao (trong phim Chuyện của Pao), còn mẹ Già – bà Mao, là bà May – người mẹ Mông không sinh ra Thương.

Tôi chơi với Thương từ lúc tôi chưa vào lớp một. Cái xóm nhà tôi ở có cả người Kinh, người Tày, người Dao, người Mông. Thương có được đi học, nhưng chỉ lớp hai, lớp ba là bỏ. Thương là chị cả trong một gia đình có một ông bố, hai bà mẹ và năm đứa con: Thương – Anh – Nhớ – Bằng – Thắng.

Đứa em kế Thương, thằng cu Anh, ở nhà gọi là Chài. Tại vì Thương có một bà mẹ là người Kinh, nên năm chị em Thương mới được đặt tên theo kiểu người Kinh như vậy. Duy chỉ thằng Chài, lại ảnh hưởng theo cách người Tày thường gọi con trai lớn trong nhà.

Vì sao Thương lại có hai bà mẹ? Bố Thương tên là Chú và mẹ Già lấy nhau nhiều năm không có con. Khi bố Thương đi dân công làm đường Hạnh Phúc thì gặp mẹ Hoa của Thương. Đường làm xong thì ông Chú dẫn bà Hoa về nhà ở. Không cưới xin gì. Rồi lần lượt bà Hoa sinh ra năm đứa con.

Nhà Thương rất rộng, pha tạp giữa kiến trúc nhà của người Mông lẫn người Tày, lẫn người Kinh: mái lợp lá cọ, ba gian, mỗi bên có một cái buồng cửa ra vào che bằng một tấm ri đô hoa đỏ, gian bếp có bếp lò, có gác bếp trên treo lúa cum và ngô buộc thành túm. Hai căn buồng ấy một dành cho mẹ Già, một dành cho mẹ Hoa. Ông Chú thích ngủ ở buồng nào thì ngủ. Bọn trẻ con ngủ trên phản ngoài nhà.

Tôi chứng kiến bà Hoa lần lượt sinh bốn đứa con sau Thương, và đứa nào cũng được bà May chăm bẵm cặm cụi nuôi nấng y như thể chúng do chính bà sinh ra vậy. Bà Hoa thì cứ bận buôn bán gì đó, đi vắng suốt, hầu như đến nhà chỉ thấy có bà May.
Tôi hay cho Thương quần áo cũ, vì tôi không có em, mà tôi lại cao lớn hơn Thương một cái đầu. Và có khi cái áo tôi cho Thương năm trước, năm sau lại đến lượt cái Nhớ hoặc thằng Thắng mặc.

Đấy là một phần của Thương trước khi tôi viết Tiếng đàn môi sau bờ rào đá.
Khi tôi đưa Ngô Quang Hải, đạo diễn phim Chuyện của Pao lên Hà Giang gặp Thương, Thương và chồng, hai con đang ở trong một ngôi nhà vừa xây ở lưng chừng một quả đồi khô khốc, tường chưa quét vôi, nền chưa láng xi măng. Sau nhà là một con lợn nái sề đang vác cái bụng to đi lại lặc lè, vốn liếng của Thương đang để tất ở đó. Bà May khi ấy đang sống trong một ngôi nhà cùng với Thắng, đứa con út vừa đi bộ đội về, cách nhà Thương một đoạn.

Một năm sau đó, tôi lại đến.
Một chuyện rất buồn vừa xảy ra: Đứa con trai nhỏ của Thương, đi học về, cùng bạn chui vào trong bể nước đầu nguồn, nơi tích trữ nước cung cấp cho cả thị xã để tắm, và chết đuối trong đó.

Thương ngồi đó, trước bàn thờ con và chỉ biết lau nước mắt. Thằng con trai lớn thì ngồi thừ trước hiên. Thương nói: Nó (thằng bé), học giỏi lắm, không như anh nó đâu. Nhưng nó cũng nghịch hơn thằng anh nhiều. Ai mà nghĩ được là nó lại dám mò lên tận đỉnh núi rồi chui vào cái bể cơ chứ.

Hỏi: Thế bố chúng nó đâu?
Trả lời: Chắc đi uống rượu rồi. Làm được đồng nào cho vào chai rượu hết.

Những gì có thể bán được Thương đã đem bán làm đám tang cho con. Giờ phải chạy ăn từng bữa. Chồng sáng vác cưa đi, chiều vác cưa về với một cái bụng đầy rượu. Mặc vợ mặc con.
Bà May nghe tin tôi đến tất tả chạy ra, vớ lấy điếu cày, vo một cục thuốc to tướng nhét vào nõ, châm điếu, rít mấy hơi liền, khói phả mù mịt. Rót hai chén rượu đầy, tôi một bà một, uống cạn. Tôi hỏi:
– Cô dạo này thế nào ạ?
– Vẫn thế, vẫn hút được thuốc, uống được rượu.
Thương chen vào:
– Chúng nó đang đòi bán nhà đấy.
– Ai cơ?
Thì thằng Chài, thằng Thắng, cả cái Nhớ nữa. Cứ đòi bán để chia nhau.
Bà May rít thêm hơi thuốc:
– Tao có mắng mấy câu thì chúng nó cãi: Bà có đẻ ra tôi đâu mà mắng tôi.
– Hồi bà ngã gãy chân, còn chả đứa nào thèm hỏi han cơ – Thương đế thêm.
– Cái Thương cứ bảo tao ra đây ở, nhưng tao ở làm sao được, còn chồng con nó nữa chứ. Cuối cùng, còn mỗi con bé này thương tao thôi.

Tự dưng tôi thấy buồn ghê gớm. Tôi đã chứng kiến bà May trước mặt ôm thằng Thắng, sau lưng địu cái Nhớ, vừa nấu cám cho lợn, cuốc đất trồng rau, lội suối xúc cá. Ông Chú đã mất vì ung thư gan mười mấy năm trước, bà Hoa còn mất trước cả ông Chú.

Rốt cuộc, chỉ có mình bà May gồng gánh, nuôi nấng từng ấy đứa. Vậy mà khi đã trưởng thành, chỉ có Thương còn nghĩ được trước sau, nghĩ được công sức, ân tình mà người đàn bà Mông này dành cho năm chị em, còn lại, đều quên hết như thể dòng nước đã trôi qua vậy.

Bà May không may mắn được như nhân vật trong phim, Thương cũng không biết đến tình yêu là gì. Và cả hai chưa hề xem phim, cũng không đọc truyện của tôi. Những thứ ấy, với họ như là sản phẩm của thế giới nào khác. Bà May và Thương chỉ láng máng biết rằng tôi đã dựa vào cuộc đời họ để viết gì đó, và từ đấy họ lên phim. Họ ríu rít khi tôi về, là vì tôi với Thương đã có chung một tuổi thơ đầy thương mến ấy mà thôi.

Bây giờ, nơi được lấy làm bối cảnh bộ phim Chuyện của Pao ở Sủng Là, Đồng Văn đã trở thành một điểm du lịch không thể thiếu được trên hành trình lên cao nguyên đá. Thế nhưng, nguyên mẫu của hai nhân vật ấy chưa một lần đặt chân tới. Họ còn bận lao động quần quật lo cho cuộc sống thường ngày. Câu chuyện của quá khứ đã vùi sâu, rất sâu trong kí ức.

Chỉ có tôi chưa bao giờ quên hình ảnh bà May, phốp pháp trong chiếc váy Mông đồ sộ, khăn áo đầy mùi khói bếp, và địu trước cõng sau những đứa trẻ không phải do bà sinh ra. Giờ, đã cuối đời, ngồi hút thuốc lào và lặng lẽ thở dài khi nhắc đến cái cuộc đời vẫn còn đang tiếp diễn một cách khó khăn, mỏi mệt và không ít buồn phiền.

Tôi không biết mình có thể làm gì cho bà, để như một sự biết ơn về cái thân phận hiếm hoi ấy đã níu giữ tôi trở lại với một vùng đất nặng trĩu ân tình.Tôi sẽ không gặp lại một thân phận thứ hai như thế trong đời, cũng khó có thể viết một truyện ngắn nào mà nguyên mẫu lại ám ảnh đến như vậy.

Nhà văn ĐỖ BÍCH THÚY

TIẾNG ĐÀN MÔI SAU BỜ RÀO ĐÁ

1.

Dựng xong căn lều trên mảnh nương mới được bạn tồng nhường cho, ông Chúng mang mấy chiếc nồi bé sang, cả gạo, muối, dầu thắp, cả một con trong đàn chó canh nhà. Lúc bà hỏi ông, định đi luôn không về hay sao mà mang lắm thứ thế, ông bảo phải qua sông, lại cũng xa nữa, nên thỉnh thoảng ông phải ở lại.

Thực ra chính ông cũng biết đó chỉ là cái cớ, chứ nếu ông đi vắng thường xuyên thì nhà ông như thiếu tường đất, mưa không biết lấy gì mà che, gió không biết lấy gì mà chống. Chưa kể gần đây thỉnh thoảng lại có nhà trong bản bị mất trộm dê lợn, có nhà đã mất cả bò. Thế mà cánh cổng gỗ vào nhà đã có từ đời ông bà, chưa một lần thay, cài then thì cũng chỉ để đánh lừa mắt thôi, người khỏe xô nhẹ là bật ngay ra rồi.

Chẳng phải ông không biết lo việc nhà, chẳng phải ông bỏ đi để hàng ngày được rượu thịt một mình. Lúc này ông thấy trong nhà mình khó ở quá, giống như trời sắp mưa giông mà mấy ngày liền không mưa được. Nhìn dáng con May ngồi thái dọc mùng trắng cho lợn mới thấy thời gian trôi đi nhanh quá, thằng Trài cũng cao hơn con dao quắm dựng góc nhà rồi.

Chỉ còn phải lo cho hai đứa con một vài năm nữa thôi, đến lúc chúng như con chim rời tổ thì với ông sống hay chết, no hay đói, giàu hay nghèo cũng chẳng cần phải nghĩ đến nữa. Cả bà chắc cũng nghĩ như ông thôi…
Ông Chúng sang nương, mấy ngày đầu nhà vắng quá, bữa cơm nào cũng mang thừa bát đũa. Đến tối May sang ngủ chung với mẹ Già.

Thường thì cứ phải đến lúc May chập chờn ngủ rồi mẹ Già mới vào. Hôm nào mẹ cũng phải đi một vòng xem lại cửa cổng, dập hết than trong bếp lò, mang chó ra buộc gần chuồng ngựa. Lúc mẹ Già vào, May ôm lấy mẹ thật chặt. Người May nóng gần bằng cái bếp lò, mẹ Già bảo thế.

Đêm nay May đi ngủ muộn, phần vì nhà đã vắng càng vắng – thằng Trài mang ngựa đi lấy giống, mẹ Già đi xem bệnh cho trẻ con nhà Chứ – phần vì ngoài kia, sau bờ rào đá, có tiếng đàn môi tự dưng cất lên, gọi mãi, gọi mãi. Tiếng đàn ấy May gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần nào cũng đuổi sau lưng, May đi nhanh thì theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ lại dám theo về tận nhà người ta nữa.

Đã mấy lần May đứng dậy, ngập ngừng định đi ra cửa mà chân cứ run lên lại ngồi xuống. Chiếc khăn thêu được vài đường đã nhầm, kim lại đâm vào ngón tay mấy lần. Sau rồi May cũng giữ được chân mình mặc kệ tiếng đàn môi ấy, dội lửa vào củi rồi vào buồng. Tiếng đàn còn quanh quẩn mãi bên ngoài mới chịu đi. Tiếng bước chân ngựa cũng ngập ngừng. Đi ngựa là người ở xa đến rồi. Đi xa mà đứng lâu như thế dưới sương có khi lại ốm.

May nằm mãi cũng chẳng ngủ được. Trên gác nhà, con mèo mẹ tha đàn con đi đi lại lại suốt, lục sục trong đống ngô bắp. Nhà không có đủ người, gió lùa từ đầu hồi này tới đầu hồi kia, nghe mỏi cả tai. Nhắm mắt rồi mở mắt, May cố không nhìn vào cái hòm gỗ to lù lù góc buồng. Trong cái hòm ấy mẹ Già cất một bộ váy áo đẹp lắm, thêu bảy màu như cầu vồng, mẹ bảo bao giờ con May lấy chồng thì mẹ cho mang theo.

Vậy mà mới đêm hôm qua, lúc gần sáng May thức giấc lại thấy mẹ già mở hòm lấy bộ váy áo ấy ra. Mẹ Già định mặc váy áo đẹp đến thế đi đâu? Hết mùa cưới rồi, họ hàng chắc cũng không còn ai cưới vợ cưới chồng cho con nữa. Mẹ Già đi đâu? Hay là mẹ Già định đi hội chợ hai bảy tới đây? Nếu thế thì… thì sao hở May? Có phải vì bố bỏ sang nương không? Hay vì bố biết mẹ Già định đi hội chợ tháng ba năm nay mà bố đi?

Lâu lâu không nghĩ đến chuyện bố mang gạo muối sang bên kia sông Nho Quế, bây giờ nghĩ lại mới thấy có điều gì đó không bình thường, không giống như việc đàn ông các nhà khác làm lều trên nương canh dê bò, canh khỉ trên rừng về phá. Càng nghĩ càng thấy khó tìm lối ra, càng khó ngủ. Tự dưng May lo lo, không rõ mình lo gì, nhưng như có ai đốt lửa trong bụng. Ngoài hè, giọt sương đọng trên mái tranh rơi xuống bể nước đá cạn khô càng lúc càng to, nghe giống tiếng mưa lác đác.

Năm nay trời rét đậm hơn mọi năm, lại rét muộn nữa. Rét muộn thì sẽ rét lâu rét dài, tháng ba tháng tư có nắng rồi vẫn rét. Ra giêng hoa đào hoa lê mới đua nhau nở, ai cũng bảo năm nay Tết mùng năm tháng năm sẽ mất vui. Nhưng Tết mùng năm còn lâu mới tới, trời thay đổi tính nết thì con người khổ, khổ vì gieo hạt ngô lúa xuống đất mãi vẫn chưa thấy lá chồi lên. Đất càng ngày càng khô đi. Ở những nương đá mới xếp đất xẹp gí xuống, đợi hạt giống đâm mầm lá lên mới bón thêm phân được. Nhưng lo thì cứ lo vậy thôi, hội hai bảy vẫn chẳng kém vui hơn mọi năm đâu.

Có tiếng chó đầu nhà rên ư ử, đuôi quẫy đập vào tường đất lạch phạch. Ông Chúng về. Mẹ Già mới về trước một lúc lập cập ra mở cửa, xuýt xoa:
– Về sớm thế? Sao không để sáng hẳn ra, sương tan cho đỡ lạnh.
– Ừ… – Tiếng ông khàn khàn – Cũng định thế. Nhưng có mấy người trên Xín Cái xuống sớm, bảo cho đi nhờ thuyền sang bên này, tiện thể về luôn. Ở nhà có việc gì không?
– Vẫn thế thôi, chỉ có mấy thanh chuồng ngựa sắp gãy. Hôm nào ông về lâu lâu thì sửa nhé.
– Được rồi, cứ để đấy, tí nữa tôi sửa luôn.
Ở nhà này thứ gì cũng cũ, cũng già. Cả cái chuồng ngựa cũng thế. Ngày xưa bố ông Chúng dựng bằng gỗ lim từ lúc con trai út chưa ra đời. Mấy chục năm rồi, không nhớ đã có bao nhiêu đời ngựa, bây giờ mới hỏng cần phải sửa là bền quá còn gì.

Trời sáng hẳn, ông Chúng đi một vòng quanh nhà, xem kĩ chỗ chuồng ngựa chuồng dê rồi mang dao, cưa ra sửa luôn. Bà ra theo ông, xem có cần gì thì giúp. Vừa làm ông Chúng vừa bảo vợ:
– Mẹ Già này, năm nay xuân muộn, người đi chợ hai bảy đông lắm, nấu được ít rượu ngô đem bán thì tốt quá.
– Không phải nấu cũng còn đầy kia kìa. Trước tết nhà Sùng nhờ nấu mấy nồi cho nó lấy con dâu mới, sau họ hàng giúp nhiều quá lại không dùng đến.
– Thế thì bà mang ngựa thồ đi bán nhé.

Giọng nói của ông có gì khang khác, bà cảm thấy thế. Rượu nhà mình tự nấu, để bao lâu cũng được, càng để lâu uống càng ngon. Mà từ giờ đến tết năm sau còn có bao nhiêu dịp cần đến rượu, sao ông lại giục bà đi bán. Bà nhìn mãi sang ông nhưng ông vẫn cắm cúi làm, như không để ý, như chỉ vô tình nói ra chuyện đi chợ bán rượu. Ai cũng biết mang rượu đi chợ hai bảy để người bán người mua uống cùng với nhau.

Uống cho say rồi người mua không nhớ trả tiền cũng được, mà nhớ nhưng trong túi chỉ còn vài đồng không đủ mua túi muối, mang ra trả cũng được. Chợ ngày hai bảy nhưng từ hai mốt, hai hai đã lác đác có người, có rượu. Cả năm cúi mặt ngoài nương, cúi mặt vì hạt ngô hạt đậu, về nhà cúi mặt vì con lợn con gà, mãi mới có lúc thảnh thơi. Không bị trẻ con quấn chân nên ở chợ mọi người tha hồ chơi, tha hồ uống rượu. Đàn ông quên dao, quên nỏ, đàn bà quên chảo cám, quên cái đũa cả, chẳng ai chê cười.

2.

Giữa ông Chúng với vợ đúng là có bao nhiêu thứ khó nói ra thành câu thành tiếng. Tất cả cũng chỉ tại một người mới đến, rồi lại đi trước tết. Đi luôn thì thôi, đằng này còn hẹn ra xuân sẽ quay lại. Nếu đúng lời hẹn thì người ấy cũng sắp quay lại rồi.
Trước tết một tháng, đúng hôm mẹ Già với May làm bánh khảo thì nhà có khách.

Khách ấy là mẹ Hoa. Lúc May ra mở cổng, May nhận ra mẹ Hoa ngay, nhưng mẹ Hoa cứ đứng nhìn May mãi, nhìn không chớp mắt. May không nghĩ mình lớn đến mức khó nhận ra thế. Ngay lúc ấy May đã quay lưng đi như chạy vào nhà ngay, mặc kệ mẹ Hoa kéo lê cái túi to đùng trên đất đi sau.

Người May tự dưng nóng bừng lên, hai đầu gối run bần bật. Có cái gì đó như một cơn gió lạ đã ùa đến, rồi sẽ hất tung mọi thứ trong nhà lên, sẽ chẳng có thứ gì được ở yên chỗ của mình nữa. Sao tự dưng mẹ Hoa lại về, sao không đi luôn. Chị em May đã sắp quên chuyện cũ đi, giờ lại phải nhớ hay sao?
Mẹ Hoa đi vào trong nhà, cúi đầu chào bố đang ngồi bên bàn uống nước. Bố May nhìn ra:
– À… lại về nhà đấy!
– Vâng… – Mẹ Hoa lí nhí, đầu cúi thấp hơn nữa, tay mân mê hai cái quai túi đặt trước mặt.
– Về làm gì? – Bố hỏi mà như không hỏi.
– Em… em về chơi thôi. Xem mọi người thế nào.
– Thế nào à? Chẳng thế nào hết. Người lớn thì già đi, trẻ con thì lớn lên…

Bố nói như không có người đứng nghe ngay trước mặt. Bố gọi May, gọi thằng Trài. Chỉ mình thằng Trài vào, còn May đứng đầu hồi, như không nghe tiếng bố.
Mẹ Già đi ra, bảo mang củi ướt ngoài chuồng ngựa vào cho mẹ gác lên bếp lò, ghé vào tai May nói như mắng:
– Không được thế con gái à. Mẹ Hoa chứ có phải người lạ gặp ngoài đường đâu. Lâu quá mới về nhà, nhưng con gái vẫn không quên đâu, phải thế không?
May quay lại trả lời mẹ Già:
– Con còn nhớ hơn cả mẹ, mẹ Già ạ. Nhớ hết. Nhớ cả con bò bị người ta dắt đi…
– Ầy, chuyện cũ đừng nhắc nữa. Cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên quên phải biết quên. Hôm qua trời mưa nước suối đục, nhưng không đục mãi được. Con người cũng thế…
Mặc kệ mẹ Già nói gì thì nói, May cũng không tự bắt mình quên được. May chạy ra chạy vào, hùng hục mang tất cả số củi ướt ngoài chuồng ngựa vào chất cao gần chạm gác bếp ở sau lò. Một thanh củi rơi cả vào chảo cám đang sôi sùng sục. Mặc kệ. Mồ hôi túa ra trên mặt May, áo váy bê bết đất. Chuyến cuối cùng, thằng Trài đứng chặn ở cửa, nhìn chị từ trên xuống:
– Chị là đứa trẻ con bốn, năm tuổi à?
May mím môi. Thằng Trài người thì to thật đấy nhưng ý nghĩ thì bé, bây giờ đã dám nói cái giọng ấy với chị nó rồi cơ đấy. May giằng tay em ra, mang số củi ướt vào phía sau bếp lò, cầm lấy thanh củi trong chảo cám quấy tung cả lên.

Mẹ Già về làm vợ ông Chúng đã hơn hai chục năm. Ngày ấy cả vùng này biết tiếng cô Mao đẹp người, nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới không ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cô. Cả vùng cũng chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu như bố mẹ Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu nhà Chúng.

Trước ngày cưới, cả đêm tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức trắng. Mờ sáng thì con ngựa ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn môi nghe rất xa. Mao ngồi dậy, nhìn qua ô cửa bé bằng hai bàn tay, thấy ngoài trời mù mịt sương ập xuống mảnh sân, vườn, nhìn từ nhà ra bờ rào đã không thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày đặc, lao đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao giờ nghe tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa.

Sau ngày cưới một năm, hai năm, rồi ba năm, chờ mãi mà vợ chồng Mao vẫn chưa có con. Lúc đầu nhà chồng còn chạy tìm thầy tìm thuốc sau thấy không làm được gì đành thôi. Bố chồng, mẹ chồng nối nhau đi, thương con dâu như con gái nên không đành mở miệng bảo con trai đi tìm vợ mới, dù cả họ chỉ còn mỗi một người đàn ông trẻ nhất là Chúng.

Còn lại hai vợ chồng, bao nhiêu lần Mao nói với Chúng, hay là Chúng để Mao về nhà mẹ đẻ, cho Chúng đi lấy vợ mới, nhưng Chúng không nghe. Chúng phải giữ lấy Mao như giữ cánh cửa trong nhà mình. Chúng biết mình chẳng tìm được ở đâu một người thay được chỗ của Mao. Mỗi lần có việc phải ra khỏi nhà Chúng cũng đều cố gắng nhanh nhanh cho xong việc để còn về. Chúng sợ Mao ở một mình lại buồn, sợ Mao đắp nửa chăn, nằm nửa giường lạnh không ngủ được.

Năm ấy, người ta mở đường lên Thượng Sơn, cả bản nhà nào cũng phải có một người ra khuân đất đá. Ngày nào Mao cũng dậy sớm đồ xôi, nướng gà cho Chúng ăn no, còn gói để Chúng mang theo ăn trưa luôn. Nhưng càng ngày con đường càng xa, làm xong không kịp về nhà, Chúng phải mang gạo đi, đến công trường góp nấu cơm chung với người ta. Vài ba hôm Chúng mới tranh thủ về được một lần. Lần nào cũng động viên Mao chịu khó ở một mình ít ngày nữa, đường sắp xong rồi.

Nhưng cũng phải hết mùa khô thì con đường nối mấy xã với nhau mới hoàn thành. Căn nhà rộng vắng bóng Chúng lâu quá nên chỗ nào cũng thấy lành lạnh, ngày Chúng về Mao đang ốm, đã mấy hôm liền không ăn uống gì.
Nhưng Chúng không về một mình. Đi theo Chúng còn có một người cùng trong đội dân công. Người ấy là một cô gái trẻ hơn Mao mấy tuổi, người miền xuôi.

Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của mình sang căn buồng của mẹ chồng trước kia. Căn buồng thường xuyên được Mao quét dọn, nhưng thiếu người ở nên cứ như cái nhà hoang. Lúc Mao mang cái hòm riêng từ ngày về nhà chồng ra thì Chúng đứng ở cửa buồng, đưa tay ra như muốn giữ Mao lại. Mao nhìn vào mắt Chúng, nhìn thẳng. Chúng không chịu được ánh mắt Mao phải quay mặt để Mao bước ra.

3.

Đêm hôm ấy Chúng ngồi gọt chuôi dao bên bếp lò, muộn lắm mà không đi ngủ. Mao dọn dẹp nhà cửa xong cũng không đi ngủ mà mang bó mùng trắng ra thái. Hai người không ai nói gì, chỉ nghe tiếng dao thái vào thân mùng phầm phập. Mao đứng dậy, đổ dọc mùng vào chảo cám, cúi xuống đẩy mấy gộc củi vào sâu trong bếp, lúc ấy Chúng mới kéo áo Mao, bảo Mao ngồi xuống cạnh mình.

Nhưng hai người ngồi cạnh nhau rồi mà Chúng vẫn cứ gọt mãi, gọt mãi cái chuôi dao, gọt cả vào ngón tay, máu ứa ra. Đưa ngón tay bị đứt lên miệng. Chúng không biết bắt đầu như thế nào. Mao vẫn nhìn chằm chằm vào bếp lửa, ánh lửa hắt lên mặt Mao đỏ hồng, tự dưng Chúng thấy sờ sợ Mao, thà Mao cứ nói gì thật to với Chúng còn hơn.

Từ hôm ấy nhà có ba người. Ba người ngủ ở ba cái giường, ba góc nhà. Ba người không mấy lúc nói chuyện với nhau, Mao dưới bếp, Hoa trên nhà, Chúng ngoài vườn, chỉ bữa cơm mới ngồi gần nhau. Đêm nào cũng nghe thấy tiếng kọt kẹt từ ba cái giường. Dậy sớm hay dậy muộn thì cả ba người đều quầng hai mắt. Sống thế thì khổ quá, rồi đến lúc ốm cả thì sao?

Một đêm, Chúng ngồi dậy, đi đến cửa buồng bên phải, cửa buồng cài chặt bên trong, Chúng đứng một lúc lâu, khe khẽ ho, nhưng cửa vẫn đóng kín cũng không nghe thấy tiếng người trong buồng thức dậy. Lúc ấy, buồng bên trái tự dưng có tiếng khóc. Tiếng khóc của người đang úp mặt xuống gối. Cửa buồng bên ấy lại không cài, chỉ khép hờ. Trời lạnh mà mồ hôi vã ra đầm đìa trên mặt Chúng…

Sau khi con bé May ra đời, Hoa ở lại chứ không bỏ đi như Chúng nói với Mao. Nhưng đúng là Hoa không quen làm nương, không biết trỉa đậu, vun đậu, nhóm cái bếp lò cũng không nổi. May được hai tháng tuổi thì mẹ Hoa để May ở nhà với mẹ Già rồi xuống phố huyện mở sạp bán giày vải, thỉnh thoảng mới về.

May bé như con mèo con. Từ sáng đến tối khuya, lúc nào cũng nằm trong địu trên lưng mẹ Già. Không biết bao nhiêu lần May ngậm hai bầu ngực mẹ Già, nhay đến bật máu vì thèm sữa. May lên hai tuổi, còn chưa trèo qua được bậu cửa thì mẹ Hoa đẻ thêm thằng Trài. Thằng Trài lại ngồi trong địu, thay chỗ của May, lại nhay bầu vú chưa bao giờ có sữa của mẹ Già.

Mẹ Hoa ngày càng ít về, mỗi lần về cũng chỉ một lúc, không kịp ăn cơm lại đi. Lần nào về cũng mang cho hai chị em May cả túi kẹo màu to tướng, cả giày dép áo quần. Nhưng lần nào cũng vậy, chị em May lại mang kẹo ra đổ vào máng ngựa, quần áo cũng không mặc đến, mặc váy áo mẹ Già dệt quen rồi. Quần áo mẹ Hoa mang về cứ để mãi trong hòm.

Năm May lên mười một tuổi, em Trài lên chín thì mẹ Hoa về nhà lần cuối cùng rồi đi hẳn. Lần ấy mẹ Hoa ăn cơm rồi ngủ lại một đêm với ba mẹ con. Bố May đi săn không về, chị em May đi ngủ sớm, sáng hôm sau thức dậy đã không thấy mẹ Hoa đâu. Mẹ Già cũng chỉ bảo là mẹ Hoa đi sớm lắm, khắc tự dậy mở cửa rồi đi. Cũng đêm ấy, con bò cày bị mất trộm, ai đó đã tháo thanh cài cửa chuồng dắt bò đi.

Nhà chỉ có một con bò cày, mất bò thì người phải làm thay bò thôi. Gần trưa hôm ấy ông Chúng mới đi săn về, May ôm lấy chân bố, kể chuyện mẹ Hoa về, chuyện mất trộm bò. Không thấy bố và mẹ Già nói gì với nhau về chuyện ấy. Mấy đêm liền bố May không ngủ, ngồi uống rượu khan ngoài hè, xung quanh là đàn chó con lớn con bé nằm chồng lên nhau.

Vụ mùa năm ấy, vụ sau nữa, hai bố mẹ May phải mang cuốc đi cuốc đất thay bò. Bàn tay mẹ Già đã chai càng chai thêm, vết chai dày cộp như miếng cháy trong nồi cám. Đêm nào mẹ Già cũng lấy hai bàn tay đầy vết chai ấy xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ.

Mẹ Hoa đã đi suốt bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng, ai cũng nghĩ là mẹ Hoa không bao giờ về nữa. Mấy lần ông Chúng xuống huyện cũng không thấy Hoa ngồi bán hàng ở đó. Bằng ấy ngày tháng, đủ cho bọn trẻ con sắp thành người lớn cả rồi, Hoa còn trở lại. Chẳng lẽ giống như người đi mãi mà không tới được nơi cần đến, không còn sức nữa nên quay về tìm chỗ nghỉ chân?

Mẹ Hoa về làm cái gia đình đang yên ổn như tổ chim trên cao lộn tung cả lên. Hoa đã nói những gì ông Chúng chẳng nhớ hết, vì ông không muốn nghe thì nói gì cũng thế thôi, chỉ đến khi mẹ Hoa ngỏ ý đưa con bé May với thằng Trài về xuôi thăm họ hàng, ăn tết, thì ông quát lên. Nhà ông không phải vườn ổi hoang, ai thích đến hái thì cứ hái như bọn trẻ chăn bò.

Nói với ông khó quá thì mẹ Hoa tìm mẹ Già. Sau một đêm, thức dậy ông thấy hai mắt mẹ Già trũng xuống, tay bưng chậu cám run như phải cảm. Ông cứ chờ xem bà có nói gì với mình không nhưng bà im lặng mãi, cắm cúi làm, không buồn ngẩng mặt lên.

Mẹ Già thì tránh mắt ông, ông lại tránh mắt mẹ Hoa. Mẹ Hoa vẫn đẹp như bông lê đang độ nở rộ ngày trời ấm. Mẹ Hoa chỉ kém mẹ Già mấy tuổi mà trông như con gái của mẹ Già. Có lúc mẹ Hoa nhìn ông, nhìn muốn cháy cả mặt.

Lúc mẹ Hoa vén quần rửa chân, để lộ hai bắp chân tròn hơn cả bắp chân con May, thì ông xua tất cả những ý nghĩ lạ sắp đến trong đầu mình đi. Mẹ Hoa lại vào ngủ trong buồng trái, không cần ai bảo. Từ ngày mẹ Hoa đi, ông ngủ một mình ở đấy. Mẹ Già lấy cớ đã ngủ quen bên kia với bọn trẻ con, dứt khoát không chuyển đồ sang lại nữa.

Ông lại ngồi uống rượu khan. Lưng áo ông lạnh buốt. Sau lưng ông là cửa buồng trái khép hờ, trước mặt là ngọn đèn cạn dầu, ngọn lửa cháy đã có mùi khét của bấc.

Mẹ Hoa không sao nói chuyện được với May. May tránh mặt mẹ đẻ. May bảo với bố, mẹ Hoa chỉ như con thú hoang ở đâu lạc vào nhà mình thôi, lúc nào không muốn ở nữa thì khắc bỏ đi. May biết, lúc nào phía sau, bên cạnh mình cũng có ánh mắt mẹ Hoa nhìn mình.

Thằng Trài khác May, nó đã chịu nói chuyện với mẹ Hoa. May đâm ra ghét cả Trài, hai chị em cũng không nói chuyện với nhau nốt. Lúc nào May cũng chỉ thấy hai bàn tay khô như hai cành mua cong queo, đầy vết chai dầy như miếng cháy trong chảo cám của mẹ Già trước mắt mình.

4.

Mãi đến lúc mẹ Hoa xách túi đi May mới nhìn thẳng vào mẹ một lần, lần đầu tiên từ hôm mẹ về. Và May đã giật mình, đã tự dưng thấy đau buốt trong ngực. Hai mắt mẹ Hoa – đôi mắt mà mẹ Già vẫn bảo là thứ để người khác nhìn vào nhận ra May – đôi mắt ấy đỏ như chảy máu, mí mắt sưng to, hai gò má mẹ Hoa trắng nhợt. Nhưng May vẫn không nói với mẹ Hoa một lời nào, miệng May như có ai khâu chặt lại.

May đã quay mặt đi, tránh ánh mắt mẹ Hoa, May không đủ sức nhìn lâu hơn. Mẹ Hoa đi, một lúc đã không thấy đâu giữa những triền ngô xơ xác vừa qua vụ thu hoạch. May vùng chạy khỏi nhà, chạy về phía con suối nằm rất sâu trong rừng. Mẹ Già đang giặt ở đấy, váy áo ướt phơi đầy trên những tảng đá lớn trên bờ suối. May chạy xuống ngã dúi vào mẹ Già, khóc oà lên:
– Đi… đi rồi, mẹ Già ơi! Mẹ Hoa ấy…

Mẹ Già ôm lấy vai May. Nước suối lạnh buốt đập vào gờ đá, bắn ướt chân váy hai mẹ con. Mẹ Già khe khẽ thở dài…
May gặp người ấy rồi. Có một tối ngồi trong nhà, nghe tiếng đàn môi gọi mãi, giục mãi. May đã liều bước chân ra cổng. Người ấy ở Thượng Sơn xuống, còn trẻ lắm, hơn May một, hai tuổi là cùng, nhưng May chỉ đứng cao đến vai người ấy.

Dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ May không nhìn được rõ mặt, nhưng cảm thấy rất rõ ánh mắt như lửa cháy của người ấy nhìn mình như thế nào. Đêm đầu tiên, May chỉ dám đứng một lúc, run quá, chạy vội vào nhà, May sợ mình đứng thêm nữa thì ngã mất. Dần dần đỡ sợ hơn, May đứng thêm một lúc, có hôm sương rơi ướt vành khăn mới vào nhà. Giờ thì May đã nhận lời đi hội chợ hai bảy với người ấy.

Ngày mai Chử đợi May ở ngã ba, từ ngã ba đến chợ còn một đoạn nữa, đến nơi chắc trời cũng tối rồi. Cả đêm May không ngủ được. Đã cố tình đi ngủ muộn mà đến lúc vào giường, nằm mãi vẫn chưa thấy gà gáy. May nói dối mẹ Già là cái Ly rủ May sang nhà nó làm bánh, mẹ Già không nói gì, chỉ dặn đến nhà người khác phải nhớ chào hỏi người già, không được đi ngủ trước người già như ở nhà mình.
Trời mờ sáng, May đã dắt ngựa ra. Con ngựa đen như hiểu ý May, ngoan ngoãn để May đặt yên lên lưng.

May run quá, chỉ sợ gặp người quen trong bản, người ta kể lại với bố mẹ thì thế nào cũng bị mắng vì tội nói dối. Nhưng sợ thì cũng cứ đi, có người đi cùng mình thì còn sợ cái gì. Không ngờ ở chợ ấy May gặp đến ba, bốn đứa bạn gái cùng bản, đứa nào cũng đi với một anh con trai lạ. Nhìn thấy nhau, không đứa nào nói gì, cứ làm như không quen, quay mặt đi mới tủm tỉm cười.

Đêm xuống, có một thanh niên đốt đống lửa to ở giữa bãi còn, ai có cái gì mang theo thì bỏ ra ăn chung. May và bạn May cũng buộc ngựa một góc rồi ra đấy ngồi cùng. Xung quanh đống lửa càng lúc càng đông người, toàn con trai con gái trẻ. Giờ thì không có ai xấu hổ nữa. Má đám con gái đỏ rực nhưng là vì ánh lửa. Ai cũng như mình thì việc gì phải xấu hổ.
Sáng hôm sau, đúng ngày hai bảy tháng ba, mặt trời mãi mới nhô lên sau cánh rừng đỏ rực. Chử kéo tay May ra phía người ta ngồi thành hàng dài, rượu đựng trong can to để trước mặt. Nhưng ngồi uống rượu lâu cả buổi thì chỉ có người già thôi, bọn thanh niên ghé qua một tí rồi tìm chỗ khác, ít bị người ta nhìn thấy mà ngồi.

Vừa ngồi xuống một hàng rượu, chưa kịp nói gì với người bán thì đột nhiên May kéo Chử đứng bật dậy:
Đi! Đi chỗ khác. Nhanh lên.
Vừa nói May vừa kéo Chử đi như chạy, xa chỗ bán rượu càng nhanh càng tốt. May vừa nhìn thấy, May không nhìn nhầm, nhất định May không nhầm, người mặc váy áo rực rỡ như cầu vồng ấy là mẹ Già. Mẹ Già đang ngồi sau quẩy tấu gùi rượu, mặt đỏ rực. Còn người phía bên kia có phải là bạn của mẹ Già? Là người thề không bao giờ chơi đàn môi nữa từ ngày mẹ già đi làm dâu, có phải người ấy không?

May kéo Chử đi, còn Chử nhìn May, nhìn mãi không nói được câu gì. Nhà Chử chỉ có hai bố con. Mẹ Chử chết bệnh từ khi đứa con trai đang bám bậu cửa tập đi. Lên sáu tuổi, Chử đã được bố dạy thổi kèn, lên mười tuổi Chử đã theo bố lên nương. Biết chuyện, bạn May có đứa đùa, bảo May về nhà ấy làm dâu thì sướng, vì Chử thổi kèn còn hay hơn cả bố, vì May không phải chiều mẹ chồng…
Muộn lắm May mới về tới nhà. Mẹ Già đang ngồi hong tay trước cửa bếp lò mới bén lửa, giục May lấy nước ấm đi rửa chân tay. Mẹ Già đã mặc bộ váy áo ở nhà nhưng lại quên thay khăn. May ngồi xuống bên cạnh. Mẹ Già bảo bố đưa mẹ Hoa xuống phố huyện chưa về, mẹ Hoa mới lên chiều hôm qua. Mẹ Hoa lại lên. Chuyện ấy có đáng nghĩ đến không? Sao mẹ Già chẳng nói gì thêm? May ngập ngừng:
– Mẹ Già định… định thế nào?

– Thế con gái bảo mẹ phải làm gì? – Mẹ Già quay sang nhìn May rồi lại quay đi, cằm tì lên hai đầu gối, tay cầm thanh củi dụi mãi vào bếp lò đang cháy to dần, một lúc lâu mới tiếp:
– Con gái à, làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái cục đá kê chân cột nhà chồng thôi. Ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là cục đá kê cột thế thôi…
Nghe mẹ Già nói May ứa nước mắt ra. Vậy là hai mươi năm nay mẹ Già vẫn nghĩ mình chỉ là cục đá, mẹ Già không nhận chị em May hay sao? Mẹ Già định trả chị em May cho mẹ Hoa như người ta mượn ngựa rồi trả ngựa hay sao? Trả xong rồi thì mẹ Già làm gì nữa? Chẳng lẽ bằng ấy tuổi rồi còn định sang nhà khác tiếp tục làm cục đá kê cột? May kéo ghế ngồi xích lại gần mẹ Già hơn một tí, không biết nói gì cho phải, bụng dạ đau thắt như có ai cầm dao sắc mà cứa.

Khuya rồi vẫn không thấy bố về. Bây giờ đường tốt rồi, người ta đi về chỉ mất chưa hết nửa ngày, vậy mà bố đi lâu thế? Chẳng ai bảo ai nhưng hai mẹ con đều có ý chờ, chờ đến tàn gộc củi mới đi ngủ. Nhưng vừa nằm một lúc, chập chờn ngủ thì May nghe có tiếng đàn môi cất lên.

Tiếng đàn ngay ngoài cổng gỗ chứ không gọi ở đầu nhà như lần trước. May định mặc kệ, vừa mới chào nhau, mùi tóc quen quen còn chưa bay hết, lại buồn ngủ nữa. Nhưng tiếng đàn cứ gọi mãi, gọi mãi, mà tiếng đàn môi đêm nay cũng có gì khang khác, dài hơn, trầm hơn, ngập ngừng hơn, vẫn tràn qua bờ đá vừa dày vừa cao như suối chảy. Nghe bao nhiêu lần mà lần nào May cũng hồi hộp, tim đập thình thịch.

Đột nhiên mẹ Già khẽ khàng ra khỏi chăn, chắc lúc đi ngủ mẹ quên chưa buộc con chó ra ngoài chuồng ngựa rồi. Đợi mẹ mở cửa, May cũng tung chăn ra. Ra bảo Chử về đi thôi. Về nghỉ mai còn đi làm chứ.

May đi như chạy ra sân, đầu va cả vào dây phơi treo đậu tương, định ra rồi vào luôn để mẹ Già không biết. Nhưng vừa đi qua sân bất chợt May sững lại. Ngay trước mặt May, chỉ cách hai bước chân là mẹ Già. Mẹ Già quay lưng lại phía May, đầu cúi xuống, tấm khăn tuột trên vai, tay mẹ Già đang nắm chặt thanh gỗ cài hai cánh cổng…

May bíu lấy gốc lê, cố thở thật khẽ. Ánh trăng cuối tuần mờ quá. Gió lạnh từ trong khe núi ào ra, mấy chiếc lá lê già còn sót lại rụng nốt, quệt vào bờ rào đá lạt sạt…

February 26, 2024 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
Rose

Mùa chim én bay (6)

by Rose & Cactus February 24, 2024

Hôm nay là thứ bảy các bạn nhỉ, cuối tuần thích nhất ăn ngủ cứ là tẹt ga :)). Mình giờ lớn tuổi rồi thứ nào thì cũng như nhau thôi đúng giờ đó là mở mắt bật dậy, trách chi ngày xưa cứ thắc mắc sao ông bà dậy sớm thế 3-4h sáng các cụ đã lục tục gấp chăn màn rồi, dù trời có lạnh giá thế nào. Tuổi nào có nhịp sinh học của tuổi đó là vậy

Mình dậy lấy nguyên liệu làm món PHỞ, món ăn sáng yêu thích. Nói chung là các món thuần Ta như Bún, Phở, Hủ tiếu, Bánh canh, Miến, Bánh cuốn, bánh giò, bánh nếp, bánh trôi, bánh chay, bánh đúc, bánh xèo, bánh bột lọc, bánh nậm, bánh ít…đều là những món mình xin được “ Em muốn sống bên (các) anh trọn đời” :)), quanh năm ngày tháng ăn cũng được.

Chứ các món Tây thì em xin chịu :)), pizza, hamburger hay xúc xích nói các bạn không tin chứ số lần mình mua từ xưa đến giờ chắc đếm trên đầu ngón tay vì cả nhà không ai thích ăn.

Mì Sợi Ý, mì  Hàn Quốc ư? Cũng vậy luôn, vác về lần nào cũng vứt xó trong góc tủ cả năm vì nấu không hết. Tại ăn không thấy ngon bằng mỳ tôm…Việt Nam, thật đấy các bạn ạ ăn gói mỳ Miliket hay Hảo hảo rẻ hơn đến 5-7 lần mà sao vẫn thấy đã hơn hẳn so với các thể loại mỳ tôm cao cấp kia.

Hay là mình nông dân quá nhỉ? Có bạn nào giống mình không ?

Ở xứ ôn đới bốn mùa thì thời điểm này đang là giữa mùa Xuân chứ thành phố chúng ta chỉ có hai mùa Mưa và Nắng. Và mình và các bạn đang được sống giữa mùa nắng. Nắng từ sáng sớm đến chiều tối.

Nắng suốt trong 6 tháng nên mùa này độ ẩm cực thấp. Rất may mắn là dù thừa nắng nhưng chúng ta không thiếu gió (tự nhiên) nên trước bình minh và sau hoàng hôn khí hậu vẫn vô cùng dễ chịu, với nhiệt độ vừa phải và mát mẻ.

Thế nên sống ở đây việc dậy sớm không phải là điều khó. Mình dậy rồi, chắc mấy người hàng xóm bên cạnh cũng đã “Chào buổi sáng” vì mình nghe tiếng PIANO vọng sang từ một nhà nào đó:

Vì biết đâu bỗng em thấy đôi chân mỏi mệt
Biết đâu bỗng em thấy sông thương cạn kiệt

Tiếng đàn và tiếng hát hay quá! Sao ai lại lục lại cái bài hát từ lâu lẩu lầu lâu rồi thế nhỉ, dễ đến hơn hai chục năm rồi mình mới gặp lại giai điệu này, kể từ cái thời sinh viên tươi đẹp ấy. 

Vì biết đâu có đôi lúc em xa vời vợi

Biết đâu có đôi lúc con tim nghẹn lời

 Mình khi nấu xong món phở phải chạy đến bật ngay để nghe giai điệu ca khúc, được đệm piano thánh thót, một thời cả phòng mình (ở ký túc xá) nghe đi nghe lại cả ngàn lần cho đến phát chán mới thôi ấy

Và em sẽ cất cánh tung trời hoá thân giấc mơ
Và em sẽ cất cánh phương nào thênh thang mây khói

Cũng  như các món ăn Việt, nhạc Việt nhiều bài phải nói rất hay đấy! Các bạn công nhận không?

 Ah, nhưng có một thứ mình vẫn hơi tiếc

Là trong buổi sáng Tết Nguyên tiêu đẹp thế này, chúng mình có PHỞ để ăn, có nhạc PIANO để nghe,

Mà lại thiếu hoa ĐÀO để ngắm :))

Tết Nguyên tiêu

Dương cầm và Phở,

Lại vắng Đào phai

TẾT NGUYÊN TIÊU

by Latsch, Marie-Luise

Tết nguyên tiêu, nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới, “Nguyên” nghĩa là thứ nhất, “Tiêu” nghĩa là đêm. Ngoài ra tết Nguyên tiêu còn được gọi là tết Thượng nguyên để phân biệt với tết Trung nguyên (Rằm tháng Bảy) và tết Hạ nguyên (Rằm tháng Mười).

Hay có một cách gọi khác là Lễ hội đèn lồng

Vào thời xa xưa, lễ kỷ niệm bắt đầu vài ngày sau ngày đầu tiên của năm mới và thường tiếp tục cho đến khoảng ngày 18, thậm chí có thể lâu hơn ở một số vùng nông thôn, do đó đưa mùa Lễ hội mùa xuân lên đến cao trào. Người dân trong mỗi hộ gia đình tổ chức lễ đơn giản hoặc cầu kỳ phù hợp với khả năng tài chính và trình độ văn hóa của mình.

Nguồn gốc và sự phát triển

 Lễ hội đèn lồng dường như có nguồn gốc từ thời cổ đại như một nghi lễ báo hiệu ánh sáng ngày càng tăng và sự ấm áp của mặt trời sau cái lạnh của mùa đông; Một khả năng khác là ban đầu nó là lễ cầu mưa cho vụ trồng trọt mùa xuân. Các ghi chép lịch sử từ nhiều thời kỳ khác nhau có niên đại từ thời nhà Hán (206B.C-220A.D) phản ánh những thay đổi về nội dung của lễ hội đèn lồng qua các giai đoạn.

Trong triều đại nhà Hán, nó được mô tả là dịp tổ chức các nghi lễ hiến tế để tôn vinh Thái Nhất, Thần của sao Bắc cực, người được tôn kính đặc biệt vì ông là hiện thân của Hai nguyên lý Âm và Dương, các yếu tố âm và dương, và không bao giờ thay đổi vị trí của mình trong mối quan hệ với phần còn lại của vũ trụ.

Một tài liệu muộn hơn nhiều từ thời Nam Bắc triều (420-589 sau Công Nguyên), mô tả các hoàng đế làm thơ ca ngợi sự lộng lẫy của những chiếc đèn lồng được trang trí, cho thấy rõ rằng nội dung của các hoạt động Lễ hội đèn lồng đã thay đổi so với trọng tâm trước đó, trong các buổi lễ sùng kính.

Trong những ngày cuối cùng của triều đại nhà Tùy (581-618 sau Công nguyên), Hoàng đế Yang Di, để thể hiện sự giàu có của vương quốc, đã mời nhiều thương nhân nước ngoài đến tham dự một buổi dạ tiệc nhạc kịch ở thủ đô để đánh dấu Lễ hội đèn lồng.

Các sân khấu được dựng lên ở hai bên con phố đông đúc nhất thành phố với khoảng cách hơn ba dặm. Ba nghìn diễn viên và 18 nghìn nhạc sĩ đã tham gia vào chuỗi buổi biểu diễn đáng chú ý kéo dài đến ngày trăng tròn này, chỉ có thời gian nghỉ ngắn để ngủ và ăn.

Khi Lý Thế Dân, hoàng đế thứ hai và là người sáng lập thực sự của nhà Đường, vượt qua sự phản đối của tất cả các công quốc đối địch nổi lên sau sự  tan rã của nhà Tùy và thiết lập quyền lực quốc gia của nhà Đường mới, ông đã đình chỉ tất cả các lễ kỷ niệm Lễ hội đèn lồng trong một số năm. Với sự thịnh vượng được củng cố, giai cấp thống trị cho rằng lễ hội dân gian nổi tiếng này có thể là cơ hội để người dân thể hiện niềm vui trước sự lập lại hòa bình và thịnh vượng và để những người cai trị chia sẻ niềm vui của người dân.

Vì vậy, người ta đã ra lệnh tiếp tục các lễ kỷ niệm. Nhân dịp này, nhà nước đã dỡ bỏ lệnh giới nghiêm vào ban đêm vốn được áp đặt để ngăn chặn dân thường nổi dậy. Không chỉ trong đêm lễ hội mà trong một vài ngày , người dân còn được tham gia lễ kỷ niệm và ngắm nhìn những chiếc đèn lồng được trang trí đẹp mắt. Trong thời gian diễn ra lễ hội, có đông đảo cận thần đi theo, tham gia các hoạt động.

Mô tả về một lễ hội đèn lồng nào đó trong một cuốn sách xuất bản năm 1868 có nội dung: “Việc bán những chiếc đèn lồng giấy lạ mắt trước Lễ hội đèn lồng thường bắt đầu vào khoảng ngày 10 hoặc 11 và đạt đến đỉnh điểm vào tối ngày 14 hoặc 15. Buổi tối là thời điểm người ta trưng bày đèn nhiều nhất  để thu hút người mua và khi đường phố đông đúc hơn với người xem và người mua.

Một số đèn lồng có hình khối, một số khác có hình tròn như quả bóng, hình vuông, phẳng và mỏng hoặc thuôn dài hoặc có hình dạng của nhiều loài động vật khác nhau, bốn chân và hai chân. Một số được chế tạo một cách khéo léo để lăn trên mặt đất như một quả cầu lửa; một số khác như gà trống và ngựa, được tạo ra để di chuyển bằng bánh xe; vẫn còn những thứ khác khi được thắp sáng bởi ngọn nến hoặc đất, có chuyển động quay hoặc quay tròn của một số vật bên trong chúng.         

     “…Một số được làm chủ yếu bằng giấy đỏ, trên đó có những hàng lỗ nhỏ, để tạo thành một ký tự Trung Quốc mang ý nghĩa tốt lành, như hạnh phúc hay trường thọ. Những thứ này khi được thắp sáng sẽ khiến hình dáng của nhân vật rất rõ ràng. Những chiếc đèn lồng khác có dạng hình người và nhằm tượng trưng cho trẻ em hoặc một số đồ vật thờ cúng, như Nữ thần của Lòng thương xót; một số được thiết kế để cầm trên tay, một số khác được gắn trên tường. Chúng được sơn cầu kỳ với các màu xanh, đỏ và vàng, màu đỏ thường chiếm ưu thế, vì đó là biểu tượng của niềm vui và lễ hội. Những thứ đắt tiền nhất và đẹp nhất đều được phủ bằng gạc trắng hoặc lụa trắng mỏng, trên đó vẽ những cảnh lịch sử hoặc các nhân vật cá nhân một cách tinh tế….

Bản dịch năm 1936 của Derk Bodde về Phong tục và Lễ hội hàng năm ở Bắc Kinh, do Dun Lichen viết năm 1900, mô tả khung cảnh lúc đó. “Trong khi tất cả các cửa hàng đều trưng bày đèn lồng, thì những chiếc đèn lồng ở những con phố như Dong Si Pailou và Di An Men, có nhiều nhất —- Có những chiếc đèn lồng đủ màu sắc, được làm từ những chất liệu như lụa, thủy tinh, và chiếc sừng trong suốt, vẽ những cảnh trong truyền thuyết cũ và mới ……Những thương gia tài tình đã tạo ra những đồ vật được đúc từ băng, và từ những mầm lúa mì non, những hình vẽ hoa văn về người và động vật.”

 Phong tục lễ hội

Ngày xưa, những người khá giả sẽ trang trí nhà cửa rực rỡ nhất có thể bằng đèn lồng và còn đốt nhiều pháo. Pháo hoa được sản xuất đủ loại, như hộp nhỏ, chậu hoa, cột tên lửa lửa và khói, “hoa mẫu đơn xâu chuỗi”, “hoa sen rưới nước”, “trăng rơi”, “vòng nho”, “cờ lửa”, và nhiều thứ khác. “Hoa bạc” và “Cây lửa” có lẽ là phổ biến nhất. Các hộ gia đình giàu có và nổi tiếng cạnh tranh nhau mua pháo hoa các loại.

Tục lệ thông thường vào tối ngày 15 là một gia đình dâng lời cầu nguyện lên một số vị thần và sau đó tổ chức một bữa tiệc lớn trong cảnh vui chơi và say sưa. Thêm vào đó, những người phụ nữ đã lập gia đình và được tôn trọng, thì được đi chơi nhiều hơn vào buổi tối hôm đó có lẽ hơn bất kỳ thời điểm nào khác.

Thông thường họ bị giới hạn nghiêm ngặt trong nhà; vì Lễ hội đèn lồng nên họ có thể ra ngoài vào buổi tối để xem trưng bày đèn lồng.Nhiều phong tục liên quan đến Lễ hội đèn lồng liên quan đến việc ăn uống, điều này đúng với hầu hết các lễ hội truyền thống của Trung Quốc. Một phong tục như vậy được gọi là “ăn khoai môn dưới đèn lồng”. Đầu tiên, một lượng khoai môn sẽ được đun sôi cho đến khi mềm.

Gần nửa đêm, tất cả các thành viên trong gia đình, già trẻ, nam nữ, tụ tập dưới ánh sáng rực rỡ nhất lơ lửng trên cao và bắt đầu ăn món khoai môn được cung cấp. Một số người nói rằng bằng cách này họ có thể trở nên sáng suốt. Những người khác cho rằng phong tục này được thực hiện để tránh sự chuyển sinh của linh hồn mà những người theo đạo Phật tin rằng sau cái chết của một người.

Ở một số vùng trồng bông, người ta thường nặn những quả bông từ bột mì và dán chúng trên đồng. Sau đó, với những cây nhang đang cháy trên tay, họ đi bộ qua cánh đồng, hy vọng bằng cách này sẽ có được một vụ thu hoạch bông tốt.

Sau khi buổi lễ hoàn thành, những quả bông giả sẽ được chia cho bọn trẻ với niềm tin rằng chúng sẽ được bảo vệ khỏi nguy hiểm.Tuy nhiên, một phong tục khác liên quan đến thực phẩm phổ biến cả xưa và nay là ăn chè trôi nước, những viên bột gạo nếp với nhân ngọt trong bát nước cốt.Ở Phúc Kiến và các tỉnh khác, các gia đình sẽ treo số  đèn lồng bằng số lượng thành viên trong gia đình.

Để bày tỏ mong muốn có thêm con, họ sẽ trưng thêm nhiều đèn lồng.Lễ hội đèn lồng tất nhiên không chỉ có nghĩa là ăn uống đối với người Trung Quốc.Ngoài ra còn có nhiều loại hình biểu diễn đầy màu sắc và thú vị để mọi người thưởng thức, chẳng hạn như múa cà kheo, yao gu (trống lưng), múa thuyền và múa lừa.

Phổ biến nhất là múa rồng và múa sư tử, mặc dù các vũ công cà kheo với tinh thần lễ hội của họ rất được yêu thích. Đây là những nhóm đàn ông, một số có râu giả và mặt sơn vẽ, số khác cải trang thành phụ nữ, thay đổi và nhảy múa với dáng đi ngộ nghĩnh.

Ở vùng Triều Châu và Sán Đầu của tỉnh Quảng Đông, đu quay và vòng xoay ngựa gỗ là những hình thức giải trí phổ biến. Được cho là có nguồn gốc từ thời nhà Đường, những trò chơi này sau đó được du nhập vào Hàn Quốc, nơi những phụ nữ trẻ vẫn theo phong tục chơi xích đu vào thời điểm Lễ hội đèn lồng.

Những trò chơi này từ lâu đã mất đi ý nghĩa tôn giáo ban đầu, vốn liên quan đến việc ngăn ngừa bệnh dịch.Múa sư tử, có lẽ là điệu múa được người dân Trung Quốc yêu thích nhất, có lẽ bắt nguồn từ những nghệ sĩ tung hứng và huấn luyện động vật lưu động của Ấn Độ, những người lần đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc vào thời nhà Đường. Vì không có sư tử sống nên một con sư tử bằng vải sẽ phù hợp với mục đích của họ.

Một người đàn ông sẽ điều khiển phần đầu bằng gỗ và một người khác điều khiển phần thân sau, họ đã phát triển một điệu nhảy tên là Trò chơi sư tử, hình thức đầu tiên của nó là một nghi lễ đuổi quỷ. Sư tử tượng trưng cho một vị Bồ Tát và đóng vai trò là người bảo vệ Phật giáo.Ở các vùng nông thôn và thành thị của Trung Quốc, có rất nhiều đoàn múa sư tử diễu hành trên đường phố hoặc đi từ làng này sang làng khác.

Mỗi đoàn có thể bao gồm một hoặc hai con sư tử, hai vũ công ở đó dụ chúng bằng những quả bóng thêu lớn thay cho ngọc trai, và một số nhạc công đánh chiêng và trống.Ngày nay, ở Trung Quốc, nơi mà người dân thành phố có thể xem múa lân nhiều nhất là tại một buổi biểu diễn nhào lộn.

Trước sự thích thú của người xem, sư tử xanh và sư tử vàng nhảy múa, lăn lộn trên sân khấu để đuổi theo những viên ngọc trai, thể hiện sự nhanh nhẹn đáng chú ý với nhãn cầu đảo, lưỡi thè ra, quai hàm và tiếng chuông leng keng. Một trò chơi văn học từng rất được ưa chuộng trong tầng lớp giáo dục lớn tuổi vào tối ngày 15 có tên là “Đoán đèn lồng. Một số câu đố đầu tiên sẽ được viết trên những tờ giấy, sau đó dán lên những chiếc đèn lồng treo trước nhà hoặc bên trong nhà.

Nếu được yêu cầu bởi các câu đố cụ thể, đôi khi có thể treo các manh mối cartain trên đèn lồng. Những thứ này được gọi là Mi Mian (mặt của câu đố) và đã viết trên đó manh mối dẫn đến lời giải chính xác của câu đố, chẳng hạn như một ký tự Trung Quốc, một dòng thơ, tên của một người nổi tiếng hoặc một địa danh.

Ai đoán đúng sẽ được thưởng ngay tại chỗ. Thường thì các câu đố là những ám chỉ rất mơ hồ và cực kỳ khó giải mã. Người nước ngoài, ngay cả những người thông thạo văn học và các vấn đề Trung Quốc, gần như chắc chắn sẽ không thể trả lời chính xác.

Nhật ký William,

Feb 24

Hôm nay là Tết nguyên tiêu, ngày rằm đầu tiên trong năm từ lâu đã được coi là một lễ hội mùa Xuân quan trọng: “Cả năm có rằm tháng Bảy, cả thảy có rằm tháng Giêng”

Thấm thoát gần đến tiết nguyên tiêu, từ mồng tám tháng giêng trở đi đã có viên thái giám đến xem xét phương hướng: chỗ thay áo, chỗ ngồi chơi, chỗ nhận lễ, chỗ ăn tiệc, chỗ nghỉ ngơi.

Lại có viên thái giám tổng quản lý quan phòng đem bọn thái giám nhỏ đến xem xét chỗ canh gác, chỗ căng màn, và dặn bảo người nhà họ Giả các nghi lễ như chỗ nào phải lui ra, chỗ nào quỳ, chỗ nào dâng món ăn, chỗ nào tâu việc. Bên ngoài lại có nhân viên bộ công và ty ngũ thành binh mã phải đến quét dọn đường sá, ngăn cấm những người không có chức vụ qua lại.

Bọn Giả Xá thì đốc thúc những thợ làm đèn đuốc. Mãi đến ngày mười bốn, mọi việc mới xếp đặt xong. Đêm hôm ấy, không một ai được chợp mắt.

Hôm rằm, đầu canh năm, từ Giả mẫu trở xuống, theo chức tước mặc phẩm phục đại trào. Trong vườn Đại quan, màn rồng, rèm phượng, vàng bạc châu báu choáng lên khắp nơi.
Đỉnh đốt hương bách hợp, lọ cắm hoa trường xuân, bốn bề im lặng như tờ, không một tiếng động. Bọn Giả Xá đứng ngoài cửa Tây, bọn Giả mẫu đứng ở ngoài cửa chính phủ Vinh. Đầu đường cuối ngõ mùng màn che kín. Đang lúc chờ lâu sốt ruột, chợt có một viên thái giám cưỡi ngựa đến, Giả Chính đón hỏi tin tức.

Viên thái giám nói:
– Hãy còn sớm chán, đầu giờ mùi ngự cơm chiều, giữa giờ mùi đến lễ phật ở cung Bảo Linh, đầu giờ dậu vào cung Đại Minh hầu yến, xem đèn rồi mới xin thánh chỉ về, có lẽ đầu giờ tuất mới bắt đầu đi.
Phượng Thư nghe xong, nói:
– Thế thì mời bà và mẹ hãy về buồng nghỉ, chờ lúc ấy sẽ ra cũng không muộn.
Giả mẫu trở về. Công việc trong vườn đều do Phượng Thư trông nom. Những người coi việc, mời bọn thái giám đi ăn uống, sau đó bảo người nhà gánh từng gánh nến đi thắp ở các nơi.

Chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa chạy rầm rập, chừng mười viên thái giám thở hồng hộc đến vẫy tay ra hiệu. Bọn thái giám ở đấy biết là quý phi sắp đến, đều theo phương hướng đứng xếp hàng. Giả Xá dẫn con cháu trong họ đứng chực ngoài cửa Tây.

Giả mẫu dẫn đám đàn bà trong họ đứng ở ngoài cửa chính đón tiếp. Lặng lẽ một lúc, thấy hai viên thái giám đi từ từ đến cửa Tây, xuống ngựa đem buộc ở ngoài chỗ quây màn rồi ngoảnh mặt về phía tây, buông thõng tay đứng chực. Chốc sau lại có hai viên nữa.

Rồi cứ thế lần lượt tới gần mười đôi, khi ấy mới nghe văng vẳng có tiếng âm nhạc từ đằng xa vọng lại. Rồi từng đôi một cầm quạt phượng, cờ rồng, lông trĩ, quạt rồng, và lẵng vàng đốt trầm hương.

Theo sau là một cái tán vàng thêu bảy con phượng, che mũ, áo, đai, giày. Lại có bọn thái giám mang khăn tay. Ống nhổ, phất trần cũng từng đôi một lũ lượt đi qua. Sau cùng là tám viên thái giám rước cỗ xe loan thêu phượng màu vàng từ tử đi đến.

Giả mẫu vội quỳ xuống, có ngay bọn thái giám đến đỡ dậy. Xe loan đi vào cửa chính, rẽ sang phía đông, đến trước một nhà, có viên thái giám quì xuống, mời quí phi xuống xe thay áo. Khi vào đến cửa, bọn thái giám lui ra, chỉ có Tiêu Dung, Thái Tần  đỡ Nguyên Xuân xuống xe.

Trong vườn, đèn hoa sáng rực, đều làm bằng the lụa cực kỳ tinh xảo, trên treo một cái biển căng đèn, viết bốn chữ: “thể nhàn mộc đức”
Nguyên Xuân vào thay áo rồi lại lên xe ra thăm vườn: khói thơm nghi ngút, bóng hòa rập rờn, chỗ nào cũng đèn sáng chói lọi, lúc nào cũng tiếng nhạc du dương, thật là cảnh tượng thái bình, phong lưu phú quí, nói không xiết được!

Nhớ lại những ngày ở dưới núi Thanh Ngạnh trong dãy núi Đại Hoang, mình sao mà buồn rầu tịch mịch vậy! Nếu không nhờ nhà sư chốc đầu và đạo sĩ khiễng chân mang đến đây, thì làm gì mình được thấy cái thế giới này. Muốn làm một bài phú đèn trăng, bài tụng tinh nhân, để ghi lại việc hôm nay, nhưng lại sợ vướng vào khuôn sáo của các sách.

Với quang cảnh ấy, dù có làm bài phú, bài tụng, cũng không thể hình dung hết cái đẹp của nó; mà không làm thì những hào hoa mỹ lệ, chắc độc giả cũng có thể tưởng tượng ra được. Cho nên xin bớt đi, khỏi phải dài dòng, để quay về ý chính là hơn.

Giả phi ngồi trên kiệu trông thấy quang cảnh trong và ngoài vườn, lẳng lặng thở dài: “Xa hoa quá”. Chợt viên thái giám quì mời lên thuyền. Giả phi xuống kiệu, chỉ thấy một dòng nước trong uốn khúc như rồng lượn, hai bên bờ đá, treo các thứ đèn bằng thủy tinh hoặc pha lê, sáng như bạc, trắng như tuyết.

Khắp trên cành cây liễu, cây hạnh, đều kết hoa giả bằng giấy lụa và thông thảo treo hàng bao nhiêu ngọn đèn. Dưới nước có những đèn hình hoa sen, hoa ấu, con le, con cò, đều làm bằng vỏ trai, ốc hoặc lông chim. Trên dưới đua sáng, trời nước một màu, thực là một thế giới lưu ly.

Trên thuyền lại có các chậu hoa, các thứ đèn cực kỳ tinh xảo, rèm châu, màn gấm, chèo quế, sào lan, không cần phải nói nhiều… Vào bến đá, có một cái biển đèn đề bốn chữ: “Liễu đình hoa tự”.

Bạn đọc thử xem, những chữ: “liễu đình hoa tự”, “hữu phượng lai nghi”. Chỉ là những chữ Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, sao lại đem ra đề thực? Họ Giả lại là một nhà nền nếp thi thư, bạn bè qua lại đều là những tay tài giỏi, làm gì chả có mấy người đứng ra đề vịnh, sao lại lấy những câu của chú bé con để lấp liếm cho qua?

Như vậy khác nào bọn hào phú, quẳng tiền ra, chuốc những chuyện tô son điểm phấn, như loại: Trước cửa khóa vàng cây liễu lục; sau nhà bình gấm chặng non xanh; và cho đó là nhã. Đằng này, hai phủ Ninh, Vinh mà suốt cuốn thạch đầu đã nêu ra thì không phải như vậy. Xem thế, đủ thấy trái ngược rất xa. Độc giả chưa hiểu, để vật ngu xuẩn nói rõ đầu đuôi cho hay.

Nguyên là Giả phi lúc bé được Giả mẫu nuôi dạy. Sau thêm được Bảo Ngọc. Giả phi là chị cả, Bảo Ngọc là em út. Giả phi nghĩ mẹ tuổi đã cao, mới sinh được đứa em nhỏ, nên rất thương yêu Bảo Ngọc, khác hẳn mọi người. Vả lại, chị em cùng ở với Giả mẫu, không rời nhau lúc nào.

(Trích Hồi thứ 18 – Hồng Lâu Mộng)

Khi Bảo Ngọc mới ba, bốn tuổi, chưa đi học, đã được Giả phi dạy truyền khẩu, thuộc lòng mấy quyển sách, biết đến mấy nghìn chữ.

Tuy là chị em, nhưng chẳng khác gì mẹ với con. Sau khi vào cung, Giả phi thường nhắn tin cho cha mẹ: “Cần phải nuôi dạy Bảo Ngọc cẩn thận, không nghiêm thì sau này không thành người, nhưng nghiêm quá lại sợ xảy ra sự bất trắc, làm cho cha mẹ lo buồn”.

Lòng quyến luyến của Giả phi đối với Bảo Ngọc thật là không khuây chút nào. Mấy hôm trước, thấy thầy học khen Bảo Ngọc tài tình, Giả Chính chưa tin, nhân lúc vào thăm vườn, liền bắt đề thơ, để xem ý tứ hay dở thế nào. Ông ta nghĩ: “Câu đối, biển đề” có nhờ ngòi bút của bậc đại tài cũng chẳng khó gì.

Song trẻ con làm ra, tuy không hay lắm, cũng có chỗ đáng lấy và có phong vị của nhà mình hơn”. Mặt khác, ông ta cũng muốn để Giả phi biết rằng: những câu đề vịnh này là của em nhỏ nghĩ ra, để khỏi phụ lòng Giả phi ngày thường mong mỏi. Vì thế ông ta mới để những câu đó lại. Còn chỗ nào hôm trước chưa đề, về sau đều đề thêm cả.
Giả phi xem bốn chữ này cười nói:
– Hai chữ “hoa tự” là được rồi, cần gì phả thêm “liễu đình” nữa?

Thái giám đứng hầu nghe vậy, vội lên bờ truyền cho Giả Chính. Giả Chính lập tức cho viết lại.
Bấy giờ thuyền đến bờ, ghé lại. Giả phi lên xe, thấy cung điện nguy nga, trên bức hoảnh viết bốn chữ lớn: “Thiên tiên bảo cảnh” Giả Phi sai đổi là: “Tinh thân biệt thự”, rồi tiến vào hành cung.

Ở đây, đèn đuốc rực trời, hương thơm nhát đất, cây lửa, hoa kỳ, cửa vàng, cột ngọc, rèm cuốn bằng móc râu tôm, đệm giải bằng da rái cá, đỉnh tỏa mùi xạ hương, tường treo quạt đuôi trĩ. Thực là: “Chốn thần tiền cửa vàng lầu ngọc, nhà hoàng phi đền quế, cung lan”

Giả phi hỏi:
– Tại sao nơi này không đề biển?
Thái giám đi theo hầu, quì tâu:
– Đấy là chính điện, không dám tự tiện đề trước.

Giả phi gật đầu. Thái giám mời Giả phi ngồi nhận lễ. Hai bên thềm tấu nhạc. Hai viên thái giám dẫn bọn Giả Xá, Giả Chính xếp hàng ở dưới thềm. Chiêu Dung truyền dụ: “miễn lễ”. Mọi người lui ra. Lại dẫn bọn Giả mẫu từ thềm bên đông lên. Chiêu Dung lại truyền dụ: “miễn lễ”.

Mọi người lại lui ra. Ba tuần dáng trà xong. âm nhạc nghi. Giả phi xuống ngai, vào nhà bên thay áo, rồi lên xe ra vườn chơi. Đến nhà Giả mẫu, Giả phi muốn làm lễ gia đình, Giả mẫu quì xuống ngăn lại.

Thoạt gặp mặt nhau, Giả phi rỏ nước mắt, một tay nắm Giả mẫu một tay nắm Vương phu nhân. Ba người đều thổn thức, nói không ra lời. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Vương Hy Phượng, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đứng bên cạnh cũng đều rỏ nước mắt không nói gì. Một lúc Giả phi mới nén buồn, cười gượng an ủi:

– Ngày trước đã đưa tôi đến chỗ không bao giờ được về gặp người nhà, nay may được về đây, mẹ con lại không cười, không nói, cứ khóc! Chốc nữa tôi đi, biết bao giờ lại được gặp nhau?
Nói xong Giả phi không nhịn được, lại thổn thức khóc.

Hình phu nhân vội đến khuyên giải. Giả mẫu mời Giả phi về chỗ ngồi. Giả phi theo thứ tự hỏi han từng người, lại khóc một phen nữa. Rồi đến những người coi việc ở phủ đông, phủ tây đứng ngoài hiên làm lễ. Sau lần lượt đến bọn hầu đàn bà con gái. Giả phi hỏi:
– Dì Tiết, Bảo Thoa, Đại Ngọc ở đâu không đến.
Vương phu nhân thưa:
– Vì họ là ngoại, không có chức vị gì, nên không dám thiện tiện vào hầu.

Giả phi liền bảo mời vào. Một lúc, Tiết phu nhân vào, muốn theo quốc lễ, nhưng Giả phi truyền miễn cho, rồi cùng kể “Hành chi thanh phân”, trên gác, lên lầu, qua ngòi, quanh núi, nhìn ngắm quanh co, chỗ nào cũng trang hoàng lộng lẫy, cái gì cũng tô điểm mới lạ. Nguyên phi khen ngợi không ngớt, lại khuyên: “Làm thế này là quá lạm, lần sau không nên xa xỉ quá. Đến chính điện, Nguyên phi truyền miễn lễ, mọi người vào chỗ ngồi. Tiệc yến bắt đầu. Giả mẫu ngồi dưới tiếp, bọn Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư thì dâng canh, nâng chén.

Nguyên phi truyền lấy bút mực sẵn, tay mở giấy hoa tiên, chọn chỗ nào vừa ý thì đặt tên. Tên vườn thì đặt là “Đại quan viên” , biển ở chính diện đề là: “Cố ân tư nghĩa”

Câu đối đề:
Trời đất mở lòng nhân, con đỏ dân đen đều mến phục,
Xưa nay rộng ân điển, chín cháu muôn nước đội vinh quang.

Chỗ có biển đề: “Hữu phượng lai nghi” thì đặt tên là: “Tiêu Tương quán”  Chỗ đề: “Hồng hương lục ngọc”, thì đổi là: “Di hồng khoái lục” , và đặt tên là: “Di hồng viện”. Chỗ đề “Hành chí thanh phân” thì đặt tên là: “Hành vu uyển”. Chỗ đề: “Hạnh liêm tại vọng” thì đặt tên là: “Cán các sơn trang”  lầu giữa đặt tên là: “Đại quan lâu”.

Lầu bên đông đặt tên là: “Xuyết cẩm các” . Lầu bên tây đặt tên là: “Hàm phương ác”. Lại còn những tên “Lục phong hiên”, “Ngẫu hương tạ”, “Từ lang châu” , “Hành diệp chứ”. Biển đề có những chữ: “Lê hoa xuân vũ”, “Đồng tiễn thu phong” , “Địch lộ dạ tuyết” .

Nguyên phi lại truyền không nên bỏ những câu đối và bức hoành đã đề trước, rồi đề một bài tứ tuyệt như sau:
Non nước bao quanh khéo lạ lùng,
Biết bao công của mới làm xong.
Thợ trời thêm thợ người tô điểm,
Gọi Đại quan viên có xứng không?

Nguyên phi đề xong, cười bảo các chị em:
– Tôi xưa nay vẫn kém tài mẫn tiệp, không quen ngâm vịnh, các em đều đã biết cả. Đêm hôm nay gọi là nghĩ qua loa để khỏi phụ cảnh này thôi. Bao giờ rỗi tôi sẽ soạn bài “Đại quan viên ký” và bài “Tình thân tụng” để kỷ niệm ngày hôm nay. Chị em cũng nên mỗi người đề một cái biển, vịnh một bài thơ, chớ vì tài mọn của tôi mà phải gò bó. Bảo Ngọc cũng biết đề vịnh, điều ấy đáng mừng. Trong các nơi, ta thích nhất “quán Tiêu Tương” và “Hành Vu uyển” rồi đến “viện Di Hồng” và “Cát cân sơn trang”, bốn nơi này phải có thơ đề vịnh riêng mới được. Những câu đề trước tuy cũng khá, nhưng phải làm mỗi nơi một bài thơ, để ta thử tài tại chỗ, mới không phụ công ta vất vả dạy dỗ từ bé!

Bảo Ngọc vâng lời, lui ra nghĩ thơ.
Trong bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân thì Thám Xuân hơn cả. Nhưng biết trước không thể đua tài với họ Tiết, họ Lâm được, tuy nhiên, nàng cũng phải gắng gượng làm cho qua chuyện. Lý Hoàn cũng gắng sức làm một bài. Giả phi lần lượt xem:

Biển đề KHOÁNG TÍNH DI TÌNH
Phong cảnh vườn này thực lạ ghê.
Vâng lời đề biển, thẹn tay đề.
Cõi trần đâu có nơi nào thế,
Dạo cảnh ai là chẳng phải mê!
Nghênh Xuân

Biển đề VẠN TƯỢNG TRANH HUY 
Vườn này xây đắp thực nguy nga,
Vâng mệnh đề thơ thẹn bút hoa

Tinh xảo nhường nào không kể xiết,
Quả nhiên muôn vật đẹp thêm ra.
Thám Xuân

Biển đề VĂN CHƯƠNG TẠO HÓA
Non nước bao quanh mấy dăm dài,
Lâu đài cao ngất giữa từng mây.
Sánh cùng nhật nguyệt cùng tươi sáng,
Bác thợ trời kia cũng kém tài.
Tích Xuân

Biển đề VĂN THÁI PHONG LƯU
Bốn bề non nước cảnh chơi vơi,
So với Bồng lai đẹp tuyệt vời.
Quạt lướt màu xanh làn cỏ ngát,
Quần xòe sắc đỏ cánh hoa rơi.
Ngọc chờ đời thịnh càng lên giá.
Tiên ở đài dao lại xuống chơi.
Từ lúc vườn này chào khách quí,
Phàm trần đã đến được bao người Lý Hoàn

Biển đề NGƯNG HUY CHUNG THỤY 
Vườn hoa xây cạnh đế thành,
Một vùng trời đẹp mây lành lạ sao.
Rời hang oanh đã đậu cao,
Trúc kia đợi phượng múa chào cùng vui.
Gió văn thổi lúc ra chơi,
Thăm nhà trọn hiếu dạy người theo noi.
Tài tiên cao diêu tuyệt vời,
Thẹn mình còn dám thêm lời nữa sao?
Tiết Bảo Thoa

Biển đề THẾ NGOẠI TIÊN NGUYÊN 
Dạo chơi Người lại thêm vui,
Cõi tiên nào phải là nơi bụi hồng!
Đẹp thay mượn cảnh non sông,
Điểm tô cảnh lại lạ lùng đẹp hơn.
Rượu kim cúc ngát mùi hương,
Chào mừng người ngọc rõ ràng hoa tươi.
Mong sao trên đội ơn trời,
Vườn này thường được đón mời xe loan.
Lâm Đại Ngọc

Nguyên phi xem xong khen mãi, cười nói:
– Rút cục bài của em Tiết, em Lâm hơn hẳn các bài. Chị em chúng ta không ai bằng.

Ngay đêm ấy, Đại Ngọc định trổ hết tài át hẳn mọi người. Không ngờ Nguyên phi chỉ bảo đề mấy chữ hoành biển và một bài thơ, nên không dám trái lời, chỉ làm qua loa một bài thơ cho tác trách. 

(Trích Hồi thứ 18 – Hồng Lâu Mộng)

Mấy hôm nay, cùng với sự kiện hai bộ phim “Mốt” và “Mận, Bún và Violin” thành công vang dội là việc hai thằng bạn tôi nảy lòi ra làm thơ khiến tôi vui không sao tả xiết. Vậy là giờ đây, ngoài tình bằng hữu tôi còn có thêm những người bạn thơ để mà đàm đạo

From:Mr Xi Nê

 Chủ tịch Hội Điện Ảnh Tp. Vườn Địa Đàng

To: Mr William

Trước tiên, thay mặt những người làm phim chân thành cảm ơn sự quan tâm của Ông tới hai tác phẩm vừa được công chiếu trong những ngày Tết vừa qua. Là những người làm trong lĩnh vực Điện ảnh chúng tôi cũng vô cùng hạnh phúc vì sự thành công của “Mốt” và “Mận, Bún và Violin”.

Điều đó là minh chứng cho thấy một bộ phim nếu được làm một cách tâm huyết và chỉn chu trên tình thần tôn trọng người xem thì dù đâu đó còn có chỗ chưa hoàn thiện và thiếu sót nhưng cũng sẽ vẫn nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của Quý vị khán giả

Trong tương lai, tôi hy vọng các nhà làm phim chúng ta không ngừng học hỏi, trau dồi, nâng cao kiến thức tiếp cận gần hơn với các kỹ thuật tiên tiến của điện ảnh thế giới để cho thể cho ra những sản phẩm điện ảnh có giá trị cao, mang đậm dấu ấn đời sống và con người Việt. Và cũng nhằm góp thêm một món ăn tinh thần có chất lượng cho người dân “Vườn địa đàng” chúng ta

Với sự vui mừng khôn xiết, tôi hoàn toàn tán thành mong muốn của Ông về việc thành lập một Hiệp Hội thơ ca cho thành phố chúng ta!

Chúc ông thành công với kế hoạch của mình và đón một mùa Xuân luôn tràn đầy niềm vui!

Trên đây là thư của ngài chủ tịch bên điện ảnh mới gửi cho tôi tối hôm qua. Suốt đêm tối lại mất 1/2 của 13 giờ không ngủ :)) để suy nghĩ về cái tên cho Hội thơ của mình. Để chính thức hôm nay, ngày Tết nguyên tiêu, ngày mà những người yêu vẻ đẹp của nghệ thuật thi ca thường có cảm hứng họa lên, vịnh lên những khúc ca ngân tươi đẹp, tôi xin công bố  HỘI THƠ THÀNH PHỐ VƯỜN ĐỊA ĐÀNG mang tên:

Yêu THƠ từ cái nhìn đầu tiên

Và các bạn biết không chẳng biết là do cái tên của Hội hấp dẫn quá hay là quá thương quý tôi mà tất cả mấy thằng bạn chiến hữu của tôi đứa nào cũng tình nguyện gia nhập không một chút lăn tăn, kể cả khó tính cỡ …”cụ xứ”.

Chứ sao nữa,

thằng Jack làm thơ về hoa Mai thì đã có đến 999.999 (nhưng đơn vị tiền tệ là…VND, gớm “cụ xứ” cứ gắn cho nó cái mác USD làm nó phải treo cái biển to tướng trước nhà cải chính chứ không đêm lại khổ vì canh…trộm, nhà đã kịp lắp camera đâu :)))

còn thằng Monster làm thơ về hoa Mận xong thì lăn quay ra ốm. Chả biết nó ốm vì gì chỉ thấy sao ốm mà nó vui như kiểu trúng …Vietlot :)). Chắc phải nhờ thằng Leo chẩn đoán, dù sao thằng chả cũng có nhiều kinh nghiệm thực tế :)))

Vậy là Yêu THƠ từ cái nhìn đầu tiên đã có 3 thành viên đầu tiên:

-Tôi: William chủ tịch

Mr Jack: Phó chủ tịch phụ trách tài chính

Mr Monster: Thơ ký phụ trách nội dung “You and I” :))

Ba đứa hội viên còn lại là những nhân vật quen thuộc đã gắn bó với Quý độc giả qua các câu chuyện dài kỳ cả năm qua :)). Ba chàng ngự lâm này muốn nhập thất Am Thơ của tôi cũng phải cúng cho tôi 3 bài thơ Haiku mới được tôi chấp thuận. Không dễ đâu, tôi, à quên Thơ,  dù ế cũng phải có tiêu chuẩn của nó :))

Mời các bạn thưởng thức:

1.

Nàng Mona

Hoa súng từ vườn Monet

Trên con tàu tuổi trẻ

(Charlie)

2.

Từ Vườn địa đàng

Nhìn thấy

Trái tim đập

(Leo)

3.

Tết nguyên tiêu

Điện thoại kêu

Lô số 1

(Skeleton)

:))

Mới hồi trưa thằng Charlie nó nhắn với tôi để nó lôi kéo thêm một vài người bạn của nó vào cái Hội này nữa cho thêm phần xôm tụ. Mountain chẳng hạn, nhưng thằng nhỏ đang du ngoạn chốn núi cao vực thẳm nó còn lâu mới có mặt tại thành phố của chúng tôi được.

Vậy nó đang làm gì ở cái chốn xa xôi ấy nhỉ? 

NGƯỜI H’MONG

By Sarah Turner

4.

Đối với hàng chục nghìn hộ gia đình người Mông ở vùng cao vẫn tiếp tục phụ thuộc vào sinh kế bán tự cung tự cấp, trâu là tài sản thiết yếu về nhiều mặt. Để đảm bảo nguồn cung trâu, cư dân vùng biên giới phải cân nhắc cẩn thận lợi ích và bất lợi của việc tham gia vào các tuyến đường vùng cao khác nhau mà qua đó những con vật này được trao đổi và mua bán.

Các thể chế xã hội, văn hóa và nghi thức đa dạng đặt ra các hướng dẫn cho việc tiến hành các giao dịch trâu, dù trong bối cảnh buôn bán dựa trên cộng đồng hay mang tính khách quan hơn trên thị trường.

Trâu phục vụ nhiều chức năng trong nền kinh tế hộ gia đình người Hmong và đóng vai trò quan trọng như một con vật hiến tế (đối với các hộ gia đình theo thuyết vật linh), là bằng chứng về sự giàu có và uy tín cũng như là dấu hiệu nhận dạng. Những con vật có giá trị này được buôn bán và trao đổi trong các thôn, ở địa phương thông qua những nơi được coi là “làng trâu” chuyên biệt, hoặc ở những chợ trâu.

Khả năng tiếp cận các mạng lưới phức tạp này của các cá nhân và hộ gia đình người H’mông có thể rất khác nhau. Thay đổi phương thức vận chuyển, thắt chặt kiểm soát qua biên giới, lo ngại về dịch bệnh vật nuôi và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt đã dẫn đến các luồng cung và cầu mới, tuy nhiên vị trí quan trọng của trâu trong sinh kế vùng cao của người Hmông dường như rất ổn định.

Vị trí của trâu trong sinh kế vùng cao của người Mông

Trâu phát triển mạnh trong môi trường bùn lầy, ẩm ướt và được tìm thấy khắp vùng nông thôn Trung Quốc về phía nam khoảng 360 bắc và về phía đông 97o đông. Hơn một nửa số trâu của Việt Nam sống ở khu vực miền núi phía Bắc, nơi có điều kiện sinh thái tối ưu cho sự phát triển của chúng, trong khi việc cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp ở vùng đất thấp màu mỡ đã khiến chúng trở nên dư thừa ở đó.

Tuy nhiên, trên khắp vùng biên giới. Tại Việt Nam, trâu chiếm 79% tổng đàn chăn nuôi (trâu, bò và ngựa) của tỉnh Lào Cai vào năm 2010, phần lớn ở phía tây sông Hồng. Ở phía đông, trâu là một phần sinh kế ít phổ biến hơn của các hộ gia đình, đặc biệt là ở khu vực biên giới tỉnh Hà Giang, nhưng có xu hướng sinh sống ở những vùng trũng thấp có người dân tộc Tày và Nùng.

Ở tỉnh Lai Châu, cũng như tỉnh Lào Cai, trâu là một phần sinh kế cốt lõi của người Hmông. Hoạt động buôn bán xuyên biên giới phát triển mạnh về những loài vật nuôi này, ít nhất đã có từ thời thuộc địa, vẫn hoạt động tích cực trên khắp các dãy núi hùng vĩ này.

Trâu đã góp phần đáng kể vào sinh kế của con người và an ninh lương thực.

Trong hơn 5.000 năm, người dân ở châu Á đã phụ thuộc vào chúng cho các công việc lao động trong sản xuất nông nghiệp cũng như vận chuyển các vật nặng. Trâu là tài sản sinh kế đa chiều duy nhất, đóng vai trò là nguồn hoặc người hỗ trợ vốn vật chất, tự nhiên, tài chính, xã hội và văn hóa.

Ở vùng biên giới, nơi điều kiện sinh thái thuận lợi cho canh tác bậc thang, trâu rất quan trọng đối với những bậc thang dốc nhất, vì máy cày cơ giới không phù hợp với những mảnh đất hẹp, thẳng đứng. Ngay cả ở những khu vực ít dốc hơn, trâu thường tiết kiệm chi phí hơn so với máy kéo nhỏ vì chúng giúp nông dân tiết kiệm tiền nhiên liệu và có chi phí bảo trì thấp và giá bán lại cao.

Trâu mang lại lợi ích bổ sung bằng cách tiêu thụ các sản phẩm phụ không thể sử dụng được trong sản xuất trang trại, chẳng hạn như thân cây lúa, trong khi phân của chúng có thể được sử dụng làm nhiên liệu nấu ăn hoặc cải thiện độ phì của đất.

Là nguồn cung cấp thịt tươi và khô quan trọng, trâu đóng vai trò trực tiếp trong vấn đề dinh dưỡng và an ninh lương thực của người Hmông.

Tuy nhiên, mãi đến gần đây nông dân vùng biên giới mới nuôi trâu cho những mục đích cụ thể này. Ngoại trừ nghi lễ hiến tế, trâu thường chỉ bị giết để tiêu thụ sau khi chúng không còn khả năng lao động do tuổi tác hoặc bị thương.

Trâu cũng đóng góp theo những cách khác. Sừng của chúng được sử dụng làm cán dao, nhạc cụ và dụng cụ bói toán, cũng như để “giác hơi”, một phương pháp chăm sóc sức khỏe truyền thống để giảm đau và đau đầu. Da trâu cũng được sử dụng.

Trâu là nguồn tài sản, tiết kiệm và bảo hiểm di động, có khả năng thay thế cao. Với giá trị tiền tệ cao, trâu là lựa chọn lý tưởng để tăng thu nhập lâu dài cho hộ gia đình. Ví dụ, vào năm 2012, nông dân người Mông ở tỉnh Lào Cai, Việt Nam cho biết giá tiêu chuẩn cho một con trâu trưởng thành đáng tin cậy có khả năng lao động là 18-20 triệu đồng.

Tin đồn lan truyền tại một đám cưới của người Mông năm 2012 về việc một con trâu quý được bán với giá 29 triệu đồng đã khiến những người tham dự vô cùng ngưỡng mộ và tạo uy tín cho gia chủ.

Trâu thường bắt đầu được đào tạo công việc khi được hai tuổi và tiếp tục cung cấp lao động nông nghiệp quan trọng cho đến khi chúng khoảng 11 tuổi, khi năng suất của chúng bắt đầu giảm. Trâu cũng có thể được đánh giá cao về giá trị khi chúng trưởng thành và sinh sản; trâu cái có khả năng sinh con cho đến khoảng mười tám tuổi.

Số lượng và sức khỏe của trâu trong một hộ gia đình người Mông là dấu hiệu quan trọng của sự giàu có. Người Mông giải thích với chúng tôi rằng một hộ được coi là khá giả nếu có ba con trâu trở lên và nghèo nếu không có con nào. Do đó, các hộ dân tỏ ra miễn cưỡng bán trâu và sẽ tránh làm điều đó nếu có thể.

Như Doua, một người đàn ông Hmong đến từ tỉnh Lào Cai, nói: “Chúng tôi thực sự không muốn bán chúng vì chúng rất quan trọng đối với chúng tôi, vì vậy chúng tôi không làm điều đó trừ khi chúng tôi thực sự cần tiền”.

Trâu  đóng vai trò là mạng lưới an toàn kinh tế quan trọng của các hộ gia đình người Mông. Trong lúc khó khăn hoặc khủng hoảng, trâu có thể được bán để lấy tiền ngay hoặc dùng làm tài sản thế chấp cho các khoản vay.

Bán trâu là cách phổ biến để trả một khoản vay lớn hoặc trang trải chi phí y tế khổng lồ khi một thành viên trong gia đình lâm bệnh nặng. Trâu cũng có thể được sử dụng để trả cho các khoản phạt theo phong tục trong xã hội Hmong (ví dụ như ngoại tình), và con trai tặng trâu là một cách thông thường để các hộ gia đình Hmong tài trợ cho lễ cưới,  cũng như để chú rể và gia đình anh ta có được số tiền lớn và các vật phẩm được đổi thành tài sản của cô dâu và các khoản thanh toán đám cưới khác.

Tóm lại, sự đóng góp sinh kế hữu hình của trâu rất phong phú và đa dạng. Như Yeng, một người đàn ông Hmong ở tỉnh Lào Cai đã hùng hồn tuyên bố, loại gia súc này là “động cơ thần kỳ của gia đình”.

Tâm linh, bản sắc và văn hóa trâu và hmong

Địa vị cao đẹp của trâu  được thể hiện rõ ở vị trí của chúng trong các nghi lễ vòng đời của người Hmong, đặc biệt là đám tang, trong đó con vật hiến tế được cho là sẽ đồng hành và hướng dẫn người đã khuất trong hành trình xuống địa ngục.

Trâu cũng có trong các nghi lễ chữa bệnh của người Hmong và đôi khi trong các lễ vật và bữa tiệc mừng năm mới âm lịch như ở nhiều xã hội dân tộc thiểu số khác trên khắp khối núi Đông Nam Á.

Giá trị của các loài động vật khác nhau được hiến tế trong đám tang của người Hmong liên quan trực tiếp đến địa vị kinh tế và xã hội của người đã khuất.

Cũng theo Khu, một phụ nữ người Mông ở tỉnh Lào Cai, nếu một người đã đến tuổi dậy thì trước khi chết thì gia đình họ phải hiến tế một con trâu. Tuy nhiên, đối với cái chết của một đứa trẻ, việc hiến tế những động vật nhỏ hơn, chẳng hạn như lợn hoặc gà, có thể được chấp nhận.

Giá trị của con trâu hiến tế còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế hiện tại của hộ gia đình và mối quan hệ họ hàng, địa vị cộng đồng của người bị hy sinh. Theo lời của Khu, “Nếu nghèo thì có thể cúng một con lợn lớn hoặc một con trâu cỡ nhỏ cũng được.

Nhưng nếu có điều kiện thì bạn phải dùng một con trâu lớn, một con trị giá khoảng 12 triệu đồng. Điều này đặc biệt đúng nếu cha, mẹ hoặc một người rất quan trọng của bạn đã qua đời. Những thực hành này là một phần không thể thiếu trong việc duy trì dòng dõi và bản sắc Hmong cũng như sự thịnh vượng của gia đình. Trong lễ tang, cách phân chia và phân phối trâu bị giết mổ “là một trong những phương tiện chính để phân biệt các nhóm huyết thống khác nhau”.

Do đó, sự phân bổ này rất quan trọng đối với tính liên tục của bản sắc văn hóa Hmong thông qua việc tái hiện mang tính biểu tượng của cấu trúc họ hàng. Khi thực hiện các nghĩa vụ văn hóa này, hộ gia đình còn thể hiện uy tín của mình, củng cố mạng lưới xã hội và góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho cộng đồng thông qua tái phân phối. 

 

February 24, 2024 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
Rose

Mùa chim én bay (5)

by Rose & Cactus February 21, 2024

Các bạn có để ý không, thời tiết hôm nay dễ chịu hơn hẳn nhỉ, ít nhất thì cũng là trong khoảng 3 tuần gần đây kể từ đầu tháng 2. Buổi sáng mình bước ra khỏi nhà mà cứ ngỡ như là mình đang sống trong một sáng Xuân (những ngày có nắng khô ráo) ở quê mình từ thời nảo thời nào. Giá ngày nào cũng thế này có phải hay không , chứ như mấy hôm rồi thì đúng là nắng kinh khủng quá.

Cả mùa đông xuân năm nay miền Nam không có đợt “lạnh” nào khiến giới trẻ phê đến mức phải lôi những chiếc áo len mỏng sặc sỡ ra diện hay làm dáng (chụp hình dưới hàng cây bên kênh Nhiêu Lộc  chẳng hạn). Người ta quy cho là do hiện tượng biến đổi khí hậu El Nino, thôi thì cũng là biết vậy.

Thế mà chưa đủ đâu, không chỉ khí hậu mà cả nhiều sự kiện sau Tết cũng như muốn đua tranh, về cái sự nóng. Nào cháy nhà, nào tai nạn giao thông…Thảm họa nào trong hai cái này cũng có thể gây ra những thiệt hại về người và của to lớn và để lại nhiều nỗi ám ảnh cho gia đình nạn nhân và những người chứng kiến cả. Nguyên nhân thì nói đi nói lại mãi cũng thành nhàm: Ý thức tồi + Hạ tầng kém.

Sáng nay khi đi qua đoạn đường quen thuộc nơi có một ngôi trường tiểu học nhỏ con mình thắc mắc sao bữa nay con ít thấy mấy cô chú bán hàng rong trước cổng trưởng thế. Ấy là vì cô chú đó họ về quê chưa vào đó con. Cả năm đi làm ăn xa, chỉ có đến Tết mới được đoàn tụ với gia đình nên ai cũng muốn nán lại quê hương thêm một đôi ngày.

Tình thân là thứ khiến con người cứ muốn kéo dài mãi những khoảnh khắc bên nhau

Tôi xa quê hương bao năm tháng qua

Nhưng trong trái tim không bao giờ xa

Chúc cho tất cả mọi người đều an toàn trong ngày trở lại!

Nhật ký Jack,

Feb 21

Tết đã qua và tôi cũng đi học trở lại được 2 ngày rồi. Ấy vậy mà tôi vẫn có cảm giác hương vị Xuân còn vướng vít nơi này nơi kia, trong nhà ngoài ngõ. Đúng thật là như thế, khi cây mai trước cửa chưa chịu rụng đến những chiếc cánh cuối cùng. Dù dưới gốc nó đã dệt lên một thảm hoa dầy thì trên những cành cây gầy guộc  vẫn còn xen kẽ những bông hoa nở muộn và một vài cái nụ bé xíu

Trên cành mai

Trơ trụi,

Một nụ hoa đẫm sương

Các bạn thấy bài thơ Haiku của tôi có ổn không ? Thú thực là chẳng bao giờ tôi nghĩ mình lại có khả năng làm thơ cả, bảo tôi bơi vượt đại dương tôi chả ngán, chấp hết :)), nhất là đại dương nào có có cái hòn đá nơi nàng tiên cá ngồi chờ trên đó thì thôi, khỏi bàn, phút mốt là tôi đã có mặt, Leo tuổi gì :)) chứ bảo tôi  làm thơ thì…..

-Cái gì Jack, mày làm thơ cơ à? Từ từ đã để tao đi tìm thuốc trợ tim

-Bạn của tôi ơi, mong bạn bình tĩnh, mình có bao giờ nói dối bạn đâu

Buồn thế đấy, dù tôi nói thế nào thì thi sĩ William nó cũng không tin:

-Này Skeleton, ngoài cái món “Cộng hòa” của Plato ra mày còn cho thằng Jack thưởng thức kiệt tác nào nữa không mà bữa nay nó bày đặt làm thơ Haiku, cái gì ấy nhỉ, à, trên cành mai rồi lại còn nụ hoa đẫm sương nữa cơ chứ, ghê thật!

Không chần chừ, một tay đang chát chít với vận động viên marathon, một tay thi sĩ phải bấm ngay số của chuyên gia đất đai để làm cho ra nhẽ

-Giời ạ, mày tưởng tao rảnh thế sao ? Chừng nào ba cô con gái của tao có người rước tao mới nghĩ đến cái dự án “Khuyến đọc” được:)). Khổ lắm Wiliam ơi, đã đại hạ giá đến thế rồi mà vẫn ế dài, biết bao giờ chúng mới được may mắn như thằng chả Charlie đây :))

Ấy nhưng vừa rời cái phone với anh chàng thi sĩ thì ở đầu dây bên nhà MC Charlie người ta đã nghe tiếng chuông đổ dồn:

-Alo, Charlie hả ? Nghe rõ không đấy ? Nói nghe nè, có phải hồi chiều mày sang cắt tóc bên quán “Đợi chờ là niềm hạnh phúc” rồi trả công cho thằng Jack bằng một bài thơ Haiku không ?

-Mày nói rõ lên tí nữa xem nào, nói gì tao không nghe :)). Cái gì, thơ nào, cho thằng Jack ấy hả? Mày nghĩ sao vậy Skeleton tao nặn mãi mà chưa ra dòng nào tặng nàng ân nhân đã chữa bệnh cho tao đây này. Mày có nhã ý thì làm giúp tao đi!

Chả biết Skeleton có nghe hết cái giọng thều thào của chàng MC không mà nó đã nghe tiếng máy cụp cái bụp:

-Mày nói thằng Jack bị bệnh gì là bệnh gì hả Charlie ? Sao, sang tìm hiểu ngay ấy hả ? Nhưng tao là bác sĩ sản khoa nên không thể chữa được bất cứ bệnh nào của chúng mày nghe chưa :))

-Tao nghĩ khả năng đến 99% nó bị bệnh OTT rồi, cái bệnh này khó gì đâu, mày xem trong cái kho “mũi tên thần Cupid”của mày ấy có mũi nào giải độc không sang giúp cho thằng nhỏ gấp đi, ba tuần nữa thi giữa kỳ rồi bệnh tật thế làm bài sao đây?

Bệnh này có trời chữa:

-Monter hả, chuyến chu du vùng đất thép phương Bắc của mày thế nào? Thỉnh kinh xong rồi có còn nhớ anh em không đới ? Hay là quên hết cả rồi ? Mày xem thế nào sắp xếp xuống núi thăm khám cho thằng Jack, nó bữa nay chẳng biết ăn gì mà mắc bệnh …xuất khẩu thành thơ? :))

– Mày kiểm tra tài khoản của nó tại Ngân hàng đi, hiện giờ số dư đang là 999.999 USD. Đấy, tao chỉ nói đến thế thôi Leo, mày phải vận dụng khả năng đọc hiểu vào thì rõ tại sao nó lại làm thơ nhá :)). Mà nếu không biết thì điện hỏi cô ma sơ ấy, nghe đâu hôm nay trời đẹp cổ cũng ra khỏi hang du ngoạn rồi :))

Gì chứ cũng phải công nhận một điều “cụ xứ” cũng nhiều tài lẻ, đấy khả năng tiên đoán Tiền của ai đó dựa vào…. Thơ đó thôi :));

Và sẽ chẳng ai ngạc nhiên khi tối đó có ai trông thấy cụ cũng treo lên bức vách nơi căn nhà của cụ trên đỉnh núi, một bài thơ Haiku cực kỳ thời sự :))

Dưới gốc MẬN

Thưởng BÚN,

VÀ nghe VIOLON réo rắt

Tôi thật, các bạn đừng tưởng chỉ có “cụ xứ” nhà chúng tôi mới có tài tiên đoán. Tôi chả kém cạnh đâu, cụ nghe tôi làm thơ về hoa MAI cụ dự tôi đang có 999.999 USD trong tài khoản.

Xời ơi, cụ nghĩ sao tôi chỉ có từng đó, tính đến hôm nay con số này đã gấp gần hai chục lần rồi. Kinh thật, tôi đúng bái phục thầy tôi Ngài Rêm Ka Mơ Jun vì câu nói giữa biển khơi mấy năm về trước.

Vậy, “cụ xứ” phán tôi có Tiền vì tôi làm thơ MAI, thì tôi cũng trộm nghĩ phải chăng cụ làm thơ MẬN là vì…

…là vì cụ đang OTT, thật tôi ngại lắm, nhẽ lại nói thẳng tuột ra chữ …Tình :)).

Ối giời ơi, thế chắc sáng mai Sài Gòn có tuyết mất thôi, bạn nào mang cái nhiệt kế ra ngoài trời đo thử giùm tôi nhiệt độ hiện thời, lúc này 22h50′, đã xuống đến 0 độ chưa với :)). 

Chết dở, chợt nghĩ ra điều gì tôi lao vội xuống lầu:

-Ngoại ơi ới ời ời

Nơi cụ ông và cụ bà nhà tôi đang chuẩn bị hành lý đồ lề để mai hai cụ về lại miệt vườn sông Hậu:

-Ngoại ơi thư thư đã, mai ngoại khoan hãy về nha!

Dĩ nhiên rồi, ông bà tôi mắt tròn mắt dẹt nhìn tôi như thể tôi rớt xuống từ hành tinh khác vậy:

-Tí sao vậy con? Sáng nay con đã biết mai ngoại về rồi mà

-Dạ vì khả năng cao mai Nam Bộ tuyết sẽ rơi nặng hạt. Ngoại đợi con đi mua vài cái áo ấm đã không đi đường rét mướt lắm

-Để ngoại sờ trán con xem nào. Đúng là nó có hơi nóng thật. Khổ thân, thành phố mấy nay nóng nực quá khiến cháu tôi mắc chứng “ấm đầu” rồi đây :)).

Thôi giờ con đi nghỉ đi, nếu khó ngủ hãy cầm quyển sách này đọc. Biết đâu đọc xong con sẽ cảm được chút băng giá ngoài quê hương vùng cao của ngoại mà khỏi bệnh.

Và tôi cũng mong như thế lắm thay, nên chẳng chần chừ, tôi lật giở ngay những trang sách đầu tiên:

NGƯỜI H’MONG

By Sarah Turner

Cao nguyên ở vùng biên giới phía Bắc là nơi có nhiều vách đá cheo leo, hiểm trở và khắc nghiệt. Khu vực này là một phần của khối núi Đông Nam Á, một vùng đất cao rộng lớn kéo dài về phía đông nam cao nguyên Himalaya và ngày nay được chia sẻ giữa mười quốc gia.  

Hai trăm triệu người, hơn một nửa trong số đó là người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng cao của khối núi này, với sinh kế chủ yếu dựa vào nông nghiệp vùng nông thôn

Có khoảng bốn triệu người Hmong ở châu Á (Lemoine 2005), phân bố theo thứ tự dân số giảm dần là Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Myanmar và có thể là Campuchia. Hơn một triệu người Hmong sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc, và có thể nhiều người sống ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.

Trong suốt lịch sử của mình, người dân vùng cao Hmong đã phát triển các nền kinh tế, phương pháp chính trị và vũ trụ học đặc biệt giúp phân biệt họ với nhiều nước láng giềng cũng như với người Hán và người Kinh ở vùng đất thấp xung quanh môi trường sống cao nguyên của họ.

Mối quan hệ họ hàng giữa các hộ gia đình, dòng họ và thị tộc là những yếu tố gắn kết cốt yếu trong mọi mối tương tác quan trọng. Đối với người Hmong, lợi ích của mối quan hệ họ hàng vẫn tồn tại theo thời gian và không gian, tạo ra mạng lưới xuyên biên giới mở rộng về mặt địa lý, là biểu hiện cơ bản của vốn xã hội.

​ Các thành viên trong dòng họ thích sống gần nhau khi có thể, vì sự tương tác nội dòng diễn ra hàng ngày và là yếu tố then chốt tạo nên danh tính. Ngay cả phụ nữ Hmong đã kết hôn vẫn có mạng lưới hỗ trợ từ gia đình ruột thịt của họ. Hộ gia đình là đơn vị kinh tế, nghi lễ và xã hội cốt lõi và có xu hướng hướng tới sự tự chủ về kinh tế càng nhiều càng tốt. Theo quy định, các hộ cùng dòng họ sẽ hỗ trợ lẫn nhau trong các công việc như chuẩn bị vụ mùa, thu hoạch, xây nhà, v.v.

Trong nhiều thập kỷ, phần lớn nền nông nghiệp của người Hmong ở vùng cao bao gồm lúa nước và ngô, cùng với lúa nương (hoặc lúa ruộng khô) ở những vùng xa xôi hơn. Ở hầu hết các cộng đồng, nơi đất đai trong gia đình được chia cho con trai khi kết hôn, việc tự cung tự cấp gạo và ngô được coi là sự phản ánh của sự giàu có và cần cù.

Tập quán thừa kế này cũng có nghĩa là quyền sở hữu đất đai theo phong tục của phụ nữ Hmông thường xoay quanh tình trạng hôn nhân của họ với tư cách là vợ hoặc mẹ, mối quan hệ này có thể trở nên mong manh sau khi ly hôn hoặc chồng qua đời.

Phụ nữ ly thân hoặc góa bụa có thể gặp khó khăn trong việc duy trì khả năng tiếp cận đất đai. Ly, một phụ nữ đến từ tỉnh Lào Cai, Việt Nam đã nói: “Người Mông ở đây coi đất chỉ dành cho con trai chứ không dành cho con gái”.

Các yếu tố khác cũng có ảnh hưởng đến sinh kế của người Hmong địa phương, chẳng hạn như sự gần gũi với họ hàng, trao đổi hiện vật và lao động thông qua trao đổi phi tiền tệ, sự giàu có của cô dâu, quyền sở hữu nông cụ, các hình thức tích lũy của cải cụ thể, chia sẻ kiến thức và chuyên môn, chi phí hiến tế động vật và các nghi lễ trong đám cưới và đám tang – ít nhất là vẫn tiếp diễn.

Ngoại trừ những người đã chuyển hoàn toàn sang trồng trọt để kiếm tiền – điều mà cho đến nay chủ yếu xảy ra ở Trung Quốc – người Hmong ở những vùng biên giới Việt-Trung có xu hướng sinh kế dựa vào nông nghiệp trồng lúa và ngô, do khả năng tiếp cận  đất đai và địa hình của họ. Gạo và ngô là những thực phẩm chủ yếu trong bữa ăn của hộ gia đình, được bổ sung bằng sắn, các loại cây trồng khác, vật nuôi và lâm sản theo phương pháp kết hợp.

Các hệ tư tưởng giới thống trị giúp đàn ông Hmông có địa vị xã hội cao hơn và quyền lực chính thức lớn hơn phụ nữ, đồng thời ảnh hưởng đến việc ra quyết định sinh kế nội bộ hộ gia đình và tiếp cận nguồn lực. Nam giới xuất hiện nhiều hơn trong phạm vi công cộng và các thể chế chính thức, phong tục và nghi lễ của nó, trong khi phụ nữ bị ràng buộc chặt chẽ với các nghĩa vụ tái sản xuất xã hội trong gia đình.

Sự phân công lao động trong gia đình theo phong tục cũng dẫn đến các nhiệm vụ sinh kế được chỉ định cho nam giới và phụ nữ, cũng như một số nhiệm vụ được chia sẻ, chẳng hạn như trồng và thu hoạch lúa.

Phụ nữ thường chịu trách nhiệm về mọi công việc gia đình, bao gồm chuẩn bị và nấu nướng, chăm sóc con cái, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên gia đình, dọn dẹp, cho thú ăn và kiếm củi. Phụ nữ, thường được con cái giúp đỡ, cũng duy trì nguồn cung cấp thực phẩm hàng ngày cho gia đình thông qua vườn nhà.

Một số phụ nữ Hmông còn đóng vai trò quan trọng như thầy thuốc và có kiến thức sâu rộng về cây thuốc. Phụ nữ cũng dành nhiều thời gian để sản xuất vải, may vá và thêu các loại quần áo mà gia đình họ mặc (và ở một số vùng, họ còn dệt vải từ cây gai dầu mà họ trồng).

Vai trò chính của nam giới bao gồm phát quang và cày ruộng nông nghiệp, xây dựng và bảo trì nhà cửa, săn bắn trong rừng, kiếm củi, quản lý trâu và các vật nuôi lớn khác. Nam giới cũng có xu hướng là người chăm sóc chính các loại lâm sản ngoài gỗ có giá trị như bạch đậu khấu.

Trong các vai trò lao động truyền thống được phân định theo giới tính trong lịch sinh kế theo mùa của người Hmong, nam giới thường tham gia vào các hoạt động đòi hỏi thể chất cao hơn nhưng thời gian ngắn hơn, trong khi khối lượng công việc của phụ nữ có xu hướng liên tục và tốn nhiều thời gian hơn, bao gồm đặc biệt là hầu hết thời gian trong ngày – lao động hàng ngày để sinh sống.

Ở hầu hết các vùng biên giới, do độ cao trên 800m và nhiệt độ mát hơn nên các hộ gia đình chỉ thu hoạch một vụ hàng năm. Vào tháng 3 và tháng 4, các hộ gia đình chuẩn bị và trồng trọt trên ruộng ngô, trong khi những người có ruộng lúa cày xới và bón phân cho ruộng bằng phân hữu cơ và/hoặc phân hóa học.

Trâu hoặc gia súc cung cấp lực cày vì sườn dốc thường có độ dốc cao và do đó ruộng bậc thang quá hẹp nên máy cày cơ khí khó có thể di chuyển. Tất cả mọi người đều sẵn sàng cấy lúa vào tháng 5 và một lần nữa khi thu hoạch, từ cuối tháng 9 đến tháng 10, sau vụ thu hoạch ngô vào tháng 8.

Để đa dạng hóa và tối đa hóa năng suất, các hộ gia đình người H’mông liên tục thử nghiệm các cách kết hợp hạt giống lúa khác nhau từ hộ này sang hộ khác và từ năm này sang năm khác. Đặc biệt, phụ nữ và người lớn tuổi người Mông đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và trao đổi các giống lúa truyền thống trong cộng đồng, phần lớn là do họ hiểu biết về đặc tính sức khỏe của các loại lúa cụ thể ở địa phương.

“Gạo Hmong” truyền thống, cả loại thường và gạo nếp, vẫn được ưa chuộng hơn các loại gạo công nghiệp vì hương vị và cách sử dụng trong các sự kiện có tính truyền thống.

Tuy nhiên, nông dân nhận ra lợi ích của các giống lai và tận dụng có chọn lọc những lợi ích này, cân bằng năng lực sản xuất của đất nông nghiệp với sở thích văn hóa. Nếu một hộ gia đình thấy mình thiếu đất trồng lúa, các thành viên thường mua chung với họ hàng.

Nếu điều này không thể thực hiện được, họ có thể mua thêm ruộng lúa, mặc dù thông thường những ruộng này được thuê theo nhiều thủ tục khác nhau, bao gồm cả sự có đi có lại về lao động, trao đổi hàng hóa và các thỏa thuận dựa trên tiền mặt.

Lúa khô không ruộng bậc thang – tức lúa nhờ trời – là loại cây trồng vùng cao quan trọng từ xa xưa vì đây là cách trồng lúa đơn giản nhất theo truyền thống du canh du cư.

Mặc dù tập quán trồng lúa khô đã giảm bớt nhờ quá trình định canh định cư và áp dụng phương pháp trồng lúa nước năng suất cao hơn ở các thung lũng màu mỡ, phương pháp này vẫn còn phổ biến ở phần lớn vùng biên giới do độ dốc và điều kiện đất đai.

Thư Mountain,

Tôi đã trải qua một ngày đáng nhớ ở cao nguyên đá và hôm nay sang ngày thứ hai tôi nghĩ mình nên tìm hiểu sâu hơn một chút về đời sống của người dân nơi đây.

Sáng sớm, tôi đi bộ men theo một con dốc nhỏ lên núi , đến khoảng giữa lưng chừng thì dừng bước. Vì một căn nhà nhuốm màu rêu phong và rất xinh xắn  nằm sát ngay bên lề đường.

Ngôi nhà với những bức tường rào bằng đá, một kiểu kiến trúc điển hình của người H’mong. Cổng vào không rộng lắm, chỉ khoảng 2m, bên trên lợp ngói và có hai cột trụ đá hai bên. Cả phía ngoài và trong cổng tôi áng chừng có khoảng gần chục cây đào, mận cả thảy.

Đang vào Xuân, mận nỏ rực rỡ, thi thoảng vài cánh hoa trắng lại lác đác rơi khi những cơn gió thổi xuống từ những ngọn núi sừng sững chắn ngay phía sau.

Tôi chậm rãi bước qua cổng, khu nhà hiện ra trước mắt cho cảm giác rộng hơn hẳn so với khi nhìn từ ngoài vào. Đó là ba dãy nhà hai tầng xây theo kiểu trình tường, mỗi dãy nhà gồm ba gian và quây vào nhau theo hình chữ U. Tường làm bằng đất, loại đất gì mà có màu vàng ươm giống như màu của những cọng rơm ngày mùa.

Ngay ở hiên người ta bày bán những đồ hàng lưu niệm là những món ăn đặc sản địa phương và đồ thổ cẩm của bà con H’mong.

Tôi bắt chuyện với một thằng nhóc nhìn rất lanh lẹ với cặp mắt sáng thông minh, sau khi thấy nó nói chuyện nhoay nhoáy với một người khách Tây và giờ thì đang ngồi không trên một cái sạp  bày la liệt những sấp vải màu sắc sặc sỡ:

-Em tên gì? Học lớp mấy rồi?

-Em tên A Páo. A Páo đang học lớp 5

-A Páo nói tiếng Anh giỏi thế!

-Vì A Páo và các bạn được các anh chị sinh viên dưới xuôi tình nguyện  lên dạy. Xong A Páo lại được nói chuyện với người Tây khi bán hàng ở đây

-Ồ, vậy sao? Đây có phải nhà của A Páo không?

-Nhà A Páo không được đẹp thế này đâu. Đây là nhà một người họ xa của A Páo thôi

-Thế nhà A Páo có gần đây không?

– Gần lắm. Đi xuống hết con dốc này, qua cái cánh đồng tam giác mạch là nhà A Páo ở đó rồi

Nói chuyện với thằng bé này vui ghê, nhưng sao tôi cứ cảm giác trong ánh mắt của nó có cái gì đó ẩn chứa một nỗi buồn. Thằng bé có hoàn cảnh sống thế nào nhỉ? Đột nhiên tôi muốn hiểu hơn hoàn cảnh cụ thể của một gia đình ở đây

-Anh sẽ ở đây phụ giúp A Páo bán hàng nhé!

Tôi ở lại căn nhà cổ đồng thời là nơi bán hàng lưu niệm cho đến tận trưa khi lượng khách du lịch vãn dần. Người nước ngoài đông ghê, Á – Âu  gì đủ cả. A Páo quả thật thông minh, cứ bám ở đây suốt thì thể nào trình ngôn ngữ chẳng lên.

Đầu giờ chiều thằng bé dẫn tôi về thăm căn nhà của nó như đề nghị của tôi. Con đường xuống núi qua mấy cái thung hoa phải nói đẹp mê hồn là đẹp. Ánh nắng Xuân ấm áp chiếu xiên qua những vách núi đá vôi, chạm vào những đám mây mỏng mờ ảo như sương khói trước khi phủ khắp cánh đồng hoa rung rinh trong gió.

Thời tiết đã bớt lạnh, rất thích hợp cho việc du Xuân. Chẳng ngạc nhiên khi dưới cánh đồng khách du lịch đổ về ngày càng đông, họ nhẩn nha ngắm hoa và chụp hình cùng hoa:

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Tôi nhớ đến những câu trác tuyệt mô tả mùa Xuân trong Kiều. Khi nào có thời gian chúng ta làm một buổi bình thơ Xuân trong các áng văn thơ cổ cái nhỉ ? Dù thích kiểu hùng biện theo tư duy biện chứng  Tây phương thì trong thưởng thức nghệ thuật tôi lại cứ mê mấy cái cảnh đàm đạo văn chương theo phong cách Trung Hoa hay Nhật Bản. Dù sao đi chăng nữa, chúng tôi cũng vẫn có sự gần gũi nhất định về vị trí địa lý, tư tưởng, phong tục và văn hóa nên dễ có được sự đồng điệu chung.

Mải nghĩ vẩn vơ trước khung cảnh quá là nên thơ này tôi không biết rằng mình  đã đến trước cửa nhà chú nhóc A Páo.

Giữa  trưa tháng Giêng ngập nắng. 

NGƯỜI H’MONG

By Sarah Turner

3.

Hạt giống lai được du nhập khắp vùng cao đã tạo ra những thay đổi to lớn trong sản xuất nông nghiệp. Những hạt giống này được nhân giống có chọn lọc bằng cách lai giữa hai bố mẹ khác biệt về mặt di truyền, nhằm mục đích tạo ra “sức sống dị hợp hoặc sức sống lai”.

Tuy nhiên, một trong những nhược điểm của loại hạt giống này là chúng mất năng suất sau mỗi lần trồng lại, nghĩa là nông dân phải mua hạt giống mới mỗi vụ trồng. Vào giữa những năm 1970, giữa cuộc Cách mạng Xanh, hạt giống lúa lai đã trở nên phổ biến khắp châu Á.

Cũng trong khoảng thời gian đó, hạt giống lúa lai bắt đầu được phân phối ở miền Bắc Việt Nam và đến năm 2008, việc trồng trọt đã lan rộng ra 31 tỉnh phía Bắc nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính phủ. Nhà nước đã ban hành các chính sách quan trọng liên quan đến xuất khẩu gạo, nhận diện thương hiệu và tỷ suất lợi nhuận của nông dân trồng lúa, đồng thời nỗ lực phát triển hệ thống lưu trữ gạo và cải thiện việc liên hệ giữa nông dân và doanh nghiệp nhà nước – đồng thời hướng tới thu nhập ổn định cho người sản xuất ở nông thôn.

Tuy nhiên, từ góc nhìn của nông dân người Hmong vùng cao tại địa phương, những biến động trong sản xuất lúa gạo quốc gia theo nhu cầu toàn cầu ít ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày khi các hộ gia đình bận tâm đến an ninh lương thực cơ bản.

Chương trình trợ cấp hiện nay của Chính phủ Việt Nam về hạt giống và các đầu vào khác cho lúa lai và ngô đã được triển khai ở vùng cao vào năm 1999.

Trước khi áp dụng các giống lai, các hộ gia đình không sản xuất đủ lúa gạo trong năm sẽ sống sót bằng các cây lương thực khác như khoai tây, ngô và sắn. Các hộ gia đình người Hmong coi đây là chiến lược tạm thời chỉ dành cho những trường hợp khẩn cấp, vì rất ít người sẵn sàng thay thế loại gạo ưa thích của họ bằng các loại thực phẩm khác.

Kể từ khi các giống lai được tung ra thị trường, việc tiêu thụ các loại gạo thay thế ít được ưa chuộng này đã trở nên ít thường xuyên hơn, trong khi các nguồn tin chính thức lưu ý rằng hạt giống lai đã giúp đáp ứng 60% nhu cầu gạo ở một vài địa phương.

Nông dân Hmong thừa nhận rằng giống lai có thể là một nguồn bổ sung tích cực cho sinh kế. Tuy nhiên, nhiều người nhấn mạnh rằng các giống lúa truyền thống, năng suất thấp hơn có hương vị vượt trội hơn nhiều. Các hộ gia đình người Hmong bày tỏ lo ngại về việc phát triển sự phụ thuộc quá mức vào hạt giống do chính phủ phân phối.

Trong khi các hộ gia đình có diện tích đất giảm dần đang ngày càng thay thế những giống mà họ gọi là “lúa Hmong” truyền thống bằng các giống lai năng suất cao hơn, ngay cả những gia đình này vẫn tiếp tục trồng tới 8 giống truyền thống, đặc biệt là gạo nếp, vì vai trò trung tâm của chúng trong sở thích, phong tục tập quán của người Hmong, niềm tin, thực hành sức khỏe và các mối quan hệ xã hội.

Bởi vì hạt giống lúa truyền thống có cơ hội gieo trồng theo mùa rộng hơn so với hạt giống lúa lai nên lao động của con người và vật kéo cũng như các nhiệm vụ khác có thể được gộp lại giữa một số hộ gia đình. Nông dân người Mông cũng lưu ý rằng thân lúa truyền thống thu hoạch có thể được cho trâu ăn khi cày ruộng bậc thang dốc, nhưng thân lúa lai quá cứng.

Do đó, những người nông dân dựa vào lúa lai phải tốn nhiều tiền và thời gian hơn để tìm kiếm các nguồn thức ăn khác cho trâu của họ và thường phải di chuyển quãng đường dài để tìm loại cỏ phù hợp, trái ngược với những người nông dân trồng lúa truyền thống hơn, những người có thể đơn giản sử dụng sản phẩm phụ nông nghiệp địa phương này.

February 21, 2024 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
Rose

Mùa chim én bay (4)

by Rose & Cactus February 18, 2024

Mình ngồi dưới gốc táo ngay bên cạnh hai cây dừa soi bóng xuống mặt ao phẳng lặng. Cái ao nhà ông ngoại mình được xem là rộng nhất trong xóm nhà ông. Ban đầu nó là hai  ao riêng biệt của hai nhà. Sau đó nhà người hàng xóm cạnh nhà ông mình chuyển đi nên bán lại mảnh đất đó cho ông bà.

Nên ở giữa hai cái ao là một bờ đất nhỏ. Nhỏ tẹo, bề ngang chỉ khoảng 1m nhưng cũng chen chúc đủ cây ăn trái trên đó. Mình nhớ nhất là cây ổi đào (ruột màu hồng đào), quả nhỏ thôi nhưng sai trĩu trịt và cực kỳ thơm, đúng y như câu thơ mà các bạn đã được học trong chương trình Văn lớp 9 ấy: “Bỗng nhận ra hương ổi; Phả vào trong gió se.”

Mùa thu là mùa ổi chín, chim chào mào cứ là về hàng đàn, ríu rít suốt cả ngày trên cây. Chào mào là loài rất mê món ổi, quả nào chúng cũng phải đục khoét tí thì mới chịu. Ổi bị chim ăn, nhìn chẳng khác gì vầng trăng khuyết, và nhẹ bẫng. Nên nếu có cơn gió mạnh thổi qua là rào rào, chúng đua nhau rơi xuống nước.

Cây ổi này cành trùm cả ra mặt ao, mình leo trèo ở đó cũng nhiều và cũng vài lần tưởng uống no nê nước bên dưới vì đang bứt quả thì nghe cành kêu răng rắc. Cành ổi giòn lắm, dễ gãy. Thế nhưng chắc thần may mắn độ nên chưa bao giờ mình phải ngụp lặn dưới ao vì trèo cây hái quả cả. Ngày bé nghịch đúng thành thần các bạn ạ, không trò gì là trẻ con không thử và bây giờ mà bảo làm thì đố mà mình còn dám.

Khoái nhất là bứt quả xong và nằm luôn tại đó, vắt vẻo trên cành cây (dĩ nhiên phải chọn cành nào to và tương đối chắc chắn), vừa ăn vừa nheo mắt lại mà ngắm mây bay trên trời. Mây trắng, trời xanh. Mây động, bồng bềnh trôi trên nền trời tĩnh lặng. Tất cả những cảnh sắc đó đều in bóng xuống mặt nước. Đan xen và lồng vào nhau, mây trời và cây cỏ

Nhưng giờ đang là mùa Xuân, cây ổi mới chỉ đâm ra những nụ chồi xanh biếc. Dưới chân nó cỏ mọc tua tủa. Thứ cỏ dại lan rất nhanh trong tiết trời ẩm ướt, có cây cao lút đến đầu người, lá mảnh và sắc cứa vào da cũng đau phết chứ chả đùa đâu.

Tuy vậy, cỏ non dù cao đến mấy cũng không thể che khuất tầm nhìn từ bên này qua bên kia bờ ao. Ở đó, trên dẻo đất nhỏ lưng chừng dốc dẫn từ cổng vào nhà ông, hai cây mận và mơ đứng sát cạnh nhau đang bung nở những bông hoa đầu tiên của Mùa.

Những cánh hoa mận trắng muốt, mỏng manh làm sáng bừng cả một không gian nơi góc ao. Mận là loại hoa mà bạn không bao giờ thấy được vẻ đẹp tuyệt tác của nó nếu chỉ ngắm nhìn một cánh hoa riêng lẻ.  Một cành hoa mận, đẹp. Một cây hoa mận, càng đẹp.

Và một rừng hoa mận, thì thôi, chúng ta không biết lựa chọn từ ngữ nào cho xứng với vẻ đẹp của nó.

THƠ MÙA XUÂN (HAIKU – NHẬT BẢN)

HOA MẬN

By Blyth, Reginald Horace

Dường như không

Háo hức nở hoa,

Là cây mận ở cổng này.

 

It doesn’t seem

Very anxious to bloom,

This plum-tree at the gate.

Issa

Trong bài này có sự kết hợp khó diễn tả giữa Issa và cây mận. Cái cây dường như không có mong muốn tha thiết nở hoa. Những ngày ấm áp đã đến nhưng nụ hoa vẫn không chịu nở. Issa cảm thấy một sự thờ ơ, một sự cố chấp thực vật và thiếu niềm tin vào nó. Không có gì đáng chú ý về bài này ngoài cách viết của nó; Issa là một nhà thơ vì ông viết ra những điều chúng ta thấy, thậm chí là nói, nhưng nghĩ rằng không đáng ghi lại.

2.

Ở các ngóc ngách

Cái lạnh còn sót lại:

Những bông hoa mận

 

In nooks and corners

Cold remains:

Flowers of the plum

Buson

Ở những nơi có nắng và ấm áp hơn của thung lũng, cây mận nở rộ, nhưng đây đó, trong bóng râm hay dưới những ngọn dốc, cây mận chỉ nở một vài bông hoa. Buson nhìn thấy cái lạnh trong sự khan hiếm hoa. Ông cảm nhận nó bằng mắt, hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ cảm giác ấm áp hay mát mẻ nào của cơ thể.

3.

Thêm một chùm hoa mận 

Và số lượng hoa đó

Sự ấm áp tăng lên.

 

Another blossom of the plum

And that amount

More warmth.

Ransetsu

Đây là một câu thơ nổi tiếng. Đầu tiên có một thực tế tầm thường đơn giản là lượng hơi ấm và sự nở hoa của hoa mận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Đặc tính có thể đo nhiệt độ của cây mận là một điểm thú vị. Ngoài ra còn có sự đảo ngược nhân quả, sự ấm áp và nở hoa, có phần giống với họa mi của Chaucer.

Điều đó làm sáng tỏ những điều mới mẻ;

Nhưng đâu đó trong tâm trí có một cảm giác bí ẩn về tính chân như của vạn vật.

That clepeth forth the grene leves newe;

But somewhere in the background of the mind there is a feeling of the mystery of the suchness of things.

Buson có một bài thơ có đối tượng tương tự, nhưng ở đây mối quan hệ khá là huyền ảo:

Trăng khuyết, trăng khuyết,

Trăng cũng đã tắt –

Đêm lạnh làm sao!

 

Waning, waning,

The moon also is gone,-

How cold the night!

Một bài khác của Rotsu có điểm tương đồng mờ nhạt hơn:

Trước xuân phân;

Cái lạnh sẽ kéo dài

Chỉ một hoặc hai đêm nữa thôi.

 

Before the spring equinox;

The cold will last

Only a night or two more.

4.

Cảnh mùa xuân

Gần như đã sẵn sàng:

Trăng và hoa mận

 

The spring scene

Is well-nigh prepared:

The moon and plum-blossoms

Basho

Làm cho mặt trăng và hoa mận trở thành niềm vui, vật trang trí cho cuộc sống, không khó lắm. Nhưng để biến những điều đó thành niềm vui chính của những ngày trôi qua, sống vì chúng,  nhìn thấy chúng bây giờ, nhớ về chúng, hồi tưởng lại, với lòng khao khát, háo hức chờ đợi sự trở lại hàng năm của chúng, điều này chỉ dành cho một số ít người. Khi đọc những lời của Basho, biết đó là chính của ông, chúng ta cảm thấy rằng chính trong trái tim ông cảnh sắc mùa xuân đã được chuẩn bị sẵn cho chúng ta.

5.

Những bông hoa mận trắng;

Ở Korokan,

Mực Trung Quốc có mùi thơm.

 

The white plum-blossoms;

In the Korokan,

The Chinese ink is fragrant.

Buson

Korokan là Văn phòng Trung Quốc nơi tiếp đón các vị khách nước ngoài, đại sứ, v.v. Điều này sau đó, vào khoảng thế kỷ thứ 9, đã được mô phỏng ở Kyoto. ( Với cùng cách đọc như tiếng Hoa, là dạng thích hợp). Nó đã không còn được sử dụng vào thời Hoàng đế Murakami, 947-967.

Không rõ với  Korokan là Buson đang đề cập đến điều gì. Trong cả hai trường hợp, đó là hương vị lịch sử mà ông muốn chúng ta hiểu rõ sự liên quan đến hoa mận. Tòa nhà chính thức của Korokan, với những người chuyên chép sách Trung Quốc và các đại sứ Nhật Bản và Hàn Quốc, ngay lập tức gợi nhớ đến những tài liệu và chữ viết bằng mực và bút lông Trung Quốc.

Mực thì đen, hoa mận thì trắng. Có một sự tương phản tinh tế và đơn giản một cách đặc biệt giữa những bông hoa trắng được nhìn thấy và mực đen được tưởng tượng. Thêm vào đó là những mối liên hệ lịch sử trong mối quan hệ của Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Buson không giống như nhiều nhà thơ haiku thời kỳ đầu, chỉ sử dụng chủ đề tiếng Trung để làm thơ haiku. Ông cũng đưa haiku trở về quá khứ và cho chúng ta thấy nó từ quan điểm của haiku, nhờ đó khiến nó sống động trong hiện tại. Đây là sức mạnh to lớn của ông.

Buson đặt mình vào cuộc sống của triều đại nhà Đường, cách đây đã sáu hoặc bảy trăm năm khi Buson còn sống, giống như cách mà Goethe và Keats bước vào cuộc sống của người Hy Lạp cổ đại. Thiền được cho là một thứ của nơi này và thời điểm này; Buson cho chúng ta thấy thế nào là sống trong một thế giới xa xôi và cổ xưa.

6.

Hai cây mận;

Tôi yêu sự nở hoa của chúng,

Một nở sớm, một muộn màng

 

The two plum-trees;

I love their blooming,

One early, one later

Buson

Bài thơ này dựa vào những dòng sau trong Wakan-roeishu; chúng được sáng tác bởi Yasutane, d.997:

Cây liễu mọc muộn và sớm không giống nhau trên bờ đông và bờ tây; cành cây phía nam và phía bắc khác nhau ở độ nở và rụng của hoa mận.

On the eastern and western banks the willows are late and early, not the same; the southern and northern boughs are different, in the blooming and falling of the plum blossoms.

Từ đó chúng ta thấy hai cây trong vườn của ông lần lượt ở những nơi có nắng và râm mát. Không phải Buson coi vấn đề này là sự cạnh tranh giữa chúng; đúng hơn là sức mạnh của tự nhiên tác động như nhau ở cả hai, nhưng ở nơi này nhanh, nơi kia chậm.

Cách diễn đạt “chậm-nhanh” của Trung Quốc, chisoku, thay vì hình thức tiếng Nhật. Buson xây dựng lý tưởng của mình về sự kết hợp hoàn toàn giữa nghệ thuật và văn học Nhật Bản và Trung Quốc cùng với việc tránh xa tinh thần thô tục và thấm nhuần tinh thần hòa hợp.

Trong câu hiện tại, ông minh họa câu trước bằng sự kết hợp giữa phương thức diễn đạt của Nhật Bản và Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là, việc nghiên cứu suốt đời thơ ca Trung Quốc của Buson, đặc biệt là thơ Đường, không chỉ làm tăng tính phong phú về thơ của ông mà còn giúp ông có thể tái tạo, ở mức độ có thể, các hình thức và ngôn ngữ trong đó tinh thần thơ Hán đã được chứa đựng.

Quả thực, đôi khi lòng nhiệt thành truyền giáo của ông đã khiến ông lạm dụng cách nói sau này, và chúng tôi cảm thấy rằng những cách diễn đạt bằng tiếng Trung Quốc được sử dụng mà không có đủ lý do biện minh, gây bất lợi cho cả bài thơ lẫn học thuyết mà ông tán thành. Thiền không phải là tinh thần của thơ ca đối lập với hình thức của nó, mà là một cái gì đó tinh tế hơn thế nhiều. Đó là sự cân bằng giữa nội dung và hình thức.

Bản dịch nêu trên không nhấn mạnh được một điểm. Nguyên văn câu này:

Tôi yêu

Sự muộn màng sớm

Của hai cây mận

 

I love

The early-lateness

Of the two plum-trees

Điều đó có nghĩa là, “Tôi thích cách mà một số chậm, một số nhanh, một số ngắn, một số dài; và điều này được thể hiện ở hai cây mận này.” Chính những khác biệt nhỏ nhặt này trong các sự vật lại khiến nhà thơ thích thú, đặc biệt khi cả hai đều giống nhau vì đều là cây mận.

Còn một điểm nữa cần lưu ý, đó là hình thức diễn đạt khá cứng của thể thơ kiểu Trung Quốc phù hợp với đặc điểm của cây mận với những cành non thẳng tắp mọc lên từ những cành già cong queo.

7.

Bên cạnh một cái giếng

Với nước hôi bẩn,

Những chùm hoa mận

 

Beside a well

Of foul water,

Flowers of the plum

Issa

Câu thơ này vừa là một câu thơ hình ảnh vừa là một câu thơ tư tưởng. Cái giếng đã cũ và đổ nát. Nó ở một góc vườn vắng, chưa bao giờ được dọn dẹp, chưa bao giờ được sử dụng. Trẻ em thỉnh thoảng nhìn vào đó một lúc và thấy hình ảnh phản chiếu của chúng ở phía dưới.

Dương xỉ và cỏ dại mọc giữa những tảng đá, và những vùng nước không thể uống được là nơi ẩn náu của ếch và bọ nước. Bên cạnh có một cây mận già. Từ những cành cây đen nhánh đang bung ra những bông hoa rực sáng tương phản với sự hoang tàn, hỗn loạn xung quanh.

Không còn nghi ngờ gì nữa, trong tâm trí Issa có ý nghĩ về sự thờ ơ tích cực của Tự nhiên. Hoa sen không những mọc trong bùn mà còn được bùn biến hóa. Cây mận thích nước hôi, và nhà thơ ngắm hoa cũng phải như vậy; giống như yêu tôi thì yêu cả con chó của tôi.

8.

Sức mạnh thất bại;

Ngay cả khi làm gãy cành hoa này,

Một cái miệng nhăn nhó.

 

Failing strength;

Even in breaking off this flowering spray,

A grimacing mouth.

Issa

Không gì có thể trốn khỏi thơ ca. Mỗi khoảnh khắc trong mỗi phần của cuộc đời chúng ta, cho đến lúc chết, có thể, nên có, sẽ được làm thành thơ, làm sống động. Giá trị được nhận từ nó, giá trị được trao cho nó. Trong điểm mạnh, điểm yếu, trong việc chúng ta làm, trong việc chúng ta không làm; mọi nơi đều là nơi chốn nào đó, mọi khoảnh khắc đều là vĩnh cửu.

9.

Đột nhiên mặt trời nhô lên,

Với hương thơm của hoa mận

Dọc theo đường núi.

 

Suddenly the sun rose,

To the scent of the plum-blossoms

Along the mountain path.

Basho

“Notto”, “đột nhiên” tượng trưng cho sự “giật mình” trong tâm trí nhà thơ về sự ấn tượng của mình, hơn là sự bất ngờ của mặt trời mọc. Hai khứu giác và thính giác bị ảnh hưởng đồng thời đến nỗi Basho cảm thấy như thể ông đã ngửi thấy mùi nắng, đã nhìn thấy mùi hương của hoa mận.

10.

Mặt trăng trên núi

Vui lòng soi rọi

Lên kẻ trộm hoa!

 

The moon over the mountains

Kindly shines

On the flower-thief!

Issa

Mặt trời chiếu sáng, mưa rơi trên người công chính và kẻ bất chính. Trăng cũng chiếu sáng một cách vô tư lên mọi người. Mặt trăng trên núi là biểu tượng chung của Chân lý hoàn hảo, và có thể có sự liên tưởng như vậy ở đây. Nhưng coi chính Issa là kẻ trộm hoa, cảm giác tội lỗi khiến tâm trí ông dễ tiếp thu những tia sáng rực rỡ của vầng trăng đang nhô lên từ dãy núi xa.

Mặc dù bản gốc không nói rằng hoa mận được đề cập đến trong câu thơ này, nhưng có lẽ tốt hơn nên coi nó là hoa mận, vì Issa bị ảnh hưởng bởi những điều này nhiều hơn so với hoa anh đào. Người ta kể rằng ông đã viết khoảng ba trăm năm mươi bài thơ haiku về hoa mận.

11.

Trăng, hoa mận,

Giấm và konnyake,-

Và hôm nay cũng vậy!

 

The moon, the plum-blossoms,

Vinegar and konnyake,-

And there goes today too!

Issa

Trăng và hoa mận được kết nối trong nghệ thuật và văn học phương Đông, giống như hổ và tre, liễu và én, trăng và ngỗng trời, sư tử và hoa mẫu đơn. Su, một loại dấm, có vị chua như quả mận (ở Nhật Bản).

Konnyaku, một loại bột nhão làm từ tinh bột sợi của rễ lưỡi quỷ (devil’s tongue hay còn gọi là Konjac là một loài thực vật có hoa) , được dùng với “giấm” trong một câu tục ngữ. Vì vậy, tất cả những điều tưởng chừng như không liên kết nhưng thực sự có liên quan với nhau này sẽ tạo nên một ngày trong cuộc đời của Issa.

Điều này nhắc nhở chúng ta về câu chuyện của Darwin, trong cuốn “Nguồn gốc các loài”, về mối quan hệ giữa số lượng “những người giúp việc cũ” và số lượng những con ong nghệ. Điểm không thể bỏ qua là giấm và “konnyaku” cùng mặt trăng và hoa là những thứ cần thiết cho cuộc sống. Có một suy nghĩ tương tự ở đầu mục Hekiganroku thứ 87:

Unmon bảo đại chúng: “Bệnh và thuốc chữa lẫn nhau. Vũ trụ là liều thuốc: chính bạn là gì?”

Phật giáo được dùng để chữa trị tình trạng tội lỗi của chúng ta nhưng lại trở thành thuốc độc cho cuộc sống. Tương tự như vậy, thơ ca và nghệ thuật, được sử dụng như một phương pháp chữa trị những tệ nạn trong cuộc sống, lại đưa tâm trí ra khỏi thực tế, thứ mà giấm và konnyaku gọi chúng ta trở lại. Có một bài thơ của Basho tương tự thế này:

Dưới gốc cây,

Trong súp, trong món salad cá,-

Những bông hoa anh đào!

 

Beneath the tree,

In soup, in fish-salad,-

Cherry -blossoms!

Có thể nói, Issa đã giải phóng mình khỏi chủ nghĩa thẩm mỹ của Basho, nhưng vẫn giữ được tính trần thế và sự gần gũi với thực tế, đồng thời mang đến cho nó một ứng dụng phổ quát hơn.

12.

Nó có mùi như thế nào,

Cây mận nhà bên,-

Nhưng tôi không thể nhìn thấy nó!

 

How it smells,

The plum-tree next door,-

But I cannot see it!

Chora

Thế giới chúng ta đang sống là thế giới ánh sáng. Các giác quan thính giác, khứu giác và xúc giác kém tinh tế hơn so với ở các động vật bậc thấp. Có một khao khát tự nhiên là chuyển mùi hương ngọt ngào nồng nàn của hoa mận thành hình ảnh. Một mùi không có hình dạng, không có chi tiết, không có phương hướng. Nhà thơ ước ao được nhìn thấy những cành mận vươn cao lên bầu trời, được nhìn thấy những bông hoa nhạt màu trên nền cành đen, được nhìn thấy sự sống tĩnh lặng của nó.

13.

Chủ nhân của cây mận

Đánh vào một cục đất

Bằng cây gậy của mình.

 

The master of the plum-tree

Strikes a clod

With his stick.

Buson

Ý nghĩa của điều này không nằm ở sự vô nghĩa của hành động đập vào cục đất khô, mà nằm ở mối quan hệ giữa hành động vô nghĩa của cú đập và sự vô nghĩa ngang bằng của những bông hoa mận nở trên đầu. Goethe yêu cầu chúng ta đừng tìm kiếm bất cứ điều gì đằng sau hiện tượng:

Tôi tự chọn và chết ở Lehre.

Sie selbst sind die Lehre.

Đây cũng là điều chúng tôi tìm thấy trong phần sau:

Trong khung cảnh mùa xuân, không có gì tốt hơn, không có gì tệ hơn;

Các cành hoa là chính chúng, có cành ngắn, có cành dài.

In the scenery of spring, nothing is better, nothing worse;

The flowering branches are of themselves, some short, some long.

14.

Cành hoa mận

Tỏa hương

Gửi tới người đã làm gãy nó.

 

The flowering branch of the plum

Gives its scent

To him who broke it off.

Chiyo-ni

Câu này có quy tắc, “Về việc lấy ác báo thiện.”

15.

Dưới ánh trăng,

Cây mận trắng lại trở thành

Một cái cây của mùa đông.

 

In the moonlight,

The white plum-tree becomes again

A tree of winter.

Buson

Shiki, người rất ngưỡng mộ Buson, nghĩ một chút đến câu thơ này. Đó là sự thông minh hơn là tự phát, đó là sự thật. Ánh trăng khiến những bông hoa trắng gần như vô hình, chỉ còn thấy những cành đen, trông trơ ​​trụi và cằn cỗi. Bản gốc nói “trở lại thành một cây khô” Shiki tán thành một câu thơ tương tự, cũng của Buson:

Đèn lồng thắp sáng,

Những bông hoa cúc vàng

Mất màu sắc của chúng.

 

Lighting the lantern,

The yellow chrysanthemums

Lose their colour.

16.

Nhà sư bị bệnh

Đang quét vườn,

Những cây mận nở đầy hoa.

 

The sick monk

Is sweeping the garden,

The plum-trees in full bloom.

Sora

Chủ đề thực sự của câu thơ này là hơi ấm mới của mùa xuân được thể hiện qua vẻ đẹp của hoa mận nhưng cũng qua khuôn mặt nhợt nhạt và những động tác yếu ớt của nhà sư. So sánh một bài thơ trên giường bệnh của Shiki:

Một trong những cành

Hoa mận

Trong lọ thuốc.

One of the sprays

Of plum-blossom

In the medicine bottle.

17.

Cây mận rải rác,

Lúa mạch gầy guộc và lưa thưa:

Một cánh đồng trong lùm cây.

 

The plum-tree straggling,

The barley thin and sparse:

A field in the groves.

Shiki

Cánh đồng này bị che khuất bởi những lùm cây nên ít nhận được ánh nắng. Ngay cả cây mận cũng cằn cỗi, yếu đuối, chỉ có ít hoa.

18.

Mỗi đêm kể từ bây giờ

Sẽ bình minh

Từ cây mận trắng

 

Every night from now

Will dawn

From the white plum-tree

Buson

Không có gì xa hơn, không có ý nghĩa thầm kín nào ngoài sự thật đơn giản là ngày nay, bình minh đến từ hướng của những bông hoa mận trắng. Nhưng điểm nhấn về đêm mới phát huy được sức mạnh của những bông hoa trắng lấp lánh; dù bóng tối bao phủ trái đất và bóng tối dày đặc bao trùm con người, chúng vẫn có sức mạnh để mang bình minh trở lại. Điều này được gợi ý bởi “sự kế tiếp” của câu thơ, âm thanh của tiếng Bahari đến nari ni keri. Có một số điểm tương đồng giữa câu này và Bình minh mùa hè của Morris:

Đêm hè tàn, ánh bình minh vụt tắt,

Màu xám nhạt và xám xịt của những chiếc lá dương.

The summer night waneth, the morning light slips,

Faint and gray “twixt the leaves of the aspen.

Câu thơ này của Buson được cho là câu thơ về cái chết của ông. Nó cho thấy một giai đoạn giác ngộ mà ngay cả từ “vô ngã” cũng không thích hợp. Ông chết trong sự thanh thản của vẻ đẹp thiên nhiên nơi ông đã sống. Điều này là không thể đối với Basho hay Issa, những người đã sống và chết trong vẻ đẹp của cuộc sống con người, một vẻ đẹp không trưởng thành mà đang lớn lên, liên tục sinh ra và tái sinh trong cơn lao nhọc của tinh thần.

19.

Âm thanh của ai đó

Xì mũi bằng tay;

Hoa mận nở đẹp nhất.

 

The sound of someone

Blowing his nose with his hand;

The plum-blossoms at their best.

Basho

Âm thanh ngắn gọn và dứt khoát đó đã mài nhọn khứu giác của Bashô trong giây lát, khiến ông chợt nhận ra việc mình đã làm bấy lâu nay, ngửi mùi hương hoa mận và hấp thụ màu trắng nhạt nhưng đậm. Nghĩ đi nghĩ lại, điều khiến Basho bế tắc là việc xì mũi bằng tay đối với ông không phải là một việc bẩn thỉu hay thiếu lịch sự mà thực chất nó được coi là một hành động, một âm thanh, một hiện tượng tự nhiên, về bản chất không tách rời khỏi hình ảnh và mùi thơm của hoa mận.

Có một bài thơ của Issa vượt xa những câu trên của Basho:

Cày ruộng,

Anh lau bàn tay đầy nước mũi của mình

Lên hoa mận

 

Tilling the field,

He wipes his snotty hand

On the plum-flowers

Làm điều này bằng một chiếc khăn tay bằng vải lanh mịn thì được, nhưng không phải bằng những cành hoa chìa ra. Thực sự Wordsworth nói,

Và thói quen nằm trong bạn với một trọng lượng

Nặng nề như phía trước, và sâu thẳm gần như cuộc đời.

And custom lie upon thee with a weight

Heavy as front, and deep almost as life.

20.

“Hãy lấy cái này đi.”-

Ánh trăng dường như muốn nói,-

Cành mận đang nở hoa này!”

 

“Steal this one.”-

The moonlight seems to say,-

This branch of flowering plum-tree!”

Tất nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa, trong dịp đặc biệt này, Issa đã không bẻ cành mà ánh trăng đã làm việc đó cho ông.

21.

Hoa mận đỏ

Mặt trời lặn tấn công

Cây thông và cây sồi.

 

Red plum-blossoms

The setting sun assails

Pines and oak trees.

Buson

Những tia nắng bình yên chiếu lên những cây sồi và cây thông phía trên cây mận và làm chúng tràn ngập sức mạnh và độ sâu của màu sắc vượt xa những bông hoa màu đỏ mờ ảo. Ở đây, nhà thơ không hề cố gắng hòa mình với thiên nhiên, sống cuộc đời của chính mình với thiên nhiên.

Buson tự biến mình thành một “tabula rasa” để khắc họa khung cảnh mà bằng cách này hay cách khác khiến ông băn khoăn. Đúng là ở đây chúng ta có thể tìm thấy những yếu tố chủ quan, cũng như ở khắp mọi nơi, sự tương phản giữa cây thông, cây sồi nam tính với cây mận nữ tính, cách dùng từ “tấn công” thực sự thể hiện cảm giác choáng ngợp của chính nhà thơ trước màu sắc rực rỡ của những tia nắng chiều.

22.

Tâm trí bên trong của Akokuso

Tôi không biết,-

Mà là những bông hoa mận này

Basho

 

The inner mind of Akokuso

I do not know,-

But these plum-flowers

Basho

Ở đây Basho đang nghĩ tới một bài thơ của Tsurayuli (883-946), có tên thời thơ ấu là Akokuso;

Lòng người tôi không biết;

Nhưng hoa anh đào

Của quê hương tôi, –

Mùi hương của chúng là thứ đã cách lâu lắm rồi

 

The hearts of people I know not;

But the cherry -blossoms

Of my native place,-

Their scent is that of long ago.

Tâm trí và trái tim của con người luôn biến đổi. Bạn bè dần lạnh nhạt và rời bỏ chúng ta; con người hay thay đổi và không chắc chắn. Nhưng cảm giác của Basho không phải là cảm giác có phần khinh miệt con người. Ông nói rằng ông không biết và không quan tâm muốn biết, cái mà trong tâm trí của Tsurayuli khi ông thốt ra những lời như trong bài thơ của mình. Tất cả những gì Basho biết và tất cả những gì ông cần biết là hoa mận có vẻ đẹp về hình dáng, màu sắc và hương thơm mà chúng luôn có.

23.

Người đưa thư;

Anh trao gửi cành hoa mận

Sau đó là lá thư.

 

The messenger;

He offers the branch of plum-blossom

Then the letter.

Kikaku

Thông thường thứ tự quan trọng (giảm dần) của ba yếu tố này sẽ là lá thư, cành hoa, người đưa thư. Tuy nhiên, ở đây chúng ta có người đưa thư, cành hoa, lá thư. Vẻ đẹp của hoa lớn hơn tầm quan trọng của lá thư, nhưng tâm trí của người đưa thư còn quyến rũ hơn cả những bông hoa mà người đó tặng.

24.

Hoa mận đã rụng,

Thật cô đơn

Cây liễu

 

The plum-blossoms having fallen,

How lonely

The willow-tree

Buson

Khi hoa mận nở, cây liễu dường như được chia sẻ sự sống và màu sắc, nhưng giờ đây hoa đã rụng, cây liễu đứng buồn bã cô độc.

25.

Hoa mận trắng;

Bên ngoài và bên trong hàng rào,

Chúng rơi và tràn ra.

 

White plum-blossoms;

Outside and inside the hedge,

They fall and spill.

Chora

So sánh những dòng của Browning trong Home Thoughts from Abroad:

Cây lê nở hoa của tôi bên hàng rào

Sà xuống cánh đồng và rơi rắc trong cỏ ba lá

Những bông hoa và những giọt sương.

 

My blossomed pear-tree in the hedge

Learns to the field and scatters in the clover

Blossoms and dewdrops.

26.

Với mỗi cánh hoa rơi,

Những cành mận

Trưởng thành hơn.

 

With every falling petal,

The plum branches

Grow older.

Buson

Khi hoa nở, cây mận có vẻ trẻ trung che giấu tuổi tác của nó, nhưng khi mỗi cánh hoa rơi, cành cây màu đen hiện rõ hơn và năm tháng được thấy rõ trên cành của cây. Tại mỗi thời điểm, khi mỗi cánh hoa rơi xuống đất mãi mãi, một khoảng thời gian rộng lớn và không thể thay đổi được sẽ trôi qua. Mỗi khoảnh khắc được cảm nhận như một thời đại.

27.

Đi thắp nến

Trong ngôi chùa lợp tranh,

 Hoa mận rơi.

 

Going to light the candles

In the thatched temple,

Plum-blossoms falling.

Gyodai

Ở đây chúng ta có sự hài hòa của ánh sáng yếu ớt trong khung cảnh, những đường nét mềm mại của Sảnh lợp rơm, sự rơi lặng lẽ của những cánh hoa trắng.

28.

Trăng chiều;

Hoa mận rơi

Trên đàn luýt.

 

The moon of evening;

Plum-blossoms fall

On the lute.

Shiki

Trong bài này Shiki đã chịu ảnh hưởng của thơ Trung Quốc, -hoặc đó có thể là một bức tranh hoặc một khung hình mà ông đang xem. Trong mọi trường hợp, nó không phải là bài thơ về trải nghiệm trực tiếp, nhưng trải nghiệm gián tiếp có thể sâu sắc hơn trải nghiệm trực tiếp, chẳng hạn như chúng ta thấy trong những câu chuyện đau đớn trong tiểu thuyết của Hardy.

29.

Những bông hoa mận đỏ rơi

Dường như đang cháy

Trên phân ngựa.

 

The fallen flowers of the red plum

Seem to be burning

On the horse manure.

Buson

Phân ngựa mới rơi nằm trên mặt đất, và trên đó  những cánh hoa màu đỏ đậm rơi xuống dường như bốc cháy khi phân ngựa bốc hơi trong không khí lạnh giá của buổi sáng. Điều nổi bật ở đây là màu đỏ rực của những bông hoa rụng đã xóa tan mọi cảm giác ghê tởm của chúng ta trước phân ngựa. Sự thờ ơ của những bông hoa, sự thờ ơ cháy bỏng của chúng, gây ra cảm giác tương tự trong chúng ta.

Buson không cố gắng đi vào bên trong của cái gọi là những thứ xấu xí và làm nổi bật vẻ đẹp bản chất thực sự của chúng. Ở đây, vẻ đẹp của những bông hoa đã xóa đi sự ghê tởm của phân, và chúng ta chỉ còn lại mình để sống trong cuộc đời của cả hai.

HOA MẬN

Hoa mận có nguồn gốc từ châu Á, vùng núi phía Tây Nam Trung Quốc gần sông Dương Tử, nơi chúng đã phát triển từ thời cổ đại. Cây được trồng đầu tiên ở Trung Quốc và sau đó được lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam và Đài Loan. Bằng chứng về giống cây này ở châu Âu cũng đã được tìm thấy ở vùng núi Kavkaz và gần biển Caspian. Mận khô đã được tìm thấy trong các ngôi mộ và địa điểm khai quật của người Ai Cập cổ đại.

Theo thời gian, mận châu Âu đã lan rộng khắp Địa Trung Hải và một số vùng của châu Âu. Năm 1841, nhà thực vật học người Đức Philipp Franz Von Siebold đã mang cây từ Nhật Bản đến Hà Lan. Vào đầu thế kỷ 20, cây được du nhập vào Hoa Kỳ, chiếm lĩnh California và một phần miền nam. Hoa mận có thể được tìm thấy ở các chợ nông sản và từ những người trồng đặc sản vào cuối mùa đông và đầu mùa xuân.

Hoa mận có ý nghĩa văn hóa sâu sắc ở Trung Quốc. Rải rác các trang trong tác phẩm kinh điển “Hồng Lâu Mộng” đều có mô tả những cây mà hoa của nó có cánh màu hồng. Mặc dù những cái cây được mô tả trong các bức ảnh này có thể là hoa đào do có nhiều loại cây khác đang nở hoa, nhưng hoa mận trông cũng rất giống đào và có thể được minh họa theo cách tương tự. Cây thường được trồng cùng với các loại cây khác và nhanh chóng làm sống động cảnh quan cũng như tô điểm thêm màu sắc cho cánh đồng, đặc biệt là vào mùa đông.

Cây mận thường cao từ bốn đến mười mét. Vỏ của chúng có màu xám và bản thân cây khá gầy. Những bông hoa mọc ra từ cành có màu trắng hoặc hồng và quả cũng mọc ra từ cành. Cây hoa mận có tầm quan trọng trong xã hội Trung Quốc thông qua ý nghĩa văn hóa của nó.

Quả mận Trung Quốc đã được phát hiện trong một số ngôi mộ ở Kiangsu, Hupei, Kuangtung và Kuangsi. Phát hiện này cho thấy chúng là một loại cây lương thực cổ xưa quan trọng vì chúng đã được sử dụng từ rất lâu và cách chúng được đưa vào các ngôi mộ.

Những bông hoa xinh đẹp nở rộ vào mùa xuân, và hành động thách thức thời tiết khắc nghiệt này đã khiến những bông hoa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Trong lịch truyền thống của Trung Quốc, hoa mận là loài hoa của tháng giêng và năm cánh hoa tượng trưng cho sự giàu có, hạnh phúc, thành công, hòa bình và trường thọ.

Trong phong thủy, hoa tượng trưng cho sự thịnh vượng và sinh sôi nảy nở. Năm cánh hoa tròn tượng trưng cho năm yếu tố và cung cấp năng lượng cân bằng, đồng thời khi xuất hiện cùng với những cành gầy guộc, những bông hoa mỏng manh tượng trưng cho sự kiên trì và hy vọng.

Trong phong cách trang trí của người Trung Quốc, người ta thường thấy hoa mận được in trên đồ treo tường, bát đĩa, vải và các vật trưng bày khác trong nhà. Những bông hoa quý được sử dụng trong lễ cúng tại các ngôi chùa Phật giáo trên khắp châu Á. Những bông hoa này cũng có thể được tìm thấy trong trang trí lễ đón Tết Nguyên đán và là một món quà phổ biến trong mùa hoa nở để tăng cường khí lực hoặc sinh lực của ai đó.

Nhật ký Mountain,

Feb 18

Chính xác là tôi đang lạc trong một rừng hoa mận. Thứ hoa đặc trưng của mùa Xuân vùng cao xứ Bắc. Đẹp quá! Lần đầu tiên trong đời tôi phải thốt lên như vậy trước một khung cảnh thiên nhiên mê hoặc đến nhường ấy.

 Nơi tôi đang đứng đây có phải là vườn Hoa Quả Sơn hùng vĩ nơi Tề Thiên Đại Thánh của Tây Du Ký đã chào đời? Với những núi đá dựng đứng ? Không, tất nhiên là không phải rồi.

Có phải là vườn hoa đào (hay mận?) nơi Bảo Ngọc đã chứng kiến nàng Đại Ngọc thương hoa, khóc hoa và chôn hoa, một phân cảnh kinh điển của một tác phẩm kinh điển

Dĩ nhiên cũng không phải rồi!

Dù cảnh vật ở đây thì không kém gì những nơi tiên cảnh trong các tác phẩm văn học kiệt tác như thế! Chỉ là, chúng nằm trên địa phận của một tỉnh địa đầu cực Bắc của Tổ quốc thân yêu của tôi.

Hà Giang!

Vùng đất với những cao nguyên đá, những dãy núi phủ đá xám ngắt như một “thiên đường xám”. Ở đây, đá hiện diện khắp nơi. Đá được dựng làm tường nhà, tường rào. Những phiến đá gồ ghề, góc cạnh đã được bàn tay tài hoa của những con người “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh” sắp xếp thành những bức tường vững chắc mà không cần đến bất cứ thứ xi măng kết dính nào.

Những bức tường đá độc đáo và vững chãi như tinh thần của những người dân kiên cường quyết giữ lấy từng tấc đất quê hương ở nơi mà chỉ cần giơ tay lên là ta đã có thể chạm được vào những đám mây trôi bồng bềnh.

Có những mảnh vườn canh tác của người dân chỉ thấy lổn nhổn đá là đá. Có hề gì, với đôi bàn tay xù xì và sự cần cù chăm chỉ họ đã dần dần biến đá thành đất để gieo vào đó những hạt mầm đầu tiên: Của lúa nương, hay ngô sắn.

Không chỉ có con người đâu mà muôn loài ở đây đều có ý chí thích nghi với hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Tôi đã mất rất nhiều giờ chỉ để ngắm nhìn những cây cải vàng hay cây hoa tam giác mạch, mọc len lên từ một khe đá. Những cây thân thảo, gầy guộc chồi ra dưới những hòn đá tảng.

Sức nặng ngàn cân không làm nhụt đi niềm khao sát sống của chúng. Rễ của chúng choãi ra, thân cây cong lại uốn lượn để rồi khi tìm được không gian thích hợp chúng sẽ vươn thẳng theo hướng mặt trời. Và mặc dù sống trong môi trường cằn cỗi như thế thì lá của chúng vẫn xanh ngắt và những nụ hoa, bông hoa vẫn rạng rỡ, mơn mởn như đôi má của người con gái vùng cao.

Và với sức sống mãnh liệt như thế, bạn không ngạc nhiên chút nào đâu, khi ở trên độ cao cả ngàn mét so với mực nước biển, lâu lâu bạn lại bắt gặp cả một rừng hoa: Vàng hoa cải, Hồng hoa tam giác mạch, Trắng hoa Mận, hoa Mơ.

Những rừng hoa rực rỡ hay e ấp nằm lọt thỏm giữa những cột đá sừng sững khiến tôi nhớ đến cái tên rất hình tượng của một bộ phim xưa cũ: “Ngọc trong đá”.

 Với tôi Hoa cỏ ở đây, Con người ở đây chính là những hạt ngọc. Ngọc trong Đá!  

Cứ thế, hết buổi sáng rồi xuyên trưa, trong tiết Xuân ấm áp tôi đi mà như trôi, qua những cung đường đèo hiểm trở và kỳ vĩ, qua những ngôi nhà đá với những cây đào, cây mận nép bên hiên, qua những thung ngô, thung lúa rập rờn như sóng, qua cả những con vực sâu thăm thẳm với dòng sông nhỏ xanh biếc uốn cong.

Để rồi cuối cùng, khi ánh hoàng hôn dần buông, tôi đã đến được nơi tôi mong đến nhất. Cột cờ Tổ quốc Lũng Cú nằm trên đỉnh ngọn núi Rồng cao gần 1.500m so với mực nước biển.  Đây là đỉnh cao nhất của cực Bắc, là biểu tượng chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc tôi:

Nếu có một nơi nào cho ta cảm xúc nhất để cất lên hai tiếng “Tổ quốc” thì hẳn đây đúng là nơi đó rồi: Hùng vĩ mà lại nên thơ, hoang sơ nhưng rất gần gũi.

 Đứng ở đây, dưới là cờ phần phật tung bay trong gió, tôi thấy mình như ôm trọn được chiều dài của mảnh đất quê hương; như con chim tự do sải cánh, tôi bay qua đồng bằng, qua vùng biển, qua cao nguyên và lại qua đồng bằng và kết thúc tại điểm cực Nam Đất Mũi.

Đứng ở đây, nơi địa đầu biên cương, nơi biết bao người con đã nằm xuống để bảo vệ từng tấc đất quê hương tôi mới cảm nhận được hơn bao giờ hết cái gọi là “Tình yêu Tổ  Quốc”:

Tôi yêu Tổ quốc – một mối tình kỳ lạ
Không nghe theo lý trí nơi tôi
Bao vinh quang từng đổi máu xương rơi

Và thanh bình đầy tự hào tin cẩn
Và tập tục tự ngàn xưa thăm thẳm
Không khuấy lên niềm ước vọng trong tôi.

Sự bồi hồi và xúc động nhắc tôi nhớ đến những vần thơ  của nhà thơ Nga Mikhail Lermontov và  giai điệu piano thánh thót cung đàn mùa Xuân của nhạc sĩ thiên tài Chopin. Một người con Ba Lan vì nhiều lý do đã phải sống ở nước ngoài từ khi còn trẻ .

Nhưng ngần ấy thời gian không làm phai nhòa trong trái tim của người nhạc sĩ tình yêu với Quê hương xứ sở, để rồi trước khi trút hơi thở cuối cùng ông đã khẩn cầu: “Hãy mang trái tim tôi trở về với Tổ quốc! Và hãy rải lên nắp áo quan nắm đất của đất nước Ba Lan mà tôi đã giữ gìn như bảo vật suốt 20 năm trời xa xứ…”

Trong ánh chiều tà biên giới, chắc cũng như tôi, ai đó đã cảm khái mà khe khẽ

Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào xanh hơn
Như tiếng chim hót gọi

Như chồi non cỏ biếc
Như rừng cây của  lá
Như tình yêu đôi ta.

Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào cao hơn

Như đầu sông đầu suối

Như đầu mây đầu gió
Như quê ta ngọn núi
Như đất trời biên cương.

Lòng yêu nước đã có ở chúng ta hàng ngàn năm. Sự hiện diện và sức hấp dẫn nồng nhiệt của nó được thể hiện rõ ràng trong bài diễn văn tang lễ cảm động của Pericles, được đọc vào năm 430 trước Công nguyên , cuối năm đầu tiên của Chiến tranh Peloponnesian.

Tuy nhiên, đây không thể là sự xuất hiện đầu tiên của chủ nghĩa yêu nước, ngay cả khi chính những người Hy Lạp này đã để lại cho chúng ta từ “chủ nghĩa yêu nước” (pater=cha, patris=tổ quốc, patriotism=love of fatherland). Lòng yêu nước chắc hẳn đã hiện diện trong mọi xã hội loài người – trước thời Pericles cũng như sau này – đã duy trì thành công sự gắn kết xã hội và khơi gợi sự hy sinh cá nhân, đặc biệt là trong những giai đoạn nguy hiểm.

Chủ nghĩa yêu nước ngày nay không kém phần rõ ràng so với thời Athens của Pericles. Thật vậy, các biểu tượng và chủ đề yêu nước hiện diện hàng ngày trong cuộc sống của hầu hết mọi người đương thời. Bản thân sự phổ biến của những biểu tượng và chủ đề này đã khiến lòng yêu nước trở thành một chủ đề nghiên cứu khoa học quan trọng.

Tuy nhiên, trong một thế giới bị đe dọa bởi dân số quá đông, cạn kiệt tài nguyên, tàn phá môi trường và chiến tranh thảm khốc có thể xảy ra, việc hiểu rõ hơn về lòng yêu nước thực sự có thể là điều cần thiết cho sự sống còn của con người. Thương hiệu của lòng yêu nước từng phục vụ lợi ích của nhiều người trong quá khứ ngày nay có thể góp phần vào sự tuyệt chủng của loài người.

Lòng yêu nước, được định nghĩa rộng rãi và theo hành vi, là một hiện tượng tự nhiên được tìm thấy ở những nơi khác trong hệ thống phân cấp của cuộc sống và trong số tất cả các loài động vật có tính xã hội. Trong con người, lòng yêu nước ít nhất là ở dạng thô sơ có lẽ hiện diện trong mọi xã hội loài người.

Hiện tượng này có chức năng giống nhau trong mọi xã hội và dường như hoạt động trên cơ sở các cơ chế hành vi cơ bản giống nhau. Việc mở rộng và phát triển các cơ chế này đã giúp con người xây dựng nên những xã hội khổng lồ thống trị toàn cầu ngày nay. Sự mở rộng và xây dựng tương tự trong tương lai có thể giúp chúng ta xây dựng một hệ thống chính trị toàn cầu có thể làm giảm nguy cơ chúng ta sẽ là tác nhân gây ra sự tuyệt chủng của chính mình.

I vow to thee my country-all earthly things above-

Entire and whole and perfect, the service of my love,

The love that asks no questions: the love that stands the test,

 

That lays upon the altar the dearest and the best:
The love that never falters, the love that pays the price,

The love that makes undaunted the final sacrifice.

Cecil Spring-Rice

(Daniel Bar – Tal)

February 18, 2024 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
Rose

Mùa chim én bay (3)

by Rose & Cactus February 14, 2024

Tết năm nay đến muộn. Năm nhuận, ngày đầu tiên của năm mới đã rơi vào gần trung tuần của tháng Hai theo lịch dương.

Vậy nên nắng Xuân lại càng thấy vàng rực rỡ. Mùa khô đang ở vào kỳ cao điểm.

Năm nào cũng thế, những ngày Tết thành phố giống như chú gấu ngủ đông. Dù hoa vẫn nở, chim vẫn  hót trên những rặng cây ven đường nhưng bóng người thì vắng hẳn.

Thị dân, phần lớn lại không phải dân được sinh ra ở phố thị. Quê hương của họ có thể là một làng quê đồng bằng, có thể là một thị trấn tỉnh lẻ. Cũng có thể là một làng chài ven biển hay một phố núi heo hút….Vì nhiều lý do tất cả họ đã tụ họp lại và chọn thành phố này làm nơi sinh sống và lập nghiệp. Cuộc sống cứ thế cuốn đi, ngày này qua ngày khác, với bao lo toan bộn bề.

 Nhưng khi “Xuân đến bên kia đồi, trời mở ra cánh én”  thì, giống như những cánh én nhỏ, con người cũng háo hức trở về về với mảnh đất quê hương. Không chỉ đơn giản là về với những người thân của hiện tại mà còn là để được sống lại với những kỷ niệm của một thời đã qua.

“Quê hương” như một hình khối không gian, trong đó ta có thể nhìn thấy chiều rộng và dài của một ranh giới địa lý cụ thể và chiều sâu tình cảm gắn bó của những người đã sinh ra ở đó.  

Bởi vậy hai chữ “Quê hương” mới thật là thiêng liêng, sâu nặng: Thiếu quê hương ta về đâu ?

Theo em anh thì về
Theo em anh thì về thăm miền quê
Nơi có một triền đê có hàng tre ru khi chiều về

 

Ơi quê ta bánh ta bánh đúc
Nơi thỏa thơm đồng xanh trái ngọt
Nơi tuổi thơ ta trài qua đẹp như giấc mơ

 

Ơi quê ta dầu sương dãi nắng
Phiên chợ nghèo lều mái tranh xiên
Kìa dáng ai như dáng mẹ dáng chị tôi

(Về quê – Phó Đức Phương)

Mình mở cánh cổng là một tấm phên đan bằng tre và bước vào vườn. Lúc đó, dưới góc nhìn của một con bé  chưa đầy 10 tuổi là mình, khu vườn nhà ông ngoại thật thật là rộng lớn. Không lần nào vào ông chơi mà mình không tung tăng ra vườn cả. Mình yêu khu vườn và thích được cùng ông làm vườn dù thật ra mà nói với sự loăng quăng của mình thì chỉ làm vướng bận chân ông thôi chứ giúp được gì mấy.

Bấy giờ là đầu xuân, sương đẫm trên từng lá cây ngọn cỏ. Đất ẩm và tỏa ra mùi nồng nồng ngai ngái. Mình nghĩ đó là hương vị đất, trong mùa mà nó có thể cảm thấy mình đã thực sự dâng hiến những gì tuyệt với nhất cho sự phát triển của các loài thực, động vật.

Mùa xuân, khí hậu ấm lên, mặt đất luôn ẩm ướt khiến cây cối đâm chồi nảy lộc, muôn hoa đua nở, chim chóc chuyền cành hót líu lo.

“Kbu vườn mùa Xuân” luôn là khu vườn đẹp nhất!

Giờ đang đầu Xuân, một số loại rau củ mùa Đông đã già và cần phải nhổ bỏ. Cải ngồng là một trong số đó. Loại cải này mình không ưa lắm vì nó có vị hơi đắng,  nhưng ngược lại, một vườn cải ra hoa cuối mùa có thể làm rung động bất cứ trái tim yêu cái đẹp nào.

Khi Đông qua và những cơn rét đậm trở nên nhạt dần, thì cũng là lúc cây rau cải muốn nói lời tạm biệt. Lời tạm biệt, không phải lúc nào cũng u ám và buồn bã như chúng ta vẫn hình dung. Cho những ngày cuối, cải vắt kiệt chút sức lực cuối cùng rồi bùng lên như ngọn lửa trước khi vụt tắt và tan biến.

Vẻ đẹp của những bụi hoa cải, vừa rực rỡ vui tươi lại vừa bâng khuâng man mác, có thể được cảm nhận rõ nhất khi bạn đứng trên một con đê cao và nhìn xuống bãi bồi ven dòng sông lờ lững trôi. Đó là bức tranh đồng quê tuyệt mỹ, một vẻ đẹp của sự kết hợp ba sắc vàng, lục và lam:

Có một mùa hoa cải nở vàng trên bến sông
Em đang thì con gái, đợi anh chưa lấy chồng
Có một mùa hoa cải nắng vàng trong mê mải

 

Cầm tay anh bối rối, anh nói lời yêu thương
Anh nói rồi anh đi, chiến tranh không ước hẹn
Sợ làm con bướm trắng thẫn thờ chiều ven sông.

(Mùa hoa cải – Nghiêm Thị Hằng)

Ra vườn ông có thể tìm kiếm bất cứ loại rau củ theo nhu cầu, mùa nào thức ấy. Ngoài những luống rau xanh ngút mắt thì ven hàng rào chạy dài đến mấy chục mét, ông trồng vào đó đủ thứ cây củ dây leo: Khoai lang, sắn (khoai mì), củ mỡ, củ từ, sắn dây, củ rong,…

Cứ đói, ra vườn là có thể tìm thấy thứ để ăn: Vì dụ khoai lang, mình sẽ dùng tay bơi đất và nhẹ nhàng nhổ, thế là kéo lên cả cụm; xong xuôi mang ra gần gốc khế, kê mấy viên gạch làm cái kiềng và vơ quanh đó củi đóm rơm rạ làm bếp lửa ; Thế là chỉ một lúc, bạn đã có củ khoai nướng ngọt lừ, thơm phưng phức có thể làm sôi lên sùng sục bất cứ cái….dạ dày nào :)).

Còn nếu không thì mình có thể chạy sang vườn táo, nằm ngay cạnh cái ao phía đối diện vườn rau. Xung quanh cái ao này cũng là cả một hệ sinh vật: Nào là chuối, ổi, mít, dừa, chanh, rồi đu đủ, mướp, bầu, bí….Lợn ở chuồng trên và vịt, ngan, cá, tôm bơi lội dưới nước.

Táo trồng trong vườn ông là táo ta, loại chỉ có vào mùa Đông. Nên khi sống trong Nam, ban đầu mình rất ngạc nhiên khi vùng Ninh Thuận nắng nóng thế mà lại nổi tiếng là đất trồng táo. Sau thì mình nhận ra có thể cùng là táo ta nhưng giống là khác nhau nên khi ăn vào cũng có hương vị khác.

Giống táo vườn nhà ông là loại thuần chủng bản địa, không lai tạp nên dù có vị ngọt hay chua thì cũng đều rất “sắc”. Ngày nay rất khó còn có thể tìm thấy cây ăn trái nguyên bản như thế. Chúng đang dần mai một, tiến tới sẽ biến mất hoàn toàn. Như cây táo nhà ông mình, sau khi già cỗi, thoái hóa và tan vào với đất thì chẳng còn cây nào thay thế nữa. Cây ra đi sau khi người trồng nó ra đi, thế hệ kế cận thì chẳng ai ham vườn tược gì để mà tiếp tục gây giống. Vườn xơ xác buồn!

Cây táo ta thấp lắm, chẳng cần trèo, chỉ đứng một chỗ mà vít cành xuống cũng được cả rổ táo mà ăn. Phải cái chúng lắm gai!

Táo bứt ngay trên cành, chẳng rửa ráy, gọt vỏ gì mình đã thả ngay vào miệng. Mát lịm và ngọt lành, món quà của tự nhiên!

Tiếc là,

mình không phải là cụ I.Newton, nên dù có ngồi dưới gốc táo trăm năm cũng chẳng nghĩ ra được cái định luật vật lý ma toi gì :)). Có chăng táo rụng xuống nhiều quá lại vỡ mẹ cả đầu (xin lỗi con, mẹ lại lỡ…tay gõ lộn từ :));

mình cũng không phải là …con mình để mà có khả năng sáng tác ra một bài thơ tình nào đó,” la vờ sờ to rì” chẳng hạn :)), dù mình có ngồi dưới gốc táo trong vườn Địa đàng cả nghìn năm :)). Khổ, nó vốn cả tin, nghe lời mẹ cứ hùng hục sáng tác thơ tình để mai mốt thành …tỷ phú :))

Roses are red

Violets are blue

Who cares about Romeo and Juliet

They don’t even last past the sunset

 

Who cares about cheesy love stories

Where one always needs a hand from the fairy

Where lovers fall in love within one night

Before vowing to be each other’s for life

 

Indeed, those sweet lovely bedtime stories

Are nothing like you and me

We hated each other at first sight

And hope for nothing but the other’s disappearance from our life

 

Strangely enough, as much as I detest you

I just can’t help looking at you

Ginger hair that reminds me of twilight

Blue eyes, clearer than the whole sky

Tuy vậy,  chắc chắn mình vẫn nhớ rằng:

Hôm nay,

Là ngày Lễ tình yêu, Valentine Day

Nhật ký William,

Feb 14

Các bạn thân mến,

Các bạn biết không, suốt đêm qua tôi không sao ngủ được.

một phần bởi phải tổng hợp báo cáo cho ngày “Lễ tình yêu”,

-Alo, Monster hả, tao thấy năm nay Táo quân có đề cập đến Tình yêu tình iếc gì đâu mà mày cần mấy cái đó? Tha cho anh em đi

-Táo quân không cần thì tao…cần :)), cứ theo kế hoạch mà làm thôi

-Thế mày ra quân trước đi nhá, kể câu chuyện “love story” của mày ấy

-Tít tít tít

Đấy, các bạn chắc chả ai ngạc  nhiên phải không, “cụ xứ” nhà chúng tôi đã cúp máy cái rụp

một phần bởi chính tôi cũng muốn viết vài điều gì đó cho ngày đặc biệt này.

Tình yêu là gì nhỉ?

Napoléon Bonaparte nói rằng tình yêu là “sự ngu ngốc của hai người”, trong khi Henry David Thoreau cho rằng đó là “cơn khát không bao giờ nguôi”. Tình yêu là mù quáng, nó khiến thế giới quay tròn, nó có thể là một hình thức chiến tranh, và chắc chắn gây ra lo lắng.

Nhưng tình yêu cũng là thứ chúng ta có thể xem xét, phân tích và thậm chí là giải thích. Không chỉ có nhà thơ mới là người có thẩm quyền về tình yêu. Cũng vây, các nhà khoa học, thuộc nhiều loại khác nhau, từ nhà sinh vật học đến nhà xã hội học, từ nhà vật lý học đến nhà tâm lý học, đều quan tâm đến điều gì thu hút và điều gì đẩy lùi.

Các bác sĩ và bác sĩ tâm thần từ lâu đã nhận ra rằng tình yêu, hoặc việc thiếu tình yêu, có thể có tác động đáng kể đến sưc khoẻ cả về thể chất lẫn tinh thần.

Các nhà xã hội học đã dành nhiều nghiên cứu về sự xa lánh, cảm giác không thuộc về, nhằm cố gắng giải thích mọi loại bất ổn xã hội. Và các nhà tội phạm học biết rằng tình trạng không có tình yêu là yếu tố then chốt dẫn đến tình trạng vô luật pháp.

Mặc dù bản chất của tình yêu thay đổi khi chúng ta trải qua các lứa tuổi và giai đoạn khác nhau của cuộc đời, nhưng đó luôn là tình yêu có thể nhận biết được. Niềm đam mê của mối tình đầu có thể chỉ là ký ức còn đọng lại của một cặp đôi đã bên nhau suốt năm mươi năm nhưng họ vẫn có thể yêu nhau.

Tình yêu cũng là một thành phần chính của tôn giáo, từ “tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho con người yếu đuối”, như Thánh Bernard đã nói vào thế kỷ 12, cho đến “Chúa Giêsu yêu tôi” của những người theo đạo Phúc Âm ngày nay.

Nhưng cùng một cảm giác thuộc về, được cần đến, được yêu thương, giúp gắn kết những người theo tôn giáo lại với nhau, cũng có tác dụng đối với những người hoài nghi và những người theo thuyết bất khả tri cũng như thông qua mạng lưới tình bạn và các cộng đoàn.

Bằng sự ca ngợi rộng rãi, tình yêu là cao quý nhất. Mạnh mẽ nhất. Trải nghiệm đẹp, tinh tế và ý nghĩa của nhân loại. Vì nó mà chúng ta được sinh ra, nhờ nó mà chúng ta được duy trì và vì nó mà chúng ta sẽ hy sinh cả cuộc đời.

Tình yêu bảo vệ đứa trẻ, mang lại niềm vui cho tuổi trẻ, an ủi và nuôi dưỡng người già. Tình yêu chữa lành người bệnh, nâng đỡ kẻ sa ngã, an ủi người đau khổ và truyền cảm hứng cho nhà soạn nhạc, họa sĩ và nhà thơ.

Tình yêu là “mặt trời thứ hai của Tự nhiên”, nó “vĩnh cửu trong lồng ngực con người”, nó “làm di chuyển mặt trời và các vì sao”.

Plato gọi đó là sự sáng tạo đầu tiên của các vị thần, trong khi Eric Fromm nói rằng đó là niềm hy vọng cuối cùng cho những vấn đề tồn tại của con người. Những triết gia xa nhau về không gian, thời gian và cách nhìn như Zoroaster người Iran và Paul Tillich người Mỹ gốc Đức đã tuyên bố tình yêu là “Quy luật phổ quát tối thượng”.

Tình yêu mang lại lợi nhuận cho các nhà máy của các công ty thu âm và nhà xuất bản, nơi nghiền nát những bài hát công thức không ngừng nghỉ và tiểu thuyết công bố những niềm vui và nỗi thống khổ của niềm đam mê lâu năm của chúng ta.

Tình yêu mãnh liệt, tình yêu đánh mất, tình yêu được tìm thấy, tình yêu được đáp lại và không đòi hỏi, tình yêu bí mật, tình yêu ồn ào, tình yêu đau đớn, tình yêu ngây ngất, tình yêu loạn thần kinh, tình yêu hư hỏng, tình yêu hy sinh – danh sách này vẫn tiếp tục.

Các nhà thơ cũng vậy (với những động cơ cao quý hơn) vắt lấy mật hoa của các vị thần này cho đến tiếng thở dài đầy đam mê cuối cùng.

Tất cả chúng ta, hoặc có vẻ như vậy, đều yêu “Tình yêu”.

(Anthony Walsh)

Sao cô ma sơ cổ lại viết “Nào có ai còn quan tâm đến chuyện tình kiểu Romeo và Juliet” ? Là một thi sĩ, không lúc nào trái tim tôi ngừng …yêu :)), và trí óc tôi ngừng nghĩ đến những sáng tác liên quan đến tình yêu.

Và chắc chắn rồi, làm gì chỉ có mình tôi như thế đâu

-Alo, William hả, mày xem xét thế nào chứ tao là nhà tình yêu học chứ không phải là thi sĩ tình yêu như mày đâu.

– Mày đừng có lý do to hơn mục đích. Hôm nay đã là ngày Valentine, deadline cuối cùng rồi mà mày còn thoái thác thì tao nói với độc giả sao đây?

Và thế là đúng vào bữa ăn tối ngày Valentine tôi nhận được thư của Leo

Gửi William,

Mày biết không William, tao bực mình mày một  thì tức giận thằng Monster mười. Tự nhiên nó bày đặt ra cái báo cáo báo cầy về tình yêu tình báo lãng nhách này, chỉ làm khổ cái thân tao. Vì tao vốn không thích vẽ vời viết lách, tình yêu là cứ phải hành động, thế thôi không nói nhiều :)), ví dụ mày hãy nghe cuộc đối thoại giữa tao và một nàng Juliet nào đó ở môt thời điểm nào đó mà giờ tao cũng chẳng nhớ :)), thế này:

-Juliet nàng hỡi, em hãy mở cửa sổ ra đi

-Nhưng Romeo chàng ơi, em không có dây ròng xuống để chàng có thể trèo lên được

-Không, tôi không có ý leo lên đâu :)). Tôi chỉ muốn thông báo cho em biết là nếu em mở cửa sổ ra và nhìn xuống, em sẽ thấy rằng khoảng cách từ cửa đến …đất không quá dài. Em có thể vô tư nhảy và tiếp đất mà không hề hấn, gãy xương tay chân  gì cả :)).

Đấy đại loại thế, nên thay vì kể câu chuyện romantic nào đó của tao thì ngày hôm nay tao đi viết đơn:

ĐƠN XIN CHUYỂN KHOA

Kính gửi: Trưởng khoa Sản

Đồng kính gửi: Trưởng khoa Tim mạch

Đại học Y thành phố “Vườn Địa Đàng”

Em tên là: Lê Ô Tru Đô

Hôm nay, ngày 14 tháng 2 năm 2024 em làm đơn này với mong muốn được chuyển từ khoa Sản sang khoa Tim mạch.

Em xin trình bày lý do như sau:

-Thứ nhất, bác sĩ Sản khoa đang quá ế. Họ gần như không có việc làm, khi đến cơ quan công việc của họ chỉ là pha trà và ngồi nhìn đồng hồ cho đến 5 giờ chiều để được ra về. Không cần nói các thầy cũng biết là do hiện tỷ lệ sinh tại “Vườn Địa đàng” thấp kỷ lục. Như năm 2023 vừa rồi, cả thành phố không có một đứa trẻ nào ra đời. Đến mức mà mới đầu năm ông thị trưởng “Xa Cô Ta Ra” của thành phố kết nghĩa Tokyo cũng đã chọn một nơi thuộc châu Phi với tỷ lệ sinh lên tới 11 chấm làm người anh em mới của họ. Chứ họ không thèm chơi với “Vườn Địa Đàng” chúng ta nữa.  Nguy cơ chỉ dăm, chục năm nữa thôi là “Vườn địa đàng” sẽ chỉ còn toàn chim muông, thú dữ chứ không còn một bóng con người.

Và em thì không nghĩ là Thượng Đế lại thương tình để lại tạo ra một Adam và Eve nữa đâu. Và nếu thế thì thôi rồi “Địa đàng” ơi, mày sắp thành “Địa ngục” rồi, huhuhu

-Thứ hai, từ giờ đến lúc đó, dân số của chúng ta sẽ ngày càng già đi và bệnh tật tuổi già sẽ phát sinh nhiều, tim mạch chẳng hạn. Theo báo cáo em mới thống kê, ngoại trừ “cụ xứ” nhà chúng em miễn nhiễm với bệnh này ra thì đứa bạn nào của em cũng có vấn đề về tim mạch cả: Đập nhanh quá, đập chậm quá, rung rinh nhiều quá, đứng yên lâu quá và thậm chí còn…ngưng đập :)).

 Cho nên em sẽ có rất nhiều việc phải làm để chữa trị cho chúng nó. Và ngay cả cho… bản thân em :))

Với tất cả sự suy nghĩ thấu đáo, em tha thiết mong các thầy xem xét đến tâm tư nguyện vọng của em.

Em sẽ nguyện không ngủ trong đêm Valentine, không phải để trả lời tin nhắn từ các cô, mà để chờ phản hồi từ các thầy :))

Em xin chân thành cảm ơn

Leo

P/S: Kính gửi thầy Adam, trưởng khoa Sản. Em gửi bổ sung cho thầy bản tiểu luận bộ môn “Men and Women”  em nợ từ trong Tết, như bên dưới:

Sách Sáng thế viết: “Người nam và người nữ đã tạo ra HỌ”. Hầu hết chúng ta mãi mãi biết ơn sự sáng tạo kép này, nhưng các tác giả của Cuốn sáng thế đã hiểu ngược lại.

Bản thể cơ bản là nữ; Adam, không phải Eva, là cái thêm vào sau của tự nhiên. Đối với mỗi con người là sản phẩm của sự kết hợp giữa trứng của người phụ nữ và tinh trùng của người đàn ông. Trứng chỉ mang nhiễm sắc thể X của nữ và do đó hoàn toàn là nữ. Tinh trùng có thể là nam (mang nhiễm sắc thể Y) hoặc nữ (mang nhiễm sắc thể X).

Nhiễm sắc thể X rất lớn so với nhiễm sắc thể Y của nam giới và nó mang nhiều gen hơn. Bản thân quả trứng lớn hơn khoảng 85.000 lần so với một tinh trùng duy nhất sẽ xâm nhập và thụ tinh với nó. Tinh trùng duy nhất đó đã giành chiến thắng trong cuộc chạy đua điên cuồng với khoảng 250.000.000 anh chị em của nó để giành được đặc quyền kết hợp với quả trứng mong muốn để tạo thành hợp tử của con người (từ tiếng Hy Lạp, :yoked”, hay “kết hợp với nhau”).

Tinh trùng nam có sức sống mạnh mẽ hơn một chút so với tinh trùng nữ, do đó số lượng tinh trùng nam được sinh ra nhiều hơn một chút. Tỷ lệ trẻ sơ sinh nam và nữ là khoảng 52:48, mặc dù tỷ lệ này tự đảo ngược theo tuổi thọ do tỷ lệ tử vong ở nam giới ở mọi lứa tuổi cao hơn.

Nhiễm sắc thể X và Y chứa trong một tinh trùng mà thụ thai cho con cái sẽ quyết định hợp tử sẽ phân biệt thành con cái hay con đực. Nếu phôi mang hai nhiễm sắc thể X, buồng trứng nữ sẽ hình thành khoảng sáu tuần sau khi thụ tinh. Nếu phôi mang nhiễm sắc thể Y, tinh hoàn sẽ hình thành trong cùng thời kỳ.

Xu hướng nam giới hướng tới những thái cực và bất thường đủ loại có thể được coi một phần là kết quả của việc nam giới rời bỏ con người “chuẩn mực”. Ở nữ giới, bất kỳ sự bất thường nào, dù dương tính hay âm tính, có thể xuất hiện lặn trên một trong các nhiễm sắc thể X đều có thể được bù đắp bởi đối tác trội của nó trên nhiễm sắc thể X còn lại. Bệnh máu khó đông là một ví dụ của quá trình này.

Phụ nữ mang gen lặn gây bệnh máu khó đông, nhưng thường chỉ có nam giới mắc bệnh này. Để một phụ nữ mắc bệnh máu khó đông, cô ấy phải là con gái của một phụ nữ mang gen bệnh và một người cha mắc bệnh máu khó đông – một trường hợp hiếm gặp. Nếu một người đàn ông thừa hưởng gen bệnh máu khó đông từ mẹ thì anh ta sẽ thiếu nhiễm sắc thể X thứ hai để chống lại gen đó.

Đây là một ví dụ khác về sự “thiên vị” của tự nhiên đối với phụ nữ. Có vẻ như con cái ở cả hai hướng đều ít đi chệch khỏi chuẩn mực hơn, bởi vì chúng quá có giá trị đối với loài để tự nhiên thử nghiệm.

Vì khả năng biến đổi lớn hơn trong gói di truyền của nam giới do kiểu hình XY nên tự nhiên đã được tự do hơn trong việc thử nghiệm với nam giới. Chúng ta thấy đàn ông có nhiều thiên tài hơn nhưng cũng có nhiều kẻ ngốc hơn, điên rồ hơn. Nhiều tội phạm hơn và nhiều hành vi lệch lạc hơn ở hầu hết các kiểu người họ.

(Anthony Walsh)

Ôi giời, nhưng có vẻ tao đã quá lo xa, không phải đợi đến đêm mà mới  15h30’ tao đã  nhận được câu trả lời từ các vị giáo sư khả kính

Thân gửi em Leo,

Từ khoa Sản:

Vì bản tiểu luận của em quá xuất sắc, chúng tôi rất tiếc phải thông báo với em là nguyện vọng của em không được chấp nhận. Em sẽ tiếp tục được giữ lại đào tạo để làm bác sĩ sản khoa tương lai.

Khoa học sẽ có nhiều tiến bộ vượt bậc nên em không phải lo hết “khách hàng” :)). Tốt nhất em hãy chú tâm học hành cho tử tế và tập trung chữa bệnh Tim của chính mình thì hơn

Trưởng khoa Sản: Ông Adam

Từ khoa Tim mạch:

Trái tim em đang cần phải chữa trị thì sao em có thể làm bác sĩ đi trị cho người khác được ?  Tốt nhất em hãy chịu khó lên núi một vài tháng tầm sư học đạo “cụ xứ” trên đó rồi quay lại đây chúng tôi test lại xem có đạt chuẩn không thì mới đi đến quyết định cho nguyện vọng của em

Chúc em vui

Trưởng khoa Tim: Bà Eva

Đấy là tất cả những gì tao có thể báo cáo với mày.

Chúc mày ngày Valentine vui,

Leo

Leo ơi là Leo, sao mày lại dại thế. Thư gửi khoa Sản thì mày đi thể hiện cái trình độ môn Sinh học di truyền của mày vậy bảo sao ổng không giữ mày lại. Thôi chia buồn với mày, chịu khó làm bác sĩ sản khoa đi, đừng có “Đúng núi này, trông núi nọ nữa” :))

Tình yêu, theo cách nhìn truyền thống, là một trong những thứ vô hình tuyệt vời như Sự thật và Cái đẹp. Tôi muốn để lại những chủ đề như vậy cho ngòi bút của nhà thơ kẻo chúng bị giảm bớt phần nào bởi cái nhìn lạnh lùng của khoa học.

Phản ứng của người lãng mạn đối với việc giải thích một điều gì đó đẹp đẽ trong những chi tiết cụ thể của nó được minh họa bằng những dòng của Wordsworth (dựa trên lời giải thích của Sir Issac Newton về lăng kính):

“Trí tuệ can thiệp của chúng ta làm sai lệch hình thức đẹp đẽ của sự vật”

Có lẽ có những người thích sự huyền bí của một hiện tượng hơn là bản thân hiện tượng đó. Nhưng chắc chắn khoa học sẽ nâng cao hơn là làm giảm đi sự đánh giá cao về bất kỳ sự quyến rũ nào mà tự nhiên bộc lộ.

Chúng ta cần hiểu tình yêu một cách cụ thể, cũng như chúng ta cần tận hưởng những phước lành của nó. Những nhầm lẫn, mâu thuẫn và quan niệm sai lầm về bản chất của tình yêu đã khiến nhân loại phải trả giá đắt.

Chừng nào chúng ta còn coi tình yêu là một bí ẩn tâm linh ngọt ngào nào đó gây ấn tượng với chúng ta hoặc không, chúng ta có thể tìm kiếm nó một cách vô ích. Nếu chúng ta bỏ lỡ tình yêu, chúng ta đã bỏ lỡ một khía cạnh thực sự cần thiết của sự tồn tại của con người.

Tình yêu không chỉ là lớp kem trên chiếc bánh tồn tại của con người; theo một nghĩa rất thực tế, nó chính là sự Tồn tại. Loài người có thể chưa bao giờ tiến hóa từ vô số thế kỷ trước nếu quá trình tiến hóa không chọn tình yêu làm di sản sinh học của chúng ta.

Các gia đình, các nhóm, bộ lạc và quốc gia đã tan vỡ dưới sức nặng không thể chịu nổi của tình trạng không có tình yêu. Những cá nhân thiếu tình yêu trở nên cằn cỗi về mặt cảm xúc khi họ phải vật lộn với cuộc sống đầy khắc nghiệt. Nhiều ngành khoa học, từ nhân chủng học đến động vật học, đã ghi lại và khẳng định những tuyên bố này.

Vậy thì Tình yêu là gì?

Để trả lời câu hỏi này, Ngài Philip Sidney đã hét lên: “Đồ ngốc, hãy nhìn vào trái tim mình và viết!” Câu trả lời kích động của Sidney ngụ ý rằng ở đâu đó trong sâu thẳm, tất cả chúng ta đều phải biết câu trả lời, và nó sẽ được tiết lộ cho chúng ta nếu chúng ta chỉ tham gia vào một chút thơ ca liên tưởng tự do.

Thơ từ lâu đã được coi là ngôn ngữ đích thực duy nhất của tình yêu và do đó là phương tiện duy nhất có thể trả lời câu hỏi này.

Thơ là một sự trợ giúp tuyệt vời cho sự hiểu biết của con người, nhưng tình yêu là một chủ đề quá quan trọng nên nó không thể được coi là lĩnh vực độc quyền của nhà thơ, tiểu thuyết gia hay linh mục.

Tình yêu còn hơn cả sự hòa quyện đam mê của hai tâm hồn

“Tình cảm sâu sắc và phức tạp mà chúng ta gọi là tình yêu là khát vọng phổ quát về sự hiệp thông không chỉ của các giác quan, mà còn của toàn bộ bản chất của chúng ta, trí tuệ, trí tưởng tượng và sự nhạy cảm…

(Anthony Walsh)

Gửi William,

Bạn thân mến của tôi,

Tôi báo tin vui này cho bạn để bạn mừng cho tôi. Thật là phúc đức, khi Tết này tôi đã có thể cười thật tươi vì “trong túi tôi đã có tiền”: Nhờ bạn nói giùm mà bức tranh Nàng Mộng Năng Lý San đã được bán đi với cái giá mà tôi cũng không ngờ tới;

và còn vì “trong tim tôi hiện có tình”, hichic, ngại thật nhưng đây mới là thứ khiến tôi hạnh phúc đến mức là hiện giờ bệnh tình của tôi đã khỏi hẳn. Buffalo ơi, dại chưa mày ai bảo không chịu dậy, giờ mất luôn lợi nhuận bán máy chữa bệnh rồi nhá :))

Sự tình thế này để tôi nói bạn nghe:

Ngay khi có tiền bán bức tranh, tôi mừng đến mức khi về đến cửa nhà, tôi đã mua cho bác Tư chuyên bán vé số dạo đối diện nhà tôi toàn bộ số vé mà bác còn ế.  Tôi chỉ nghĩ đó là hành động nhỏ thôi, chẳng có gì ghê gớm cả. Thế mà chẳng hiểu sao việc làm đó lại lan truyền khắp con hẻm, làm mấy bố hát karaoke dạo cạnh nhà tối đó bỗng lò dò sang tận nhà tôi:

-Con cho các chú xin lỗi. Từ nay muốn hát gì các chú sẽ ra quán. Chú đâu ngờ chỉ vì giọng hát mà con lãng cả tai như thế!

Thấy họ khóc huhu, chả hiểu sao lúc đó tôi lại thấy thương:

-Không sao đâu chú, tết nhất thế này các chú các anh cứ thoải mái ca cho mùa Xuân thêm phần rộn ràng, tươi đẹp

Và dù tôi có thành ý như vậy thì cũng không thấy họ ca cẩm gì nữa cả.

Thay vào đó, hôm sau bỗng cất lên là một giọng nữ thánh thót như chim sơn ca buổi sớm:

-Anh có nghe thấy em nói gì không?

Tôi chỉ nghe loáng thoáng  tiếng  thì thào chứ nào nghe được gì, bời vậy tôi viết bảng rồi giờ lên y như sân chơi của một Gameshow trên truyền hình vậy:

-KHÔNG

Chữ rõ to nhá, tôi còn viết cả hoa để nàng nhìn rõ

-Anh có nghe thấy gió nói gì không?

Trời, đến tiếng người tôi còn không nghe rõ nữa là tiếng…gió :))

-CŨNG KHÔNG NỐT

Lại một lần nữa tôi làm nàng thất vọng.

Nhưng nàng thiếu nữ không bỏ cuộc, đến sáng nay đúng ngày lễ Tình yêu nàng không hát nữa, và bắt chước tôi, nàng viết lên một tấm biển:

-EM MANG THƯƠNG NHỚ GỬI VÀO TRONG GIÓ!

Ôi giời ạ, không biết là sự kỳ diệu của Thần tinh yêu hay tiếng Gió đã mang thương nhớ cho tôi mà ngay khi nhìn thấy nàng và dòng chữ thơ mộng đó thì tất cả âm thanh của cuộc sống bỗng nhiên ập trở lại rõ mồn một vào tai tôi. Tôi thật không tin nổi, đến mức phải giật cái tai của mình đến mấy chục lần xem có đúng là nó đã hồi phục rồi không?

Và hẳn là không thể nhầm được. Ơn Trời, tôi đã chính thức khỏi bệnh rồi. Thế là chẳng cần cái bảng ngớ ngẩn kia nữa, tôi gào lên:

Cơn gió nào bay ngang cuộc đời

Nói với em rằng tôi lẻ loi

Tuy vậy, chẳng biết giọng hát tôi sao mà ngay khi chữ lẻ loi rơi xuống thì nàng cũng để tôi lẻ loi ở ban công luôn. Nàng đã chạy biến vào nhà, tôi đoán là do …xúc động quá :))

Vậy nhé William, có gì mới tôi sẽ báo cáo cho bạn sau

Giờ tôi phải vào nhà luyện giọng đã, từ ngày mai tôi sẽ chính thức khởi động luyện hát qua …karaoke :)))

Chúc thi sĩ ngày Valentine vui,

Charlie

The science of love : understanding love & its effects on mind & body

By Anthony Walsh

Không phải mối đe dọa của cái chết, bệnh tật, khó khăn hay nghèo đói đè bẹp tinh thần con người; đó là nỗi sợ cô đơn và không được yêu thương trong vũ trụ. Chỉ khi chúng ta được yêu và có thể đáp lại tình yêu thì chúng ta mới cảm thấy trọn vẹn.

Thiếu vắng tình yêu, chúng ta sẽ là những sinh vật không hoàn chỉnh, và chúng ta khao khát được kết nối. Khi chúng ta kết nối không đầy đủ, chúng ta cảm thấy sự trống rỗng sâu sắc về cảm xúc và tinh thần. Ngoài những nhu cầu sinh tồn thuần túy do bản chất sinh học của chúng ta quy định, tình yêu là điều quan trọng hơn hết đối với con người.

Nhu cầu tình yêu bao trùm sự tồn tại cá nhân, sinh học, tình dục, xã hội và tinh thần của chúng ta. Khi có nó, chúng ta cảm thấy hạnh phúc, trọn vẹn và tràn đầy sức sống. Nó làm đẹp cuộc sống của chúng ta, nó thấm nhuần tâm trí và trái tim của chúng ta với cảm giác tràn đầy sức sống.

Nó thực sự là “mặt trời thứ hai của tự nhiên”, cho tất cả các nhu cầu của chúng ta, cả những nhu cầu thiết yếu lẫn mong muốn đơn thuần, đều xoay quanh nó.

Với  tất cả những lời khen ngợi và khao khát tình yêu, chúng ta cảm thấy khó có được một khái niệm chắc chắn về bản chất của nó.

 Chúng ta bị hạn chế bởi những quan điểm và ý tưởng mà nền văn hóa để lại cho chúng ta cũng như bởi ngôn ngữ mà chúng được thể hiện. Mỗi thế hệ đều được thấm nhuần hạt giống trí tuệ của những nhà tư tưởng đã đi đến phần thưởng hoặc hình phạt từ lâu. Giống như mọi ý tưởng quan trọng khác, tình yêu đã được sàng lọc qua những ý tưởng được tiếp nhận.

Mỗi quan điểm văn hóa về tình yêu đều có điều gì đó muốn nói với chúng ta, vì vậy việc coi bất kỳ một phần nào là tổng thể là sai lầm. Do đó, có vẻ như điều đang mong muốn sẽ là đưa ra một cái nhìn tổng quan về ý nghĩa của tình yêu đối với những cư dân ở thời gian và địa điểm khác với chúng ta.

Tình yêu như một phát minh của con người.

Khi chúng ta nói về tình yêu như một phát minh của con người, chúng ta chỉ muốn ám chỉ đến tình yêu lãng mạn. Theo như tôi biết, nhu cầu về dinh dưỡng, liên kết và gắn bó của chúng ta chưa bao giờ được coi là bất cứ thứ gì ngoại trừ bắt nguồn từ sinh học của loài.

Do đó, trước tiên chúng ta hãy phân biệt giữa tình yêu lãng mạn và các hình thức tình yêu khác. Bỏ qua những điều thiết yếu nhất, tình yêu lãng mạn là niềm đam mê, các hình thức tình yêu khác là lòng trắc ẩn. Người Hy Lạp coi tình yêu lãng mạn  có thể khiến “một nhà thơ thậm chí là một kẻ quê mùa”.

Ở đây những nhu cầu và đòi hỏi của bản thân và của người được yêu được nhấn mạnh đến mức loại trừ tất cả những người khác. Khi tôi sử dụng thuật ngữ ở đây, lòng trắc ẩn là sự kết hợp giữa các thuật ngữ Hy Lạp agape (sự quan tâm vị tha đến hạnh phúc của người khác) và philia (tình bạn, tình anh em, tình chị em, cảm giác ấm áp của chúng ta).

Trong tình yêu trắc ẩn, chúng ta thừa nhận nhu cầu và yêu cầu của người khác ngoài bất kỳ mối quan hệ tình yêu lãng mạn cơ bản nào mà chúng ta có thể tận hưởng. Những hình thức tình yêu này chỉ có thể được tách biệt một cách giả tạo nhằm mục đích phân tích. Trên thực tế, chúng là một phần của một tổng thể mạch lạc, mỗi phần cảm nhận lẫn nhau, giống như dùng tay này rửa tay kia.

Tình yêu đam mê và tình yêu trắc ẩn là một phần của nguyên tắc tình yêu tổng quát hơn, bắt nguồn từ sinh học của chúng ta, một nguyên tắc thúc đẩy chúng ta sử dụng năng lượng thể chất và tinh thần để hướng tới sự thống nhất và phát triển.

Nhà triết học Denis de Rougemont nằm trong số những người coi tình yêu lãng mạn là một phát minh của thời Trung cổ. Ông nói, tình yêu lãng mạn nảy sinh từ những bản ballad có hồn của những người hát rong được hát trong những lâu đài có gió lùa của châu Âu thời trung cổ.

Cái gọi là tình yêu lịch sự này là sự thô tục hóa những lý tưởng được tìm thấy trong quan niệm tình yêu của Plato. Theo một nghĩa nào đó, đó cũng là sự nhân bản hóa tình yêu của người châu Âu, khi lòng sùng kính được chuyển từ Thiên Chúa sang đàn ông và phụ nữ.

 Chắc chắn những câu chuyện tình yêu cảm động trong Kinh thánh hay Những đêm Ả Rập cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy tình yêu lãng mạn có từ lâu đời và phổ quát hơn thế rất nhiều. Chưa bao giờ có bài thơ lãng mạn nào cao siêu hơn Bài ca của Solomon trong Kinh thánh.

Tình yêu lịch sự là sự tái tạo văn hóa, không phải là sự sáng tạo nguyên bản. Có một sự thật nào đó trong quan điểm này về tình yêu. Tuy nhiên, nếu chúng ta yêu cầu một tiêu chuẩn duy nhất trong sự phát triển của tình yêu lãng mạn (như chúng ta nhìn nhận nó trong thế giới phương Tây đương đại), thì chắc chắn học thuyết về tình yêu lịch sự chính là nó.

 Nhưng nó là một chuẩn mực theo nghĩa chuyến hành trình của Columbus là chuẩn mực cho việc truyền bá kiến ​​thức về thế giới không tròn trịa. Những người có học vấn đã biết thế giới tròn từ rất lâu trước Columbus; Eratoshenes thậm chí đã tính toán chu vi của nó với độ chính xác vượt trội khoảng 1.400 năm trước. Tương tự như vậy, đàn ông và phụ nữ đều khao khát một người đặc biệt đó từ rất lâu trước khi các nghệ sĩ ballade châu Âu đặt niềm đau vào âm nhạc.

 Nhà nhân chủng học Bronislaw Malinowski đã tuyên bố: “Tình yêu và hôn nhân gắn liền với những giấc mơ ban ngày và trong tiểu thuyết, trong văn hóa dân gian và thơ ca, trong cách cư xử, đạo đức và thể chế của mọi cộng đồng nhân loại”. Nói cách khác, Malinowski coi tình yêu là một trong những phổ quát văn hóa, có lẽ đôi khi không dễ dàng được công nhận nhưng dù sao cũng có.

 Chúng ta hãy nhìn gần hơn vào những cộng đồng bản địa ở Bắc Mỹ. Người ta biết nhiều về các bộ lạc người Mỹ bản địa hơn bất kỳ dân tộc thổ dân nào khác trên thế giới, vì họ là mục tiêu tự nhiên cho hoạt động thu hoạch hàng năm của các nhà nhân chủng học mới của Hoa Kỳ.

Người Mỹ da đỏ thừa nhận tình yêu lãng mạn nhưng coi đó không phải là điều gì đáng để làm thơ. Nhà nhân chủng học Peter Farb nói với chúng ta rằng người da đỏ thích nói đùa về tình cảm lãng mạn của giới trẻ nhưng họ tin rằng chỉ có kẻ ngốc mới coi những điều quan trọng như hôn nhân dựa trên tình yêu.

Lòng trắc ẩn, chứ không phải niềm đam mê, là nguồn gốc giữ cho gia đình, băng nhóm và bộ tộc đoàn kết. Sự sống còn, cả ở cấp độ cá nhân và cấp độ nhóm, đòi hỏi sự đoàn kết, gần gũi, quan tâm, vị tha và hợp tác ở mức độ lớn hơn mức cần thiết trong xã hội hiện đại. Quả thực, giữa những người da trắng định cư đầu tiên, người da đỏ nổi tiếng về tình yêu trắc ẩn đến mức nhiều người da trắng đã đến sống cùng họ.

Số lượng người da trắng kết hôn với người da đỏ và đến sống với họ nghiêm trọng đến mức thuộc địa Virginia đã ban hành luật chống lại tục lệ như vậy. Khi Farb nói rằng người da đỏ thích nói đùa về những mối ràng buộc lãng mạn, ông đã nhấn mạnh một tính tổng quát cũng rộng như việc gán một số đặc điểm khác cho người châu Âu. Cũng như có rất nhiều nền văn hóa đa dạng ở Châu Âu, cũng có rất nhiều dân tộc mà chúng ta gọi là người Mỹ bản địa. Nhiều nền văn hóa trong số này có những quan niệm lãng mạn mà chúng ta có thể nhận ra.

Người Cheyenne vùng Great Plains có lẽ là ví dụ điển hình nhất. Việc tìm hiểu và kết hôn giữa người Cheyenne là một chuyện rất lãng mạn và kéo dài, thường kéo dài bốn hoặc năm năm. Phụ nữ Cheeyenen cực kỳ bẽn lẽn, và họ đã khiến những chàng trai theo đuổi đầy rủi to của mình phải đổ mồ hôi và nước mắt để giành được hôn nhân. Người dũng cảm phải tặng cô những món quà và những lời nói yêu thương.

Nếu điều này tỏ ra không thỏa đáng, anh ta có thể dùng đến việc chiêu đãi cô bằng một “cây sáo tình yêu” đặc biệt hoặc tranh thủ sức mạnh của thầy lang. Nói cách khác, đàn ông Cheyenne cảm nhận và cư xử theo cách mà những người theo đuổi nồng nhiệt nhất trong thời kỳ lãng mạn nhất của văn hóa phương Tây sẽ nhận ra.

Nhưng tại sao tình yêu lãng mạn lại không được thừa nhận và đánh giá cao trong các nền văn hóa tiền chữ viết như ở chúng ta? Hãy để tôi tiếp cận câu hỏi này thông qua một sự tương tự.

Nhà thơ và triết gia người Đức Schiller đã viết rằng “nỗi đói và tình yêu chuyển động thế giới”. Tình yêu và cơn đói là động lực, và động lực là trải nghiệm sinh lý của nhu cầu khắc phục một số thiếu hụt quan trọng về mặt sinh học. Đói là động lực cho việc ăn để loài có thể tồn tại.

Nỗi đau “đói” nhắc nhở chúng ta phải ăn, nỗi đau “lãng mạn” nhắc nhở chúng ta phải yêu.

Những câu chuyện thời chiến từ các trại tù binh kể về phản ứng của con người trước nạn đói cùng cực. Các tù nhân không nghĩ đến điều gì khác ngoài thức ăn; họ đã mơ về nó, tưởng tượng về nó và phủ lên đôi chân của Betty Grable những hình ảnh về bít tết và trứng.

Thức ăn có một giá trị vô giá và được mạ vàng với vẻ thèm muốn gần như thánh thiện. Khi chúng ta bị thiếu hụt nghiêm trọng thứ gì đó quan trọng đối với sự tồn tại sinh học của chúng ta, tự nhiên yêu cầu chúng ta hướng toàn bộ năng lượng của mình vào việc khắc phục sự thiếu hụt.

Bạn đã bao giờ nói về thức ăn như một tù binh đói chưa? Tôi thì chưa. Những người trong chúng ta ăn bất cứ khi nào chúng ta muốn không tiêu tốn nhiều năng lượng để lý tưởng hóa bữa sáng của mình – chúng ta coi nó “một cách triết lý và không tô điểm thêm tình cảm”. Điều này không có nghĩa là những tù binh say thực phẩm này đã tạo ra cơn đói, chúng ta cũng sẽ đam mê món bít-tết và trứng của mình nếu chúng không có sẵn trong tay. 

 Nhật ký Jack,

Feb 14

Đối với những người kinh doanh như tôi thì Tết cổ truyền là thời điểm duy nhất mà tôi được nghỉ ngơi dài ngày và do đó tôi rất trân trọng khoảng thời gian này. Ngẫm lại năm qua, tôi thấy mình thật may mắn khi chỉ bị xếp vào hàng ngũ “dự bị” ở tập đoàn “Những người thích …tiền” :)) và tôi mong rằng mình sẽ không bao giờ được ra sân đá “chính thức” :)).

Hôm nay mùng 5 rồi và tôi đang ở nhà làm cơm để đợi ông bà tôi từ miền Tây lên thăm con cháu. Hai cụ, một cụ Bắc, một cụ Nam mà suốt mấy chục năm ở với nhau chưa bao giờ tôi thấy họ to tiếng với nhau câu nào. Ông ngoại tôi, giai dân tộc vùng cao Tây Bắc chính gốc mà giờ ăn xôi chấm mắm tôm kèm dưa hấu cứ là vèo vèo :)); Bà ngoại tôi, gái miệt vườn Cù lao sông Hậu không lai tí nào mà giờ có thể múa sạp với hát làn điệu then không khác gì cô gái H’mong :)).

Nghĩ cũng nhanh, thấm thoắt tôi đã bơi vào bờ Thái Bình Dương được vài năm. Có nhắm mắt lại tôi vẫn có thể nhớ lại được cái khoảnh khắc đêm băng giá giữa lòng Đại Tây Dương ấy:

-Rose em hỡi, em cứ yên tâm ngồi một mình trên cái thúng đó đi, đừng lo cho tôi!

Tôi cố hết sức để nói một cách rành rọt với nàng tiểu thư quý tộc Anh quốc như vậy mặc dù trong lòng thì, ngược lại, chỉ muốn bám riết lấy cái thành thúng và chỉ sợ nó trôi mất :))

-Jack, chàng hãy cho em biết hiện tại khối lượng của chàng là bao nhiêu?

Ôi giời ơi, đang nước sôi lửa bỏng thế này nàng ta lại muốn biết đến trọng lượng với khối lượng là sao. Giá mà câu hỏi là: “Hãy lên thúng với em” đi thì có phải tôi đỡ tủi hơn không? :))

-Nếu tôi nhớ không nhầm thì khoảng 70 ký hơi

Tôi hét lên

Nàng nghe thế lại lấy ngón tay đếm đếm, đoạn quay sang tay đạo diễn:

-Vậy là dư ra 1 ký rồi. Tải trọng chịu được tối đa của cái thúng này chỉ khoảng 120 ký thôi

Với bộ mặt buồn bã, Ngài đạo diễn của thế kỷ phát qua loa để tôi có thể nghe rõ

–   Jack à, thôi thì tình cảnh đã như thế này, cậu chịu khó phát huy hết tài năng bơi lội, một mình băng qua đại dương vậy. Giờ tôi mà cho cậu lên thúng thì cậu (và cả cái thúng cùng cô Rose) cũng sẽ chìm chưa kể là khán giả sẽ tẩy chay phim ngay, họ nói cái kết viên mãn của một thảm họa là không hợp lý. Và như thế phim của chúng ta sẽ thất thu, cả tôi và cậu sẽ “tiêu” thật sự đấy, cát xê sẽ chẳng nhận được đồng cắc bạc nào đâu.

Thôi chịu khó nhé!

Cứ nghĩ đến một ngày “Mai” bình an là chúng ta sẽ thu được 500 tỷ :))

Tạm biệt và hẹn gặp lại!

Thế đấy các bạn ạ! Và tôi xin khẳng định nếu không phải là vận động viên marathon đường trường lâu năm :)), dưới nước cũng như trên cạn thôi, thì giờ này tôi không thể có cơ hội ngồi đây mà kể câu chuyện này với các bạn đâu!

Vậy các bạn cứ học tôi nhé, bền bỉ đừng ngại đường xa thì kiểu gì cũng đến đích!

Chúc các bạn một năm mới nhiều niềm vui!

Jack

The science of love : understanding love & its effects on mind & body

By Anthony Walsh

Điều gì xảy ra khi chúng ta “fall in love”?

Chính từ “fall” dường như hàm ý rằng quá trình này khá phi lý, một điều gì đó nằm ngoài tầm kiểm soát nhận thức của chúng ta. Tôi nhớ đến một bài hát nổi tiếng của Nancy Sinatra trong những năm 1970, trong đó cô thừa nhận: “Chúng tôi kết hôn trong cơn sốt”.

Yêu (Falling in love)  là điều xảy ra với chúng ta chứ không phải điều chúng ta làm cho xảy ra. Đôi khi nó thậm chí còn xảy ra khi chúng ta ít mong đợi và mong muốn nó nhất, ít nhất là ở mức độ hoàn toàn có ý thức. Nó khác với việc yêu (Being in love), đó là một quá trình liên tục bao gồm các thành phần lý trí cũng như cảm xúc. Yêu (Falling in love) là một sự kiện rời rạc; yêu thương (Loving)  là một chuỗi các sự kiện diễn ra theo thời gian.

Tôi không có ý ám chỉ rằng “yêu từ cái nhìn đầu tiên” là một hiện tượng phổ biến, mặc dù tôi cho rằng nó có xảy ra. “Yêu” thường được bắt đầu bằng sự tích tụ đều đặn các hành động, suy nghĩ, cử chỉ, trí tưởng tượng và những mộng tưởng đẹp đẽ. Chúng ta gặp ai đó, và bằng cách nào đó những đặc điểm độc đáo của người đó bắt đầu có tác động đồng hóa lên chúng ta.

Bất kể chi tiết dẫn đến sự kiện có thể là gì, khi nó xảy ra, nó sẽ xảy ra một cách rầm rộ (ngày nay thường theo nghĩa đen cũng như nghĩa bóng).

Nhà văn Nga Ivan Turgenev ví tình yêu như một cuộc cách mạng về cường độ của nó: “Mối tình đầu giống hệt một cuộc cách mạng: Trật tự cuộc sống đều đặn và cố định trong chốc lát bị đập tan thành từng mảnh; tuổi trẻ đứng ở chướng ngại vật, lá cờ rực rỡ của nó được giương cao trên không và gửi những lời chào ngây ngất đến tương lai, bất kể nó có thể chứa đựng điều gì – cái chết hay cuộc sống mới, bất kể.

Giống như Cách mạng Pháp, yêu (Falling in love) thường sẽ phải chịu phản ứng Thermidorian. Tình yêu không thể đóng chai và mua được như Valium; nó phải được học bằng cách bắt chước những người yêu nhau của chúng ta trong một môi trường chứa đựng bản chất của nó.

Nếu tình yêu không được gieo vào trái tim chúng ta ngay từ khi nó mới tồn tại thì những năm tháng sau này sẽ khó gặt hái được thành quả dồi dào. Nhưng sự tồn tại của con người không phải là số phận mù quáng. Chúng ta nợ bản thân và người khác để cố gắng trở nên đáng yêu bất chấp những trải nghiệm tiêu cực. Chúng ta có thể thay đổi số phận cá nhân của mình nếu chúng ta nhớ rằng yêu là tận hưởng thành quả của thân phận con người và đó là cách duy nhất để hoàn thiện vòng tròn con người.

Tình yêu trong trái tim chúng ta có giống như những cánh đồng màu mỡ ở Iowa hay sa mạc Sahara cằn cỗi hay không đều phụ thuộc vào cả cách nó được chăm sóc khi mới chớm nở cũng như cách chúng ta đáp ứng và nuôi dưỡng nó hiện nay.

Nếu tình yêu của chúng ta giống như tình yêu trước đây, chúng ta sẽ coi thế giới là một nơi thân thiện; chúng ta sẽ có thể khám phá trái đất bất cứ lúc nào và đặt rễ của chúng ta vào đó. Chúng ta sẽ phát triển mạnh mẽ vì đất sẽ chào đón sự nuôi dưỡng của chúng ta cũng như chúng ta chào đón nó.

Nếu tình yêu của chúng ta giống với tình yêu đến sau, chúng ta sẽ coi thế giới như một nơi thù địch, một nơi chối bỏ chúng ta cũng như chúng ta chối bỏ nó. Chúng ta có thể vật lộn trên một ốc đảo nhỏ sẵn sàng chứa chúng ta trong một thời gian và chúng ta sẽ bám vào đó một cách ghen tị, đầy chiếm hữu. Chúng ta thậm chí sẽ tưởng tượng rằng chúng ta yêu thích nó. Nhưng không biết còn cách nào khác, chúng ta sẽ sử dụng và lạm dụng tài nguyên của nó cho đến khi sa mạc lấy lại được, và chúng ta một lần nữa bị bỏ lại một mình phát điên dưới ánh mặt trời chói chang.

Đôi khi ngôn ngữ khoa học tỏ ra không đủ, quá nhạt nhẽo, quá khô khan để diễn đạt đầy đủ một niềm tin.

Cách diễn đạt hùng hồn của nhà thơ người Anh thời Elizabeth, George Chapman, đã thực hiện nhiệm vụ một cách đáng ngưỡng mộ hơn: 

Tôi nói với bạn, Tình yêu là mặt trời thứ hai của Tự nhiên

Tạo nên nguồn sinh khí nơi nó tỏa sáng;

Khi không có mặt trời, con mắt vĩ đại của thế giới,

Tất cả màu sắc, vẻ đẹp, cả về nghệ thuật và tự nhiên,

 

Được ban cho loài người một cách vô ích; vì là không có tình yêu

Mọi vẻ đẹp sinh ra ở phụ nữ đều vô ích,

Mọi đức tính sinh ra ở đàn ông đều đã bị chôn vùi;

 

Vì tình yêu báo hiệu chúng như màu sắc của Mặt trời,

Và khi mặt trời, phản chiếu những tia nắng ấm áp

Xuống trái đất, sinh ra tất cả các loại hoa trái;

 

Vậy nên tình yêu, hãy tỏa sáng trong con người hướng nội,

Mang lại cho anh ta những thành tựu đáng trân trọng

Của lòng dũng cảm, sự hóm hỉnh, đức hạnh và những suy nghĩ kiêu kỳ

Nghị quyết can đảm, và bài giảng thiêng liêng. 

 

I tell thee, Love is Nature’s second sun

Causing a spring of vitues where he shines;

As without the sun, the World’s great eye,

All colours, beauties, both of art and nature,

 

Are given in vain to men; so without love

All beauties bred in women are in vain,

All virtures born in men lie buried;

For love informs them as the Sun doth colours,

 

And as the sun, reflecting his warm beams

Against the earth, begets all fruits and flowers;

So love, fair shining in the inward man,

Brings forth in him the honourable fruits

Of valour, wit, virtue, and haughty thoughts,

Brave resolution, and divine discourse.

February 14, 2024 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
Rose

Mùa chim én bay (2)

by Rose & Cactus February 8, 2024

Khi hồi tưởng về một khung cảnh mùa xuân ở đâu đó mà mình đã trải qua, có những ký ức đẹp đẽ cứ trở đi trở lại , là khu vườn nhỏ nhà ông ngoại mình ngày xưa.

Mình thích gọi nó là Khu vườn của bốn mùa; Khu vườn của mùa xuân

“…  Một buổi mai cuối tháng Chạp, cái lạnh khiến bất kỳ ai cũng đều không muốn chui ra khỏi cái tổ ấm áp. Mùa đông dùng dằng chưa chịu rời đi đâu, ít cũng phải hai tháng nữa, qua Xuân phân thì cảm nhận về sự rét mướt mới bớt dần đi.

Nhưng Đông vẫn còn ở lại không có nghĩa là Xuân chưa tới. Mấy nay đã thấy lất phất vài hạt mưa bụi. Ấy là dấu hiện nàng Xuân đang sửa soạn cho sự lấn át trong vũ hội mang tên Mùa. Sở dĩ gọi kiểu mưa này là mưa “bụi” bởi vì các tinh thể nước không đủ lớn để đọng lại thành giọt. Hạt mưa chỉ mỏng manh như hạt bụi, nhẹ đến mức nó bay trong không trung rồi hoặc là tan biến hoặc là vương vấn vào áo vào khăn của nàng thiếu nữ mải đùa nghịch trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ của mùa Xuân.

Trời vẫn tối sẫm. Thi thoảng lại nghe tiếng gà gáy, lúc xa lúc gần. Được cái, lạnh mấy thì lạnh chứ những chú gà chẳng bao giờ xao nhãng mà quên đi nhiệm vụ của mình. Thậm chí nếu nghe quen ta vẫn có thể à lên một tiếng, rằng “Tao đã nhận ra cái “giọng gáy” này là của mày rồi nhà, Trống choai” :))

Trong căn nhà nhỏ, người nông dân già đã trở dậy. Thay vì  than trách tiết trời, ta chỉ nghe những tiếng húng hắng ho kéo dài, như một dấu hiệu của tuổi tác.

Gấp gọn chăn màn cẩn thận, ông với tay bật công tắc điện. Ánh sáng đỏ của cái bóng tròn treo giữa gian nhà ba gian tuy có hơi làm chói mắt người vừa thức giấc nhưng không thể phủ nhận nó mang lại cảm giác ấm áp hơn hẳn!

Ánh điện vẫn còn ở đó một lúc lâu nữa khi cánh cửa căn nhà được mở toang để đón tia sáng tự nhiên tràn vào. Dưới căn bếp nằm bên hông nhà, đã nghe tiếng củi cháy bập bùng. Khói và hơi nóng như muốn xua tan sương mù, thậm chí đã bò cả vào hàng lỗ thoáng ngay bên trên chỗ đun nấu:

-Tết mà được cái rét ngọt thế này thì tuyệt lắm đây!

Ông lão khẽ nhấp ly trà nóng sau khi đã kéo một hơi dài một cữ thuốc lào.  Đoạn ông lim dim mắt hướng ra khu vườn nhỏ đằng trước nhà.

Ở đó, cây bích đào cổ, với thế đẹp tự nhiên mà không cần bất cứ bàn tay tác động nào của con người, đã chúm chím những cái nụ đầu tiên. Nhanh lắm chỉ độ chục ngày nữa thôi, toàn bộ cành cây gầy guộc trơ trụi bừng lên sắc hồng khi những bông hoa đào bung nở. Bích đào có sắc hồng sậm, cho cảm giác một mùa Xuân rực rỡ hơn.

Nhưng sắc hồng của đào không hề lẻ loi, nó được phụ đạo thêm bởi những bụi hồng nhung bên dưới cũng đang khoe sắc. Hồng là loài hoa đặc biệt yêu thích cái khí hậu se lạnh, lạnh mà lại có ánh mặt trời nữa thì ai cũng sẵn sàng “chết” vì nhan sắc và mùi hương của nàng.

Lão nông thích hồng nhung, giống hồng cổ đỏ thắm với cánh hoa dầy luôn được ưu tiên trồng so với các loại hồng khác. Cuối thu năm rồi, ông cụ còn được tặng hạt giống hoa sao đỏ, một loại hoa dây leo. Không chần chừ ông đã gieo ngay dọc theo hàng rào tre ngay khu vườn. Để sang Xuân, nó cũng kịp bung nở. Góp thêm một sắc màu trong vườn hoa muôn sắc.

Trời sáng dần, ánh sáng làm lộ ra những hạt sương như những tinh thể thủy tinh, lấp lánh trên từng ngọn cây, kẽ lá. Đẹp nhất là trên những cánh hoa mỏng manh.

Một lúc sau, từ căn nhà nhỏ ta đã nghe tiếng hát phát ra từ một chiếc radio cũ. Một bài hát từ chương trình ca nhạc mừng Xuân theo yêu cầu thính giá của đài phát thanh quốc gia:

Khi gió đồng ngát thơm rợp trời chim én lượn

Cây nẩy đầy chồi xanh mây trắng bay yên lành

CHIM ÉN

 Camehl, Ada Walker

Ai mà không biết và yêu mến chú én nhỏ thân thiện? Mỗi năm sau một thời gian dài vắng bóng ở vùng đất ấm áp phía Nam, nàng lại đến với chúng tôi với ánh nắng và hoa, và nàng vui vẻ kể cho chúng tôi nghe rằng:

Mùa xuân đang đến

Có khoảng bảy mươi loài chim én rải rác trên toàn thế giới, nhưng chỉ có năm loài trong số này được tìm thấy ở Hoa Kỳ và sáu loài ở Châu Âu. Loài chim én mà câu chuyện chúng tôi kể trong những trang viết này là loài chúng tôi thường gặp, ngôi nhà mùa hè của nó nằm dưới mái hiên nhà kho và nhà phụ của chúng tôi.

Ở châu Âu, nó được gọi là én nhà hay én ống khói, và ở đó nó làm tổ không chỉ trong các nhà kho và những tòa nhà đổ nát, mà còn trong các ống khói, và đôi khi thậm chí bên trong những ngôi nhà đá thô sơ của nông dân, hoặc ở  những nông trang vùng nông thôn.

Én có thân hình duyên dáng và xinh đẹp. Lưng của nó có màu đen và sáng bóng, phản chiếu màu tím đậm; cổ họng và ngực lại nhuốm màu đỏ xỉn. Đôi cánh của nó dài và nhọn, đuôi chia đôi, móng vuốt rất ngắn và yếu, đôi mắt nhỏ, đen rực rỡ và rất nhạy bén khi theo dõi một con côn trùng ở khoảng cách xa. Nó hầu như luôn bay và lao đi rất nhanh một cách duyên dáng. Thức ăn có thể là những con côn trùng mà nó bắt được trên không.

Khi thiên nhiên u ám thức giấc vào mùa xuân, rồi đàn chim én bay về nơi chúng đã rời đi từ nhiều tháng trước. Làm thế nào để chúng vượt qua khoảng cách xa từ ngôi nhà mùa đông của chúng? Những hướng dẫn nào dẫn lối chúng? Dấu hiệu nào chỉ đường cho cuộc hành trình dài?

Không ai biết. Chưa có ai có thể khám phá một cách chắc chắn.Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là – chúng đã ra đi và chúng đã trở về. Chúng đã ở đâu ? Chúng đã ở dưới những bầu trời khác, ở những vùng đất xa xôi, nơi những ngày nắng đã chuyển thành những đêm đầy sao, và những buổi bình minh hồng thắm  đã biến thành những buổi hoàng hôn rực vàng.

Thiên nhiên đã ban tặng cho chúng những nụ cười của ánh nắng, thức ăn dồi dào, những phước lành mà chúng đã phải từ bỏ trong xa cách bởi nỗi khao khát về tổ ấm cũ và niềm vui nuôi con cái.Người ta từng cho rằng chim én có thể bay rất xa trên biển mà không cần dừng lại để nghỉ ngơi.

Nhưng sự nghỉ ngơi là cần thiết đối với chúng, và thỉnh thoảng chúng dừng lại trên những ngọn hải đăng hoặc trên những cánh buồm và dây buộc của những con tàu, khi chúng buộc phải vượt qua những vùng biển dài. Mặc dù đường đi của chúng có thể là một đường thẳng, nhưng thực tế thì không như vậy, vì nhu cầu kiếm được thức ăn khiến chúng đột ngột dừng chuyến bay và rẽ hướng này hướng kia, khi chúng theo dõi côn trùng ở một khoảng cách xa để tìm kiếm thức ăn.

Chúng lao sang phải và sang trái để đuổi theo con mồi, và điều đó khiến cuộc hành trình của chúng kéo dài hơn nhiều. Không phải tất cả chúng đều có thể chịu đựng được sự mệt mỏi khủng khiếp của chuyến bay. Nhiều con sẽ mãi phải dừng lại. Chỉ những con khỏe nhất và mạnh nhất mới tới được những nơi làm tổ quen thuộc cũ.

Những con én quay trở lại quê hương thường thấy rằng những cơn bão mùa đông đã tàn phá ngôi nhà của chúng; nhưng nếu bất kỳ tổ nào của chúng bị hư hỏng hoặc bị phá hủy, chúng sẽ nhanh chóng sửa chữa hoặc xây lại. Sau đó, sau cuộc hành trình mệt mỏi và việc xây dựng tổ ấm, hãy theo dõi sự tán tỉnh của những đôi vợ chồng và cảnh quây quần ngọt ngào với đàn con. Và chẳng mấy chốc không khí ấm áp của mùa xuân thơm ngát hương hoa, sống động với những người hành hương nhỏ bé bận rộn, hân hoan với những câu chuyện vui vẻ và bài hát thoáng qua của chúng.

Những chiếc tổ mà loài chim én này xây dựng là những tác phẩm nghệ thuật gây tò mò. Bên ngoài làm bằng bùn, mà én đã lấy từ ao hay bờ sông nào đó, và với bùn chúng trộn lông và rơm để giữ chúng lại với nhau. Bên trong chúng lót những chiếc lá và lông mềm mại. Có hai đợt đẻ trứng mỗi năm, đợt đầu tiên có năm hoặc sáu quả trứng, đợt thứ hai có ba quả.

Trứng có màu trắng, lốm đốm những đốm đỏ xỉn. Chúng đặt tổ của chúng, không phải riêng lẻ trên ngọn cây lẻ loi nào đó như nhiều loài chim khác, mà nằm cạnh tổ của những người bạn đồng hành của chúng thành một dãy nhỏ dưới mái hiên nhà kho của chúng tôi, hoặc dọc theo các thanh xà ngay dưới mái nhà.

Ở một số vùng đất ở Nam Âu, loài chim nhỏ hòa đồng này được phép làm tổ ở cửa sổ các ngôi nhà và trong các kẽ hở của mái ngói. Ở phương Đông, đôi khi nó còn đặt tổ bên trong cửa, và làm như vậy, như người ta tin, nó mang lại may mắn cho những người sống bên trong. Những du khách ở vùng đất phía Đông đó đã mang về những câu chuyện kỳ ​​lạ minh họa cho thói quen hòa đồng này của loài chim én, một trong những câu chuyện kỳ ​​lạ nhất là câu chuyện của một người Pháp nổi tiếng, người đã đến thăm châu Á vào năm 1844. Đây là những gì ông đã viết: —

Chim én có rất nhiều tình yêu dành cho con người và rất tin tưởng vào họ đến nỗi  không chỉ sống trong mái vòm của cung điện và trong hiên nhà của con người, mà nó còn thâm nhập vào cả phòng ngủ, thậm chí còn cả trên giường nữa. Điều này chính tôi đã thấy nhiều lần, ở thành phố cũng như ở nông thôn, nhưng thường xuyên hơn là ở nông thôn.

 

Tôi thấy những người tốt đó, được tạo vật được chọn của Chúa nhân lành đến thăm, chăm sóc chu đáo xung quanh các gia đình chim, mở cửa sổ vào buổi sáng để cho chim bố mẹ ra ngoài kiếm thức ăn, chịu đựng sự bẩn thỉu mà chúng tạo ra trong phòng, trên đồ nội thất và khăn trải giường, đồng thời dành hàng giờ cùng nhau quan sát và chỉ cho người khác hoạt động của những con chim già, số lượng chim non và sự tiến bộ trong học tập của chúng. Và những gì tôi thấy diễn ra khắp nơi ở đây.

Bây giờ chúng ta hãy quan sát những chú chim én con. Bốn hoặc năm cái đầu nhỏ đang ló ra khỏi rìa tổ, trong khi tiếng hót líu lo sôi nổi từ tất cả các cổ họng nhỏ hòa vào nhau thông báo sự xuất hiện của chim bố hoặc chim mẹ. Chim bố mẹ thận trọng đến gần, ríu rít một cách đầy hài lòng trong lúc đó và kẹp  thức ăn nơi mỏ.

Nó bay đến rìa tổ, dừng lại ở đó và thả miếng ăn vào miệng đang há của đứa con đầu tiên, chú chim này sau khi nhận được phần của mình sẽ dành thời gian nhấm nháp, trong khi bố mẹ yêu thương cẩn thận nhặt hết những mảnh vụn còn sót lại trong tổ, bay một khoảng xa và thả chúng xuống đất.

Sau đó nó bỏ đi để tìm kiếm thêm thức ăn. Sau một lúc, nó quay lại và lặp lại cảnh như trên với đứa con thứ hai, với đứa thứ ba, v.v. cho đến đứa con cuối cùng. Sau đó, nó bắt đầu lại với đứa đầu tiên và tiếp tục cho đến khi tất cả đều hài lòng. Cứ như vậy hàng ngày từ sáng đến tối, cho đến khi những con non cuối cùng có thể tự kiếm ăn.

Sau đó bắt đầu một đợt huấn luyện khác – chim non được dạy bay. Chúng ta cũng hãy nhìn vào đây. Chúng ta thấy cả hai con chim già đang dạy bài học này cho con non của chúng. Hãy chú ý cách chúng cổ vũ học sinh bằng giọng nói của mình; cách chúng đưa thức ăn cho những đứa con cách xa một chút, sau đó từ từ di chuyển nó ra xa hơn khi lũ trẻ đến gần để lấy; chúng đẩy những đứa con non nớt ra khỏi tổ một cách nhẹ nhàng và lo lắng biết bao; cách chúng chơi đùa trên không trung để khuyến khích lũ trẻ mà luôn có sự giúp đỡ ở bên cạnh; và cuối cùng, cách chúng tiếp tục bài học với lối trò chuyện đầy biểu cảm giống như những lời vuốt ve, khuyến khích, khiển trách và vỗ tay cùng một lúc.

Khi mùa hè trở nên ấm áp, những vị khách nhỏ của chúng tôi, những người không thích cái nóng gay gắt cũng như cái lạnh khắc nghiệt, sẽ cất lên những nốt nhạc vui tươi đầu tiên vào lúc bình minh khi mọi con chim lông vũ biết hót khác đều im lặng.

Chúng rời bỏ tổ ấm của mình và bay lên không gian vô tận của thiên đường; Chúng lao xuống với sự vội vã chóng mặt; chúng quay cuồng ; chúng bay lên ; chúng lướt qua những đám cỏ thấp và mặt nước sáng bóng của hồ hoặc suối; và với những tiếng kêu ồn ào, chúng gặp nhau, chúng tách ra, chúng phóng đi – rồi quay lại gặp nhau, mười, hai mươi, một trăm lần – – lúc xuất hiện, lúc biến mất như’ tia chớp.

Chúng phát ra những tiếng kêu chói tai khi xoay tròn và bay lên, và nếu chúng dừng lại một lúc, thiếu kiên nhẫn của sự nghỉ ngơi, thì tiếng rung của chúng nghe giống như những câu hỏi và câu trả lời trong một cuộc trò chuyện nhanh.

Chim én, ngoài việc đối xử tốt với con người, còn cư xử tử tế với nhau. Nếu một trong số chúng bị thương, chẳng có lý do gì để một mình nó chịu đau khổ. Nhiều sự việc có thể được kể lại để minh họa cho đức tính tốt này. Chúng tôi chỉ kể lại một câu chuyện về một con én bị thương trên đường phố Paris. Đây là những gì một nhân chứng kể: –

Một con én, do một tai nạn nào đó, tôi không biết là gì, một ngày nọ, bị mắc chân vào một sợi dây thừng kéo căng đến mái hiên của một trong những tòa nhà công cộng. Nó đã cố gắng tự giải thoát và sau đó kiệt sức, treo mình trên sợi dây, kêu la ầm ĩ, thỉnh thoảng lại vùng vẫy và cố gắng trốn thoát một cách vô ích. Tất cả những con én xung quanh, số lượng lên đến hàng nghìn con, đã tụ tập quanh nó.

Chúng tạo thành một đám mây dày đặc, và chúng  kêu rền rĩ lên vì hoảng hốt và xót thương. Sau một lúc, chúng dường như tổ chức một cuộc bàn luận ồn ào và một trong số chúng rõ ràng đã nghĩ ra kế hoạch giải thoát cho người bạn đồng hành của mình và công bố điều đó cho những người khác.

Ngay lập tức chúng bắt tay vào việc. Hết con này đến con khác bay nhanh đến nút thắt và dùng mỏ của nó đập vào chỗ đó. Khoảng nửa giờ sau, sợi dây bị đứt và tù nhân được thả. Những con én vẫn ở lại nơi đó cho đến tối. bay vòng quanh và ríu rít như thể đang tự chúc mừng sự thành công của mình.

Mùa hè trôi qua, cuối cùng những chú chim nhỏ hiền lành mà chúng tôi yêu quý cũng chuẩn bị ra đi. Trên nóc nhà, dưới mái hiên, trên tường, hàng rào, giữa ruộng mía, ven suối, trên dây điện báo, chúng tụ tập thành từng đàn lớn, không ngừng ríu rít, ríu rít.

Chúng đang nói gì? Chắc chắn chúng đang nói về cuộc hành trình sắp tới, và những chú chim lớn hơn đang hướng dẫn những chú nhỏ hơn về điều đó. Nếu chúng ta có thể hiểu được ngôn ngữ của loài chim thì lúc này chúng ta có thể biết được chúng đi đâu, những nguy hiểm bủa vây chúng và những khó khăn chúng phải chịu đựng.

Sau nhiều cuộc trò chuyện ồn ào, cuối cùng chúng cũng sẵn sàng bắt đầu. Tín hiệu được đưa ra – chú chim đầu tiên, rồi đến chú khác, mười, một trăm, một đội quân, bay lên không trung và vòng quanh như thể định hướng. Sau đó, chúng khởi hành với một khối lượng nhỏ và nhanh chóng biến mất trong đám mây đen.

Suốt mùa hè dài những vị khách nhỏ bé vui vẻ này đã ở với chúng ta, làm sống động những cái bóng mát mẻ quanh những ngôi nhà, chuồng trại, những tượng đài công cộng, những nơi ở quê hương của chúng ta – – và bây giờ chúng đi đến những vùng ” nơi không bao giờ có tuyết, nơi mà đất không bao giờ bị sương giá làm cứng lại.”

Những con én của chúng tôi đi đến các quốc gia phía bắc Nam Mỹ và các hòn đảo xung quanh vùng biển nhiệt đới. Những con én của châu Âu bay về phía nam đến các di tích của Ai Cập và những ngọn tháp của các nhà thờ Hồi giáo ở châu Á.

Khi nghe giai điệu quen thuộc của “Mùa chim én bay” vang lên từ chiếc casset từ gian khách bên ngoài:

Em là cánh én mỏng chao xuống giữa đời anh

Cho lòng anh xao động thành mùa xuân ngọt lành

 cũng là lúc mình tỉnh giắc. Mở mắt trong chăn ấm nệm êm nhưng đã chẳng thấy bà ngoại đâu nữa

-Bà đi chợ rồi hả ông ?

Từ giường bà trong buồng mình hỏi vọng ra

-Bà con đi lâu rồi, chắc giờ cũng đã ra đến chợ. Con cứ ngủ đi, vẫn còn sớm lắm

Nhưng đã tỉnh giấc rồi thì không ngủ lại được nữa. Mình nghe tiếng ông lẩm nhẩm theo giọng cô ca sĩ trên đài phát thanh

Én về én lại xa mùa xuân không ở lại

Bên anh em gần mãi nên đời vẫn đời vẫn xuân trào

“Mùa chim én bay” cùng với “Mùa xuân nho nhỏ”, “Làng lúa làng hoa”, “Mùa xuân bên cửa sổ”….là những ca khúc Xuân gắn liến với thế hệ 8X đời đầu (và kể cả lứa 6X, 7X). Cho đến bây giờ, sau bao nhiêu năm, và đầu cũng đã lốm đốm hai thứ tóc nhưng không năm nào những ngày Tết mà mình không mở nghe. Đến mức mà con mình nó cũng thuộc luôn dù cho con không thích (kiểu bị ép phải nghe ý :)).

Bài hát trên được sáng tác bởi nhạc sĩ Hoàng Hiệp, một người con tài hoa của vùng đất vựa lúa An Giang. Nhiều tác phẩm của ông mình rất yêu thích và thuộc nằm lòng. Ngoài “Mùa chim én bay” thì “Nhớ về Hà Nội” là hai ca khúc được những người con Miền Bắc xa quê như mình hay chọn để nghe khi Tết đến Xuân về.

Mình nằm trong giường bà nghe ca sĩ Ngọc Điệp hát đến câu cuối cùng thì thấy không gian xung quanh yên ắng quá. Biết ông đã uống trà xong và giờ này chắc chắn đang ở ngoài vườn nên mình cũng chẳng muốn nằm ì vô dụng nữa.

Lấy hết can đảm chống chọi lại với cái lạnh (đặc quyền của tuổi trẻ các bạn nhỉ, đó là ngủ khỏe như trâu) mình tung chăn và bật dậy lao ra hiên nhà. Và đúng như mình dự đoán, từ bậc thềm trên cao mình thấy ông đang lúi húi dưới vườn. Ông mình cũng là kiểu người chẳng ngồi yên bao giờ, lúc nào cũng phải tìm việc để làm, luôn bận rộn từ sáng tới tối.

Chả rửa mặt, vệ sinh vệ siếc gì ráo chọi :)) mình háo hức lao xuống con dốc hướng tới khu vườn của ông.

Sáng sớm, sương mù giăng mờ mịt. Nhưng đã nghe tiếng chim  líu lo trên cành khế ngay ngõ ra vườn.

Mùa xuân đã đến thật rồi!

CHIM ÉN

 Camehl, Ada Walker

2.

Con én gắn liền với rất nhiều truyền thuyết đến nỗi từ chúng có thể hình thành nên một chu kỳ thực sự, tất cả đều là “Tại sao”. Tai sao giai điệu của chim én lại buồn? Tại sao nó lại có vẻ ngoài màu đen? Tại sao nó lại có một cái đuôi chẻ đôi? Tại sao ngực nó lại có màu đỏ? Tại sao nó lại kêu mà không hát? Tại sao nó sống ở vùng khí hậu ấm áp? Tại sao nó xây tổ của mình trong những cửa sổ? Tại sao con én thoải mái đi lại mà không bị cản trở ? Tại sao nó lại có phước thế? Tại sao nó lại có thể chung sống với con người? Tại sao các công chúa phương Bắc lại đi tìm chim én? Tại sao chim én lại vượt trội hơn các loài chim và động vật khác?

Chúng ta hãy cùng nhau đi tìm câu trả lời

Nhưng trước tiên, chúng ta phải lưu ý đến ba truyền thuyết, từ những đất nước xa xôi, kể cho chúng ta nghe loài én xuất hiện trên trái đất như thế nào. Truyền thuyết lâu đời nhất, quan trọng nhất trong lịch sử loài chim én, đến với chúng ta từ vùng đất Hy Lạp cổ đại, và có nguồn gốc từ thời kỳ khi các vị thần và nữ thần sinh sống trên sườn núi xanh của Hellas, và khi truyện ngụ ngôn được kể lại để giải thích những bí ẩn của thế giới tự nhiên.

CÂU CHUYỆN THEO TRUYỀN THUYẾT HY LẠP

Ngày xửa ngày xưa, Pandion, Vua của Athens, có hai cô con gái tên là Procne và Philomela mà ông hết mực yêu thương. Ông gả cô con gái Procne cho Tereus, Vua xứ Thrace, người đã đưa cô về quê hương của mình. Nhiều năm cuộc sống hôn nhân hạnh phúc đã trôi qua đối với Procne, nhưng cô vẫn luôn giữ trong lòng ký ức về người em thân yêu Philomela và hy vọng một ngày nào đó sẽ gặp lại em gái. Cuối cùng, khuất phục trước nỗi khao khát của mình, Procne yêu cầu chồng đi Athens và đưa em gái về thăm.

Tereus ngay lập tức lên đường, và khi đến Athens, anh cầu xin vị vua già Pandion cho phép Philomela đi cùng anh về quê hương ở miền bắc. Sau nhiều lần thuyết phục, Pandion đồng ý và Tereus lên đường ra biển cùng cô gái trẻ. Trong chuyến hành trình, anh đem lòng yêu cô em dâu xinh đẹp nhưng đổi lại cô chỉ khinh thường tình cảm của anh. Sau đó, thay vì đưa cô đến gặp chị gái, Tereus lại dẫn Philomela đến một vùng xa xôi trong vương quốc của mình và ở đó anh giam giữ cô trong nhiều tháng.

Cuối cùng, vị vua trở về gặp vợ một mình và kể rằng cha cô đã từ chối cho phép em gái cô trở về cùng. Philomela bất hạnh đã trải qua một cuộc sống khốn khổ ở nơi Tereus đã giam giữ cô, và tìm cách giải thoát mình khỏi nhà tù dù vô ích. Cuối cùng, cô đã tìm ra cách để gửi lời tới chị gái mình. Cô thêu lên chiếc peplos, hay chiếc áo choàng bằng vải lanh, câu chuyện về sự bất hạnh của mình và gửi chiếc áo choàng đến Procne.

Khi nhận được bộ quần áo, Procne đã đọc câu chuyện và lợi dụng một bữa tiệc công cộng để tôn vinh thần Bacchus, cô giả vờ rằng mình bị điên, đi ra ngoài bức tường thành và vội vã đến gặp em gái mình. Cô tìm thấy Philomela trong nhà tù, giải thoát cho em gái và ngay lập tức đưa cô em về nhà trong cung điện hoàng gia Tereus.

Kể từ ngày đó, hai chị em chỉ nghĩ đến việc trả thù cho hành động tàn ác đó và họ tìm ra cách trả thù khủng khiếp đến mức gần như không thể tin được. Procne có một cậu con trai nhỏ tên là Itys. Hai chị em quyết tâm giết cậu bé. Ngay khi phát hiện ra âm mưu, Tereus đã lấy một chiếc rìu và truy đuổi hai chị em để giết họ. Khi anh ta đến gần họ, họ cầu nguyện các vị thần biến họ thành chim. Procne ngay lập tức trở thành chim sơn ca và Philomela trở thành chim én. Tereus cũng bị biến thành diều hâu chuyên đi săn các loài chim khác.

Bằng cách này, người Hy Lạp đã đưa ra giả thuyết về nguồn gốc của chim én và chim sơn ca. Trong những thế kỷ sau, các nhà thơ Latinh ở Rome (Horace, Vergil và những người còn lại) thường nhắc đến truyền thuyết này. Đôi khi họ hát về Procne như một con chim sơn ca, như trong phiên bản gốc tiếng Hy Lạp, nhưng thường thì họ đảo ngược phần kết của truyền thuyết và gọi cô ấy là chim én và Philomela là chim sơn ca.

Do đó, Horace, trong bài thơ Ode to Vergil, trong đó ông mời nhà thơ đến thăm trang trại Sabine của mình, đảm bảo với Vergil rằng thời tiết dễ chịu đã đến bằng cách nói rằng “Những cơn gió Thracian, những người bạn đồng hành của mùa xuân ‘ đang thổi, và ” Con chim bất hạnh, than khóc cho Itys ‘ đang xây tổ.

Các nhà thơ của Anh và Mỹ theo phiên bản Latin của truyền thuyết trong việc họ thường xuyên đề cập đến hai loài chim yêu thích này, và khi họ hát về “Philomel buồn” hoặc về “Santa Filomela” thì họ muốn nói đến chim sơn ca.Vì sao nốt nhạc chim én lại buồn? Nếu bạn lắng nghe tiếng chim én khi nó đứng một mình trên xà nhà, bạn sẽ nghe thấy nó nói đi nói lại với chính mình: “Itys, Itys, Itys.”

Chẳng phải Procne tội nghiệp đang kêu goik và đau buồn cho đứa con trai bé bỏng của mình sao? Và con chim sơn ca, Philomela buồn bã, khi hót líu lo vào buổi tối trên những ngọn cây ở miền nam châu Âu, chẳng phải nó đã cất vào bài hát của mình những tiếng nức nở thực sự của tang tóc sao?

Những nốt nhạc buồn của chú chim này đã nhiều lần được các nhà văn vĩ đại nhất của chúng ta hiểu là biểu hiện của sự đau buồn. Nếu chúng ta nhìn vào Sách Tiên tri Isaia, chúng ta thấy rằng ông ví tiếng kêu của mình với tiếng chim én: “Như chim sếu hay chim én, tôi cũng kêu”.

Dante bắt được trong nốt nhạc của con én âm vang của tiếng than khóc xa xăm, và ông đã truyền nó cho chúng ta bằng những dòng tinh tế mà ông mở đầu mô tả về sự thức tỉnh của mình trong Thung lũng hoa trên Núi Luyện ngục:

-Đúng lúc giấc ngủ buồn bã của cô bắt đầu, chim én nhỏ, gần sáng, có lẽ để nhớ về những nỗi đau trước đây

 Nhưng câu chuyện Hy Lạp ngoại giáo cổ xưa này không đủ đối với người dân thời sau, khi họ mong muốn kể lại nguồn gốc của loài chim yêu thích của họ.

Những người sùng đạo ở Tây Ban Nha kể lại truyền thuyết hay sau đây, trong đó cậu bé Jesus được cho là đã tự tay mình tạo ra những con én đầu tiên :

CÂU CHUYỆN THEO TRUYỀN THUYẾT  TÂY BAN NHA

Đó là vào một ngày thứ Bảy, Chúa Giêsu, khi đó còn là một cậu bé, đi chơi với những người bạn của mình, giống như chính Ngài. Cậu lấy một ít đất sét trắng và dùng nó để tạo ra những chú chim nhỏ với đôi cánh xòe rộng, rồi đem phơi chúng dưới nắng cho khô.

Sau đó có một người Pha-ri-si đi ngang qua và tức giận khi thấy bọn trẻ làm việc vào thứ bảy, ngày đó là  ngày Sa-bát của người Do Thái; và ông bắt đầu tàn sát và tiêu diệt những con chim đất sét nhỏ đó.

Nhưng Chúa Giêsu đã vỗ đôi bàn tay bé nhỏ của mình và những con chim lập tức cất cánh bay đi. Sau đó, trên ngôi nhà của Hài nhi Giêsu, với cùng một loại đất sét mà chúng đã được làm ra, chim én bắt đầu xây tổ trên hiên của mái ngói. Và từ ngày đó đến nay, chúng tiếp tục xây dựng ngôi nhà của mình trên những ngôi nhà nhỏ khiêm tốn của người nghèo và mang lại cho họ bình an và may mắn.

Khi Chúa Giêsu sắp bị đóng đinh trên đồi Can-vê, những con én nhỏ phiền muộn đi theo Người cùng với các phụ nữ thánh thiện, và khi Người bị treo trên cây thánh giá, họ đã rút những chiếc gai ra khỏi vương miện trên trán Người, thứ đã đâm vào đầu thiêng liêng của Người.

Khi Chúa Giêsu chết, những con chim én ngay lập tức để tang, che mình bằng một chiếc áo choàng đen mà chúng vẫn mặc cho đến ngày nay.

Và ở Tây Ban Nha, người ta hát một câu đối nhỏ để tưởng nhớ nghi lễ sùng đạo này, như sau:

-Trên núi Can-vê, Những con nhạn thương xót, rút ra mười ngàn chiếc gai từ Đấng Christ tội nghiệp, đau khổ.

Truyền thuyết thứ ba của chúng ta liên quan đến nguồn gốc của chim én đến từ các bộ lạc người da đỏ Navaho. Trong đó, chúng ta thấy những con chim én, trước khi đến trái đất, chiếm giữ một trong những thiên đường thường xuất hiện trong truyền thống Ấn Độ.

CÂU CHUYỆN THEO TRUYỀN THUYẾT NAVAHO

Họ bay vòng tròn lên cao cho đến khi chạm tới bầu trời. Nó thật êm ả. Họ nhìn xuống; nhưng ở đó nước đã dâng lên và chẳng có gì khác ngoài nước. Khi họ bay vòng quanh, có một con có cái đầu màu xanh thò đầu từ trên trời xuống nói với chúng rằng: “Ở đó, về phía đông, có một cái hang”.

Họ bước vào cái hang và đi xuyên qua nó để lên bề mặt của thế giới thứ hai. Cái hang màu xanh thuộc về Người Én. Người Én sống ở đó. Rất nhiều ngôi nhà của họ, thô sơ và gồ ghề, nằm rải rác khắp nơi. Mỗi cái thon dần về phía trên và ở phần đó có một lỗ để vào. Rất nhiều người đến gần và tụ tập xung quanh những người lạ, nhưng họ không nói gì.

Thế giới đầu tiên có màu đỏ; thế giới thứ hai mà con người hiện đang bước vào có màu xanh lam. Họ cử hai người đưa tin, một Châu chấu và một Châu chấu trắng, đến phía đông để khám phá vùng đất và xem liệu ở đó có người nào giống mình không.

Sau hai ngày, những người đưa tin quay lại và nói rằng trong một ngày đi đường họ đã đến được rìa thế giới – đỉnh của một vách đá lớn nhô lên từ vực thẳm mà họ không thể nhìn thấy đáy; nhưng họ không tìm thấy trong suốt cuộc hành trình không có người của mình, không có bất kỳ loại động vật nào, không có cây cối, không có cỏ, không có cây ngải đắng, không có núi non, không có gì ngoài mặt đất bằng phẳng.

Sau đó, những người đưa tin tương tự lần lượt được phái đi về phía nam, phía tây và phía bắc. Họ mất hai ngày để đi mỗi cuộc hành trình, và khi trở về họ kể lại, như trước, rằng họ đã đến rìa thế giới, và không phát hiện được gì ngoài một vùng đất hoang không có người ở. Tại đây, những người lạ thấy mình đang ở giữa một đồng bằng rộng lớn cằn cỗi, nơi không có thức ăn cũng như không có người thân.

Khi những người đưa tin từ phương bắc trở về, những con én đến thăm trại của những người mới đến và hỏi họ tại sao lại gửi quân về phía đông.

“Chúng tôi cử họ đi,” người đó trả lời, “để xem trên mặt đất có gì, và để xem có người nào giống như chúng tôi ở đây không.”

“Và những người đưa tin của bạn đã nói gì với bạn?” những con én hỏi.

“Họ nói với chúng tôi rằng họ đã đến tận cùng thế giới nhưng không tìm thấy thực vật và sinh vật nào trên mặt đất.”

(Những câu hỏi tương tự đã được đặt ra và những câu trả lời tương tự được đưa ra cho các điểm khác của la bàn.)

“Họ đã nói sự thật,” Người Én nói. “ Nếu ngay từ đầu bạn hỏi chúng tôi vùng đất này chứa gì, chúng tôi sẽ nói cho bạn biết và giúp bạn tránh khỏi mọi rắc rối. Cho đến khi bạn đến, chưa có ai từng cư trú trên toàn bộ vùng đất này ngoại trừ chúng tôi.”

Mọi người nói với chim én: “Các bạn hiểu tiếng chúng tôi và có nhiều thứ cũng giống chúng tôi. Các bạn có chân, bàn chân, thân, đầu, cánh như chúng tôi. Tại sao người của các bạn và người của chúng tôi không thể trở thành bạn bè?”

“Hãy để mọi chuyện như bạn muốn,” những con én nói, và cả hai bên ngay lập tức bắt đầu coi nhau như thành viên của một bộ tộc.

Họ trộn lẫn với nhau và xưng hô với nhau bằng những từ ngữ thân thiết, như anh trai, chị gái tôi, bố tôi, con trai tôi, v.v.

Tất cả họ đều sống hạnh phúc và vui vẻ bên nhau trong hai mươi ba ngày, nhưng vào ngày hai mươi tư, một trong những người lạ đã thô lỗ với vợ của Tù trưởng Én, và ngày hôm sau khi biết chuyện, Tù trưởng đã nói với những người lạ rằng: “Chúng tôi đã coi các bạn như bạn bè, và do đó các bạn đáp lại lòng tốt của chúng tôi. Chúng tôi không ngờ rằng vì những tội ác như vậy mà các bạn đã bị đuổi khỏi thế giới thấp hơn, và bây giờ các bạn phải rời bỏ nơi này. Đây là vùng đất của chúng tôi, và chúng tôi sẽ không để các bạn ở đây nữa. Hơn nữa, đây là một vùng đất xấu. Ở đây người ta đang chết mỗi ngày, và ngay cả khi chúng tôi tha thứ cho các bạn, các bạn cũng không thể sống ở đây lâu được.”

Châu chấu thi hành đầu tiên. Họ bay lên cao. Những người khác theo sau, tất cả đều bay lên và bay vòng tròn cho đến khi chạm tới bầu trời. 

Nhật ký Mountain,

Feb 08

Lẽ ra giờ này tôi đã đón Tết trên quê hương mình, vùng châu thổ Cửu Long trù phú nhưng một giai điệu bất chợt nào đó

Bên anh em gần mãi
Nên đời vẫn, đời vẫn xuân trào

đã níu bước chân tôi ở lại biên cương lạnh giá,  nơi địa đầu Tổ quốc thêm ít ngày.

“Mùa chim én bay” nghe cứ mang âm hưởng của dân ca Bắc Bộ dù cả phần nhạc và lời đều được viết bởi hai nghệ sĩ miền Tây Nam Bộ chính gốc.

Khi gió đồng thơm ngát
Hương lúa chín ngọt ngào
Rợp trời chim én liệng
Cho lòng anh nôn nao

Khi đọc những vần thơ của thi sĩ người Tiền Giang này, tôi không biết nơi tôi đang đứng có con chim én nào không. Vì tuy Xuân đã chạm đến cửa nhà, những căn nhà sàn, nhà đá cheo leo nơi vách núi, nhưng cái lạnh vẫn còn như tê tái lắm.

Băng tuyết vừa mới tan cuối tháng trước, trời hửng nắng được vài ngày. Nhưng như chợt nhớ ra rằng đã lâu cái Tết nơi miền biên ải này không cho người ta cảm giác được chạm tới sự ngọt ngào của kiểu rét ngọt quyến rũ. Nên để chiều lòng người, trong đó có người lữ khách phiêu bạt như tôi, bắt đầu từ tối qua bầu trời đã chuyển gió. Đóng đô ở đây đã được mấy tháng, tôi chợt nhận ra mình đã có thể trở thành một nhà khí tượng học (Ah, tôi cứ phải nhắc là tôi không phải anh thanh niên Sapa đâu nhá. Bằng chứng là tôi vẫn đang giữ cái khăn mùi soa trong túi áo đây thôi :)).

Cơn gió thoáng qua với cơn gió báo hiệu một kiểu thời tiết khác đang tới nó khác nhau lắm. Vậy là Tết con Rồng này tôi sẽ được thưởng thức một cái Tết với hơi lạnh đặc trưng của khí hậu miền Bắc, một cơ hội không phải lúc nào cũng gặp.

Chả phải đó cũng là điều may mắn sao? Khi cầu được, ước thấy?

Hiện tại tôi đã rất sẵn sàng  cho chuyến du Xuân “Xuôi vạn lý” hơn 2.000 km từ cột mốc số 0 vùng cao phía Bắc về đến đất Mũi Cà Mau.  

Tiếc là trong chuyến trở về này chỉ có một mình tôi, thằng bạn Charlie chẳng biết vì “viêm màng túi” hay vì nhớ nàng “Lý Chính Thất” nào đó mà đến nay căn bệnh lãng tai vẫn chưa có giấu hiệu thuyên giảm :))

Có khi mai tôi phải vào nhà thầy lang xóm nhà cô Mị nhờ thầy bốc một thang thuốc cho nó xem sao, biết đâu tình hình sẽ có chuyển biến khác :))

Còn giờ, ngọn lửa tỏa ra từ cái bếp củi đang cháy bập bùng đã sưởi ấm trái tim tôi và khiến tôi dù không phải là thi sĩ William, hay cũng không sinh ra từ cái đất ra ngõ gặp nhà thơ tình yêu thì cũng nổi hứng phải tìm “Thơ” mà đọc :))

Bạn đọc thử xem nhé, đây là bài thơ Haiku, loại thơ cực ngắn của Nhật Bản, cô đọng và hàm súc. Một bài thơ chỉ ba câu, mười bảy âm tiết (5-7-5) dài không quá mười hai, mười ba từ, không chấm câu, không đề.

Nhưng đọc thú vị lắm đấy!

1.

Khi con én bay tới bay lui,

Bóng của nó phủ xuống

Trên cánh cửa cũ

 

As the swallow flies to and fro,

Its shadow is cast

Upon the old door

Điều quan trọng nhất ở đây không phải là con én mà là cánh cửa. Những gì được cảm nhận là sự thờ ơ của cánh cửa, và càng được tăng theo tuổi tác của nó; nhưng khi điều này được nói ra, không chỉ sự thật này biến mất mà cả con én, cái bóng của nó và cánh cửa cũ nữa. Những gì nhìn thấy bằng mắt thì đã có thể thấy rồi; nhưng những gì được nhìn bằng con mắt thơ mộng là còn “được cảm”, tất cả sự sống nảy sinh từ chất liệu chết của chim và cánh cửa.

2.

Con én thả phân

Xuống bức tranh Otsu,

Rồi bay đi

The swallow makes a dropping

On the Otsu picture,

And flies off

Loại tranh này,  là một bức phác họa thô sơ, đủ rẻ để người nghèo có thể mua được, nhưng lại mang chút hương vị mộc mạc làm vui mắt vì sự tao nhã và cầu kỳ. Một số là hình các cô gái nhảy múa, một số là những con quỷ với đôi mắt rực sáng đang ngâm nga bài “nenbutsu”, một số là hình con cá da trơn và quả bầu.

Những thứ này được trải ra ven đường ở ngoại ô thị trấn để thu hút sự chú ý của những người dân quê đang trở về làng của họ. Trên những vết bẩn như vậy, phân của chim nhạn không phải là vấn đề đáng lo ngại. Có một đoạn thơ tương tự cũng của Buson

Phân của diều hâu

Mắc kẹt

Trên bông diên vĩ.

The kite’s droppings

Stuck

On the irises.

Nhưng đây hoàn toàn là một bức tranh có màu xanh lá cây, tím và trắng, tất cả mọi thứ đều được sử dụng một cách khách quan và không có thành kiến, như những màu sắc trong bảng màu của anh ấy.

3.

Bay vào qua mành tre

Con én đã được thuần hóa

Bởi cô gái xinh đẹp

Flying in by the bamboo-blind

The swallow is tame

With the beautiful girl

Một thứ đẹp đẽ là đã đủ, nhưng ở đây có những hai. Điều này làm chúng ta nhớ đến Davies:

Cầu vồng và bài hát của chim cúc cu

Có thể không bao giờ đến với nhau nữa

Có thể không bao giờ đến

Bên này mộ

A rainbow and a cuckoo’s song

May never come together again

May never come

This side the tomb

Nhưng trong thơ Nhật còn có một điều đẹp đẽ khác, đó là mối quan hệ bình dị, cổ tích giữa cô gái và chú chim.

4.

Bị khuấy động,

Con én bay ra

Khỏi căn phòng vàng

Agitatedly,

The swallow flies out

Of the chamber of gold

Bằng cách nào đó con én mắc sai lầm và lạc vào một căn phòng. Bối rối một chút, nó phóng ra khỏi phòng và tiếp tục lộ trình cũ. Tương phản với khung cảnh vàng rực rỡ, màu đen và trắng của hình ảnh con én rõ ràng nổi bật một cách táo bạo.

Những khoảnh khắc như vậy là những khoảnh khắc của cuộc sống đối với nhà thơ, kẻ có thể chộp lấy chúng từ thời gian; khi con én biến mất, không có cảm giác mất mát, không ước mong nó quay trở lại, chỉ còn tàn dư của cuộc đời đã trải qua giữa nhà thơ và con chim, một cuộc sống có màu sắc, hình thức cũng như sự tồn tại sống động.

5.

Phía sau dãy nhà kho,

Nơi con én

Bay lên bay xuống

Behind a line of warehouses,

Where the swallow

Fly up and down

Ở đây có sự tương phản giữa chuyển động và bất động, nhẹ nhàng và nặng nề, cởi mở và bí mật, thiên nhiên và con người. Trong những tia nắng chiều tà, đàn én nghiêng mình bay theo cùng một đường bay nhưng khác nhau đằng sau những nhà kho kiên cố, đen trắng xếp thành hàng dọc con đường. Điểm nhấn mang tính thơ nằm ở chữ “phía sau”. Cuộc sống của chúng, giống như cuộc sống của chúng ta, được sống trong một cõi đã biết nhưng lại là chưa biết; nó ở trong bóng râm, trong bóng tối, mặc dù có thể là ban ngày; nó ở “phía sau” chúng ta.

6.

Con én

Chao qua liệng lại;

Nó đã quên cái gì thế?

The swallow

Turns a somersault;

What has it forgotten ?

Bài này mô tả chuyến bay của con én, cách thức đặc biệt của nó là đột ngột quay đầu và trở lại. Sự hài hước và huyền ảo thể hiện rất khéo léo động tác của nó. Có một câu thơ tương tự về con chuồn chuồn ở Akinobo

Con chuồn chuồn,

Lao nhanh tới ngọn núi xa,

Rồi lại nhanh trở lại

The dragon-fly,

Swift to the distant mountain,

Swift to return

Bài này cũng sử dụng sự hài hước để thể hiện bản chất của loài vật. Hay đúng hơn là bản chất cơ bản của những thứ này và của tất cả mọi thứ là hài hước?

7.

Một con én

Bay ra khỏi mũi

Của Đức Phật vĩ đại

A swallow

Flew out of the nose

Of the Great Buddha

Tượng Phật vĩ đại này sẽ ở Nara, hay ở Kamakura.

Từ quan điểm thông thường và tương đối, chúng ta có sự tương phản giữa sự thần thánh và trần tục trong hình ảnh con én bay ra khỏi mũi của tượng Phật. Từ quan điểm tuyệt đối, dù con én bay ra từ Mũi Thánh của Đức Phật hay từ mái hiên nhà công cộng đều như nhau. Nhưng phạm vi của bài thơ này không phải là tương đối cũng không phải tuyệt đối. Nó ở trong chính cuộc sống, cuộc sống không phải là luật lệ hay số phận mà là cả hai.

Nếu bỏ lại cuộc nói chuyện trừu tượng vô nghĩa này, chúng ta tái hiện lại trải nghiệm thi ca của Issa, thì chúng ta cũng nhận được điều tương tự, chỉ được diễn đạt bằng những thuật ngữ dễ hiểu hơn. Issa cảm thấy con én bay đến bất cứ nơi nào mà đôi cánh của nó mang theo là sự bất công, nhưng nhận ra rằng hình ảnh đó không chỉ là một khối kim loại đơn thuần. Trên hết, anh ấy cảm thấy có một ý nghĩa nào đó trong cuộc xung đột giữa luật pháp và tự do này, một ý nghĩa sẽ cạn kiệt thành lời khi nó được giải thích.

Một câu thơ khác của Issa, thuộc về mùa đông, cũng minh họa sự kết hợp những điều trái ngược của ông, như sau:

Từ đầu mũi

Của Đức Phật trên đồng hoang,

Những giọt băng lơ lửng.

From the end of the nose

Of the Buddha on the moor,

Hang icicles.

8.

Chim én hót líu lo trong đêm;

Người dân của ngôi nhà

Đang xua đuổi con rắn.

The swallows twitter at night;

People of the cottage

Are striking at the snake.

Một con rắn đã bò đến gần tổ chim én, trong đó có trứng hoặc chim con. Chim bố mẹ bay ra kêu ríu rít, ồn ã quanh mái hiên. Những người trong nhà cầm đèn lồng và gậy gộc xông ra xua đuổi con rắn đang quằn quại cố gắng trốn thoát dọc mái hiên

9.

Ah, chim én buổi tối!

Lòng tôi đầy nỗi sợ hãi

Cho ngày mai

Ah, evening swallow!

My heart is full of fears

For the morrow

Bài này có lẽ có gì đó  của Burns

‘Làm sao các ngươi có thể ca hát,

hỡi những chú chim nhỏ,

Và tôi thực sự quan tâm?

How can ye chant,

ye little birds,

And I so fu’ o’ care?

Đó là Keats

‘‘Ta không phải ganh ngươi vì hạnh phúc,
Nhưng vui vì thấy ngươi quá hồn nhiên,

‘Tis not through envy of thy happy lot,

But being too happy in thine happiness

Thơ Haiku hay đấy chứ, bạn làm một bài mừng Xuân thử, kiểu như:

Chút chít

Tiếng chuột kêu

Trong đêm ba mươi tĩnh lặng

:)))

Wishing all of you a happy New Year!

February 8, 2024 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
Rose

Mùa chim én bay (1)

by Rose & Cactus February 5, 2024

Mình và con đều thích Văn học, văn chương và điện ảnh nói chung. Chúng mình đều say mê các câu chuyện cổ tích, như truyện cổ Grim hay Andersen lâu lâu lại lôi ra đọc lại. Và dù là đọc lại cũng vẫn thấy nó hay và đẹp như thuở ban đầu.

Hay như văn học Nga cũng thế, rất mê. Tuy vậy, nếu như con mình nó thích đọc kiểu như của Fyodor Dostoyevsky thì mình lại yêu Lev Tolstoy hơn, tất nhiên cả hai  đều là tượng đài rồi: Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Tại sao mình lại thích đọc cái tạng văn như vậy, như của Andersen hay Tolstoy, là bởi vì thiên nhiên ở trong mỗi tác phẩm ấy nó đẹp quá. Đẹp đến mức mà chỉ cần gấp sách vào thôi thì dù có nhắm mắt mình cũng có thể mường tượng được rằng mình đang đứng trong một khung cảnh như thế, với khu rừng ấy, mảnh vườn ấy với cây cỏ hoa lá như vầy, như vầy.

Và trong những áng văn như thơ ấy, thì không thể thiếu được cảnh sắc của mùa Xuân!

“Mùa xuân là mùa của những kế hoạch và dự định”

Xuân về hơi muộn.

Trong những tuần lễ cuối mùa chay, trời lạnh và quang đãng. Ban ngày, tuyết tan dưới ánh nắng nhưng đêm lại xuống tới bảy độ dưới không; băng phủ dày đến nỗi lấp cả đường xe đi. Khắp thôn làng trắng xoá trong ngày lễ Phục sinh.

Rồi tới hôm thứ hai của lễ Phục sinh, bỗng nhiên gió nóng nổi lên, mây kéo đầy trời và một trận mưa ấm áp ào ào đổ xuống suốt ba ngày ba đêm. Thứ năm, gió ngừng thổi, và một màn sương mù dày xám bao phủ mặt đất, như muốn che giấu những bí mật của sự biến đổi đang hoàn thành trong thiên nhiên.

 Giữa lớp sương mù, nước rẽ lối chảy, băng tan răng rắc và trôi về thượng lưu, những dòng thác ngầu bọt lại cuồn cuộn. Hôm thứ hai Quadimôđô 1, về chiều, sương mù tan dần, mây như đàn cừu tản đi dưới bầu trời quang đãng, mùa xuân thực sự hiện ra.

Sáng hôm sau, mặt trời chói lọi mọc lên lại nuốt nốt lớp băng mỏng phủ mặt nước và bầu không khí ấm áp rung rinh khắp nơi dưới luồn hơi bốc lên từ mặt đất hồi sinh.

Cỏ già năm ngoái xanh tốt lại, cỏ non năm nay như kim đâm tủa trên mặt đất; những chồi cây tuyết cầu, phúc bồn tử và bạch dương dính nháp, sực nức mùi hương, đều căng nhựa và quanh rặng liễu tắm nắng vàng tươi, đàn ong bị nhốt suốt mùa đông trong túp lều bằng cành cây, lại thoát ra, vo ve bay lộn.

Chim sơn ca không ai trông thấy tuôn tiếng hót trên đồng cỏ nhung tơ và ruộng rạ phủ băng, chim te te than vãn bên bờ những thung lũng và bãi lầy ngập nước lũ còn ứ đọng; tít trên cao, sếu và ngỗng trời bay qua cất tiếng kêu mừng mùa xuân.

Đàn súc vật trụi lông mới loáng thoáng mọc lại, rống lên chạy đến bãi cỏ, cừu non chân cẳng leo khoeo nhảy ton ton quanh đàn cừu mẹ đã gọt lông đang kêu be be; trẻ con thoăn thoắt chạy dọc những con đường nhỏ đang se dần vết chân không của chúng, tiếng phụ nữ rộn lên vui vẻ bên bờ đầm nơi họ đang giặt vải và tiếng rìu của nông dân đang chữa lại cày bừa, vang vang trong các sân nhà.

Mùa xuân thực sự đã về.

(Anna Karenina – Lev Tolstoy)

CÂU CHUYỆN MÙA XUÂN

 Annette Scheurich

1.

Khi thế giới Mùa đông biến mất và những tia nắng bắt đầu ló rạng, đó là sự khởi đầu của một mùa có quy luật riêng:

Mùa Xuân,

mà ánh sáng và sự ấm áp của nó thúc đẩy sự sinh sôi nảy nở.

Đó là thời điểm đòi hỏi phải cật lực lao động nhưng lại cung cấp một nguồn thức ăn dồi dào, bổ dưỡng. Có rất nhiều việc phải làm để đảm bảo cho các thế hệ tương lai và khiến thế giới nở hoa trở lại.

Màu sắc, mùi hương  và tiếng chim hót đã tạo nên một thế giới mùa xuân

LẬP XUÂN,

Lúc đầu hầu như không có gì đáng chú ý, đầu tháng ba, đêm vẫn còn sương giá và cây trơ trụi. Cái lạnh rơi rớt của mùa đông phảng phất trong không khí.

Nhưng những đàn chim về sớm báo hiệu một khởi đầu mới

Trên những cánh đồng và đồng cỏ vẫn còn trơ trụi sau mùa đông, những điều thú vị có thể thấy được gần như hiện hữu: Sau một mùa đông u ám dài đằng đẵng  không có nhiều dinh dưỡng và ít hoạt động thể chất, các loài động vật đang chuẩn bị cho một thế giới hoàn toàn khác.

Một thế giới tràn ngập ánh sáng ấm áp và chuyển động vui tươi.

Những tháng sắp tới sẽ khó khăn. Tập hợp năng lượng để phát triển và đảm bảo sự sinh sản của các loài, đó là những thách thức lớn của mùa xuân

Đồng cỏ và rừng sẽ sớm cung cấp nguồn thực phẩm dồi dào. Điều này sẽ thu hút các loài chim di cư trở về từ nơi trú đông của chúng

Đối với con người, đây cũng là thời điểm bắt đầu một thời kỳ sinh hoạt nhộn nhịp. Vào tháng Ba, họ phải chuẩn bị đồng ruộng cho việc gieo cấy.

Cá chim và chim sáo đá là những loài đầu tiên quay trở lại Trung Âu sau chuyến di cư đến phương Nam. Nơi trú đông của chúng nóng hơn và khô hơn và có nhiều sự cạnh tranh hơn về nguồn thức ăn

Trong khi đó, ở đây chúng có nguồn thức ăn dồi dào và dễ dàng làm tổ. Đối với hầu hết chúng, cuộc hành trình dài chắc chắn xứng đáng. Chúng thường bay thành đàn lớn trên những quãng đường dài.  Trong mùa sinh sản, chúng phân tán khắp vùng nông thôn, mỗi nơi chúng lại  lập đàn riêng của mình.

Thỏ là  loài khởi đầu sớm vào thời điểm tháng ba đến

Nhìn chung, thỏ rừng sống một mình, chỉ trong mùa giao phối, chúng mới  sẵn sàng tìm kiếm bạn đồng hành. Khi một cuộc đấu tranh bạo lực bùng phát, thông thường tất cả đều nhằm mục đích giành được sự chú ý của con cái. Suy cho cùng thì người chiến thắng có cơ hội tốt nhất để được làm cha. Hầu hết mọi nơi điều quan trọng nhất hiện tại là tìm bạn đời.

Hãy lắng nghe, màn tán tỉnh của chim gõ kiến ​​đốm bao gồm những thân cây rỗng tạo nên âm thanh tuyệt vời. Tuy vậy, chim cổ đỏ thích một bài hát có tính nhạc hơn,

Ánh sáng và độ ấm tăng lên khiến nhựa cây bắt đầu nhiều lên trong tất cả các loại cây.

Cây phỉ nở hoa rất sớm ngay cả trước khi hầu hết côn trùng bắt đầu vo ve xung quanh. Những bông hoa đực khoe lượng phấn hoa khổng lồ. Mặc dù hoa cái phát triển khá khác nhau nhưng chúng không cần phải dựa vào ong và côn trùng khác để thụ phấn.

Gió đã đảm nhận nhiệm vụ vận chuyển phấn hoa. Chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ để giải phóng những đám phấn hoa và mang nó đến những bông hoa cái, sau đó vụ thu hoạch hạt phỉ tiếp theo sẽ phát triển tốt đẹp

Trong số những loài thực vật có hoa đầu tiên xuất hiện vào tháng 3 có hoa pask và hoa nghệ tây. Chúng đã có đủ năng lượng trong rễ và củ được tích trữ từ năm trước và hiện tại chúng nằm trong số những loài đầu tiên báo hiệu Xuân tới. Hầu như chỉ sau một đêm những tấm thảm khổng lồ nghệ tây màu sắc đã xuất hiện.

Ngay khi trời đủ ấm, ong mật lộ diện và bắt đầu bay khắp các cánh đồng. Ban đầu, việc phối hợp vẫn còn một chút khó khăn. Nhưng chúng sẽ sớm bắt nhịp thôi!

Ruồi ong có một chiếc vòi dài dùng để thăm dò mật hoa một cách dễ dàng ngay cả ở những đài hoa sâu nhất như ở cây anh thảo.

Ánh nắng và hơi ấm giờ đây bắt đầu ru hoa nở khắp nơi

Những cành cây vẫn còn trơ trụi để ánh nắng, gần như không bị cản trở,  chiếu xuống mặt đất. Vô số bông tuyết mùa xuân và hải quỳ rừng phát triển nhờ những tia sáng mang lại sự sống đó

Sự nở hoa sớm của chúng rất quan trọng đối với ong vì đây là lúc ong cần phấn hoa giàu protein nhất để nuôi đàn con mới ra đời

Để đảm bảo sự tồn tại, đàn ong đã làm việc không mệt mỏi từ sáng đến tối.

Sông suối vẫn lạnh băng, nơi nào nước chảy trong veo là nơi chim hét làm nhà. Bộ lông như được bôi dầu bảo vệ nó khỏi cái lạnh và ẩm ướt, một thuộc tính rất hữu ích khi tìm kiếm thức ăn dưới nước.

Giống như chim sáo đá,  cá hồi  chỉ thích sống ở những dòng suối tự nhiên không bị pha trộn

Ở những khu vực yên tĩnh hơn, chuột xạ hương, có thể được cho là có nguồn gốc từ Mỹ,  và chỉ du nhập vào Đức trong thế kỷ trước. Nó có thể được nhận dạng rõ ràng nhờ cái đuôi dẹt ở một bên

Nhiều loài chim như chim hồng tước và chim hoàng yến xuống bờ suối uống nước

Suối là nguồn sống của rừng và chính ở đây, chim sáo nước đã dựng tổ của mình. Chim bố mẹ đang tha vật liệu về làm tổ. Mùa giao phối của chúng đã diễn ra vào mùa đông và giờ chúng đang bắt đầu lứa trứng đầu tiên

Một cặp sáo nước mất khoảng hai tuần để xây dựng tổ của chúng và hoàn thành với một chiếc lá đẹp được làm sạch kỹ lưỡng,  đóng vai trò là điểm nhấn cuối cùng cho tổ cũng như một chiếc giường mềm cho trứng

Nhưng dù khoang tổ có được xây dựng tốt thế nào thì đàn con cũng không thể ở đó mãi.

Một con chuột xạ hương đã chọn một địa điểm gần đó làm nơi ẩn náu. Nó hiếm khi rời khỏi chốn này vào ban ngày, không giống như loài sáo nước săn ấu trùng, côn trùng dọc theo bờ sông. Nhưng cải xoong tươi dường như có sức hấp dẫn không thể cưỡng lại, đủ để thu hút chuột xạ hương gặm nhấm nó giữa ban ngày.

Rừng vẫn chưa có màu xanh.

Đó không phải là vấn đề đối với  sóc. Nó vẫn đang sống nhờ vào nguồn thức ăn suốt từ mùa thu. Sóc xây tổ trên cao bằng cách sử dụng cành cây và rêu hoặc bên trong hốc trên thân cây.

Mùa giao phối của sóc bắt đầu từ tháng 1. Và muộn nhất đến tháng 3 hầu hết sóc cái mang thai và chuẩn bị cho quá trình sinh con. Chúng cần được nghỉ ngơi nhiều mặc dù bụng lớn khiến chúng khó tìm được tư thế thoải mái

Trong thế giới thực vật, khu rừng dường như chưa có vẻ đặc biệt của mùa xuân. Tuy nhiên, trong thế giới động vật đã có rất nhiều điều xảy ra. Hầu như tất cả Thỏ đều vào mùa sinh sản

Hầu hết cây cối sẽ trụi lá cho đến ít nhất là cuối tháng 3 và đây chính xác là nguyên nhân khiến mặt đất bên dưới phát triển mạnh mẽ

Hạt cây anh đào phát triển nhanh để đảm bảo chúng có chỗ dưới ánh nắng mặt trời. Hàng trăm cây con cố gắng vươn lên trước khi lá của cây mẹ che chúng đi

Ở những tầng trên của khu rừng, tất cả các loài chim đang tìm kiếm bạn tình, chim cổ đỏ là một trong những loài đầu tiên và ồn ào nhất, tiết mục của một anh chàng cổ đỏ đỏm dáng có thể bao gồm hơn 250 bài hát khác nhau. Tiếng chim hót chủ yếu nhằm mục đích gây ấn tượng với đối tác tiềm năng. Ở đây không phải về kích thước và sức mạnh mà là về giọng hát vượt trội. Buổi hòa nhạc của loài chim tiếp tục đến tận tối muộn

Ngay cả sau khi đàn sáo đã định cư trên cánh đồng, tiếng gọi tình yêu vẫn không ngừng vang vọng

Những gì xảy ra trong bóng tối thường không được chú ý , đó là lý do tại sao thỏ rừng thích nuôi dưỡng con của chúng trong bóng tối. Những con thỏ nhỏ xíu dành phần lớn thời gian một mình trong thế giới của chúng. Chúng nằm yên tuyệt đối để tránh bị kẻ thù tiềm năng phát hiện. Thỏ mẹ mỗi ngày chỉ về hai ba lần để cho con bú.

Bây giờ đêm không còn dài như hồi mùa đông,

XUÂN PHÂN,

vào ngày 20 tháng 3 là ngày bắt đầu của mùa xuân dương lịch (Với lịch Trung Hoa Xuân phân là giữa mùa Xuân)

Thời điểm nguy hiểm của ếch cỏ

Ngay khi thời tiết thích hợp, chúng bắt đầu chuyến đi về đêm đến nơi sinh sản của mình. Những con đực thường lựa chọn bạn tình và chúng cùng nhảy xuống nước. Không phải mọi cú nhảy xuống nước đầy tham vọng đều thành công

Chu kỳ sinh sản của ếch cỏ bắt đầu ở vùng nước nông. Mỗi con cái đẻ tới 4000 quả trứng nhỏ. Chúng phồng lên trong nước tạo thành một lớp vỏ protein trong suốt dạng sền sệt, giúp bảo vệ phôi nòng nọc đen bên trong.

Nhưng không chỉ là món ăn được ưa thích của những con gà nước, những con ếch được sinh ra còn là món ăn ưa thích của gà đầm lầy, chúng sẽ ăn bất cứ thứ gì từ bất kỳ nguồn thức ăn nào thuận tiện nhất

Bất cứ khi nào chim sâm cầm được thấy ở trong ao, nó sẽ biến thành một đấu trường  để chọn địa điểm ấp trứng tốt nhất

Loài vịt thích tránh mọi sự hỗn loạn. Một góc yên tĩnh và một thỏa thuận chung là điều chúng yêu thích. Một khi câu hỏi về địa điểm xung đột đã được giải quyết, các con sâm cầm giờ đây cũng có thể tập trung vào việc nhân giống của chúng.

Đôi khi, các cặp đôi phải mất một chút thời gian để giải quyết những khác biệt  nhưng khi nói đến việc xây tổ, tất cả đều có tinh thần đồng đội,

Những nhánh cây vững chắc tạo nên cái tổ tốt. Trong nhiều ngày, cả hai vợ chồng sâm cầm đều nỗ lực tạo ra một nền tảng vững chắc cho chiếc tổ nổi.

Vào thời điểm sinh sản, mọi thứ quanh ao trở nên yên tĩnh hơn.

Hôm qua nói chuyện với mẹ mình, mẹ bảo hôm nay là Lập xuân đó con, qua Tết là mẹ sẽ dâm cành trồng rau ngót và rau muống. Những loại rau củ của mùa Đông sẽ dần được thay thế!

Với những vùng đất có khí hậu bốn mùa thì rõ ràng là những cây trồng ngắn ngày chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của kiểu thời tiết và khí hậu. Ví như ngày xưa thời mình còn ở nhà thì những ngày này đố kiếm được ở đâu có rau muống hay một múi mít mà ăn. Đó là những loại rau hay trái cây của mùa Hè (bây giờ thì chắc là khác rồi do sự phát triển của logistic)

Bắt đầu từ thời điểm Lập xuân, thời tiết chuyển ấm áp và không còn rét buốt như tiết Đại hàn. Độ ẩm tăng mạnh, trời thường xuyên mưa phùn suốt cả ngày, rất thích hợp cho việc trồng trọt.

Nhà ông bà ngoại của mình trước đây ngay mảnh vườn trước cửa có một số loại cây ăn quả mà mình nhớ là: Bưởi, cam, na (mãng cầu), mít. Với cam và bưởi mình thấy ông mình nhân giống bằng cách chiết cành. Cành được chiết có thể ông mình trồng sang nơi khác trong vườn hoặc ông đem cho.

Hôm rồi mẹ mình kể nghe câu chuyện cảm động lắm: Mẹ có một vài người bạn thân. Một trong số đó là sếp cũ của mẹ mình. Bác là trưởng phòng cơ quan mẹ làm ngày xưa và từng là hàng xóm nhà ông ngoại mình. Nhưng khu vực nhà ông mình không được gần trung tâm lắm, đường đi vào quanh co lắt léo nên sau đó ai có điều kiện cũng tìm cách chuyển đi.

Nhà bác bạn thân của mẹ cũng chuyển ra gần nhà mình bây giờ nhưng bác vẫn duy trì mối quan hệ rất thân thiết với ông bà ngoại mình. Tết năm nào bác cũng vào thăm và có quà cho ông bà mình kể cả khi ông mình đã mất, chỉ còn bà. Ngược lại, suốt bao nhiêu năm nếu ra nhà mình chơi là kiểu gì ông cũng tạt té qua nhà bác một chút.

Vào một mùa xuân một năm nào đó chắc cũng gần ba mươi lăm rồi, ông mình chiết được hai cành bưởi giống rất đẹp và ông mang ra nhà bác, vào vườn và tận tay trồng. Hai cây bưởi xanh tốt và năm nào cũng cho quả trĩu trịt.

Năm vừa rồi vợ chồng hai bác kỷ  niệm 50 năm ngày cưới, mà chúng ta vẫn gọi là đám cưới kim cương ấy. Mẹ mình, và vài người bạn già thân thiết của bác gái (và cả bác trai), những người đã chơi với nhau tính đến nay cũng trên dưới 50 năm,  có tổ chức cho họ một bữa tiệc nho nhỏ tại nhà của hai bác vì bác trai mấy năm nay đã yếu không tiện ra nhà hàng. Họ cũng rất hay có các buổi tụ họp như thế kể từ khi về hưu

Thấy mẹ mình bảo, mẹ đi mua tặng hai bác một bó lay ơn trắng to đẹp, kiểu như trong đám cưới :)). Rồi cặp vợ chồng già còn ôm hoa chụp ảnh y như cái thời họ còn là những cô gái chàng trai đôi mươi nữa cơ. Ôi giời, bà cụ già rồi mà làm gì cũng lắm thủ tục lắm!

Và đó cũng là bữa tiệc cuối cùng mà bác trai còn được tham dự. Tuổi già và sức khỏe đã vừa mang bác đi về với thế giới khác, nơi có những người bạn của bác như ông mình, bà mình.

Những ngày này mẹ mình ở bên nhà bác bạn suốt để giúp bác làm cơm cho bác trai. Và mẹ bảo mỗi ngày ở nhà bác mẹ đều nhìn thấy hai cây bưởi ông ngoại mình trồng. Chúng vẫn đứng đó, bên nhau, mặc cho bao năm đã trôi qua và bao người đã không còn nữa.

Và những lúc như thế nỗi nhớ ông với bao kỷ niệm lại dâng tràn trong mẹ, nhất lại đúng những ngày gần Tết như thế này, nơi mỗi người đều hay bị đắm chìm vào những ký ức với những người thân yêu, dù là còn sống hay đã mất.

“Chị sẽ không bao giờ chặt hai cây bưởi này em ạ”. Bác gái nói với mẹ mình như vậy!

Có thể họ không để ý nhưng mình biết chắc, ngoài vườn hai cây bưởi đã bắt đầu lắp ló những nụ hoa trắng muốt.

Chỉ còn một tháng nữa thôi là mùa hoa Bưởi lại về!

CÂU CHUYỆN MÙA XUÂN

 Annette Scheurich

2.

Cuối tháng ba hàng liễu ven hồ đâm chồi nảy lộc.

Các đầu hoa cái nằm trên một cành và các hoa đực mang phấn hoa trên một cành khác. Không giống như hạt phỉ, loài hoa này cần một sinh vật sống để hỗ trợ quá trình thụ phấn

Một công việc dành cho côn trùng như một phần thưởng để chúng nhận được thức ăn

Bướm đồi mồi đã trải qua mùa đông  và bây giờ nó đang ăn mật hoa để lấy sức. Ong vò vẽ và ong mật cũng thu thập phấn hoa giàu protein. Trong khi nhấm nháp thức ăn, chúng tranh thủ “bón phân” cho những bông hoa cái

Cây liên kiều là dấu hiệu đầu tiên có thể nhìn thấy rõ ràng của mùa xuân. Theo sát chúng là lục bình, hoa thuỷ tiên vàng và hoa tulip, tất cả đều trồi lên khỏi mặt đất

Vào đầu tháng Tư, mùa xuân rực rỡ tràn ngập khu vườn của chúng tôi

Vài tuần trước khi những cây cho quả thực sự bắt đầu nở hoa và những chiếc lá bắt đầu mọc trên cây trong rừng trong khoảng thời gian vài ngày,  anh đào bừng lên sức sống y như tên gọi của nó. Những bông hoa anh đào rực rỡ xuất hiện nhanh như thế nào thì chúng  biến mất cũng nhanh như vậy.

Những cây nở hoa sớm có vai trò quan trọng trong khu vườn của chúng tôi, chúng cung cấp mật hoa tươi

Ao vườn là sân chơi cho chim sẻ, tinh thần phấn chấn dường như ngập tràn trong họ các loài chim. Chim sáo bận rộn thu thập vật liệu làm tổ và định cư bên  những hàng rào. Bây giờ là thời điểm cao điểm để xây tổ

Bước đầu tiên luôn là bước khó khăn nhất vì chim ưng cũng phát hiện ra. Cành cây cồng kềnh và công cụ duy nhất của nó là cái mỏ

Chim sẻ ngô đuôi dài là một nghệ nhân thực sự trong số những người xây tổ và là bậc thầy ngụy trang. Trong đám cành cây rậm rạp, tổ gần như không thể bị phát hiện.  Mạng địa y  và rêu là vật liệu tốt nhất cho một cái tổ mềm mại.

Giờ là lúc Chim sáo đá đi tìm cô dâu :))

Con đực dùng lá cây làm vật khoe khoang. Điều này nhằm thể hiện khả năng xây tổ vượt trội của nó.

Chị sẻ ngô thì có vẻ rất muốn chuyển vào một cái tổ được xây sẵn nhưng chủ nhà lại không nhìn nhận mọi thứ như vậy khi chị  quan sát anh chủ từ phía dưới. Hóa ra, anh ta cũng hát những lời ca ngợi ngôi nhà mới của mình. Cho đến khi cuối cùng chị cũng nghe thấy giọng hát của anh.

Sóc cũng đã làm rất tốt việc đệm phần rỗng của tổ trên cây và đã quay trở lại chỗ đó thường xuyên hơn

Có một sự kiện lớn sắp diễn ra. Các cơn co thắt bắt đầu cho quá trình sinh nở. Con đầu tiên vừa được liếm sạch thì con tiếp theo sẽ chào đời.  Mất khoảng hai giờ để sinh bốn em sóc. Chúng chỉ nhỏ cỡ ngón tay cái và hoàn toàn dễ bị tổn thương

Theo bản năng, chúng bám lấy mẹ và bú sữa sẽ là hoạt động chính của chúng trong sáu tuần tới.

Với sự xuất hiện của hoa anh đào vào tháng Tư, cuối cùng mùa xuân cũng nở rộ trong vẻ rực rỡ của nó

Anh đào là một trong những cây cho quả đầu tiên nở hoa. Điều này có thể sớm hơn hoặc muộn hơn tùy thuộc vào thời tiết sau một mùa đông dài

Nếu thời tiết ấm lên nhanh chóng, nhiều loại cây ăn quả có thể bắt đầu nở hoa cùng một lúc. Hạt cải dầu nảy mầm trên cánh đồng màu sắc rực rỡ có thể nhìn thấy từ xa

Giữa những tán cây, những sinh vật khác đang tận hưởng hơi ấm của mùa xuân được giải thoát khỏi bộ lông mùa đông của chúng. Đàn cừu gặm cỏ trên đồng trong khi những con sáo đá gần đó săn côn trùng.

Quanh năm đàn cừu giữ cho vườn cây ăn trái được cắt tỉa và bón phân. Len của chúng không chỉ được con người yêu thích mà loài sẻ ngô này còn sử dụng nó nữa.

Nó sinh sản trong cái hộp được dùng làm tổ vì rất hiếm khi có các hốc tự nhiên. Trứng của nó luôn an toàn và ấm áp trên chiếc giường len ấm cúng

Những chú cáo con được sinh ra cách đây vài tuần vào tháng 3

Bây giờ là vào tháng Tư, lần đầu tiên chúng ra khỏi hang ổ của mình. Đối với con non của hầu hết các loài, vui đùa là trò tiêu khiển chính của chúng khi bố mẹ chúng đi kiếm ăn.

Đối với chúng, thế giới là một sân chơi lớn nhưng chúng vẫn không bao giờ rời xa hang ổ của mình.

Đối với người nuôi ong và ong bây giờ là thời điểm bận rộn nhất. Những con ong thợ cần mẫn tha thức ăn về tổ

Chúng cho những con ong khác ăn và lấp đầy các tổ ong. Điệu nhảy lắc lư nổi tiếng được sử dụng bởi những con ong  trở về để truyền lại cho những con khác nơi chúng sẽ tìm thấy mỗi loại thức ăn.

Ong chúa giờ đây đã đẻ, hết trứng này đến trứng khác trong các lỗ tổ ong đã chuẩn bị sẵn trong mùa cao điểm của mùa xuân. Lên tới 2000 quả trứng mỗi ngày

Ong vú chăm sóc ong con trong chín ngày cho ấu trùng ăn, sau đó chúng được ấp và hóa nhộng. Mười hai ngày sau, con ong  hoàn chỉnh sẽ tự thoát khỏi tế bào sáp và nhận được nguồn năng lượng ngọt ngào đầu tiên.

Mật ong là động lực của tổ ong và hiện tại có rất nhiều nguyên liệu thô cho tổ ong vì  táo đã nở hoa vào cuối tháng 4 và mật hoa của chúng đã làm tăng thêm nguồn cung.

Thời điểm này hầu như tất cả các cây ăn quả, hoa đều đang  nở rộ. Mùa cao điểm vào mùa xuân là thời điểm rất vất vả của đàn ong. Có quá nhiều mật hoa và phấn hoa nên chúng phải làm việc cật lực.

Xung quanh hồ những cây rụng lá giờ đây đã bắt đầu cho ra những chồi non.

Trên mặt nước không có nhiều hoạt động chăn nuôi khiến các loài chim nước tha hồ bay nhảy. Có một  cặp chim cu gáy canh gác tổ nổi của chúng một cách thận trọng. Chúng giữ ấm trứng và bảo vệ suốt ngày đêm.

Ở rìa ao, một con chim cốc khởi động trước khi lặn lần tiếp theo. Chú ta cũng đang tận hưởng hơi ấm ngày càng tăng của nắng xuân

Những chồi non của cây đào chỉ hé mở vào cuối tháng 4. Trong rừng, tán cây ngày càng rậm rạp, chẳng bao lâu sau, chỉ vài ngày nắng xuyên xuống thảm rừng đã làm chậm quá trình sinh trưởng của  cây con bên dưới.  Lá trên ngọn  lúc này đã giữ lại phần lớn ánh sáng mặt trời

Sông suối  tràn trề nước vào mùa xuân

Những chiếc tổ xây quá sát bờ sông thường bị nước cuốn trôi. Và nếu vậy, những con chim sáo nước, chẳng hạn, phải xây tổ mới. Lần này nó sẽ có vị trí sau một thác nước, nơi bị  che khuât và không thể tiếp cận được.

Giống như tất cả các loài chim bố mẹ khác, sáo nước bố mẹ phải liên tục mang thức ăn về tổ cho chim con. Tổ mới có thể an toàn hơn nhưng cách tiếp cận trên không đòi hỏi kỹ năng nhào lộn cao

Thức ăn chủ yếu của chúng là ruồi caddis có ấu trùng sống trong nước.

Một số loài ruồi caddis làm một chiếc hộp cứng từ những mảnh đá dán lại với nhau bằng loại tơ giống như nước bọt. Điều này bảo vệ chúng trong giai đoạn còn nhỏ ở dưới nước. Sau khi hóa nhộng, ruồi caddis thoát ra khỏi hộp bằng một bộ hàm chắc khỏe cũng có tác dụng bảo vệ chúng khỏi nguy hiểm nhưng tiếc là không phải từ loài sáo nước. Loài chim này biết cách lấy miếng mồi bổ dưỡng ra khỏi vỏ bọc bằng đá của con mồi. Một bữa ăn nhẹ có kích thước vừa phải cho lũ con của nó

Vào tháng Tư, phong cảnh mùa xuân trải qua một sự thay đổi căn bản trong vòng vài tuần, nó chuyển từ cằn cỗi sang xanh tươi. Đến đầu tháng Năm tất cả cây cối đều đầy nhựa

Và một trong những loài chim di cư cuối cùng đã quay trở lại: Chim cu cu

Nền rừng bây giờ tối hơn và các loài động vật lại một lần nữa thoải mái ẩn náu trong bóng tối hơn

Một con nhím đang kiếm ăn và loài bọ phân nên coi chừng. Bọ phân sống nhờ phân nấm và thực vật thối rữa

Mặt khác, nhím là loài săn mồi, nó chủ yếu là ăn thịt. Nó siêng năng lục lọi dưới nền rừng thì thấy khá nhiều bọ phân

Con rắn thủy tinh chậm chạp ẩn mình trong rêu mềm. Một trong thức ăn của nó là sên

Cuộc săn lùng không có gì đặc sắc. Một khi con sên được phát hiện thì mọi chuyện đã kết thúc. Răng của rắn thủy tinh có góc nghiêng về phía sau. Điều này giúp chúng bám tốt vào con mồi trơn trượt của mình.

Tuy nhiên, không phải mọi loài đều thích ăn sên

Rừng hiện cung cấp nguồn thức ăn phong phú cho nhiều sinh vật trong đó có Thỏ

Giẻ cùi lam, một loài chim thuộc họ Quạ, cũng tìm thấy những gì nó cần để sinh tồn ở đây. Nó chăm chú quan sát nền rừng bởi vì sóc có thể là đối thủ cạnh tranh khốc liệt khi kiếm ăn.

Giẻ cùi lam cũng hay cào bới dưới những tán cây vì chúng biết rằng chúng có thể tìm được nhiều thứ để ăn ở đó. Giẻ cùi lam đôi khi sẽ  giấu thức ăn của chúng, hạt đào và một vài loại hạt khác, ở một chỗ kín.

Nhưng không phải lúc nào điều đó cũng là hay. Cũng giống như sóc, có khi nó quên mất nơi chốn mà nó đã giấu kỹ thức ăn từ năm trước. 

Vào tháng Năm, toàn bộ cảnh vật tươi tốt và xanh tươi

Lợn rừng cái giờ đây cần nhiều thức ăn: Lá, rễ, củ, ấu trùng giun và bất cứ thứ gì chúng có thể tìm thấy trên mặt đất. Đến tháng 5, con cái của chúng hầu như đã lớn hơn và có lẽ chúng là những đứa con đến muộn.

Tinh thần phấn chấn vào mùa xuân rõ ràng không phải là vấn đề liên quan đến tuổi tác

Lợn rừng lót một cái ổ bằng cành cây và lá để làm nơi nghỉ ngơi và cho con bú. Sự ấm áp trong ổ sẽ bảo vệ cho con chúng. Nếu nguy hiểm đe dọa hoặc lợn mẹ lâm vào sợ hãi, lợn con hiếm khi phản ứng bằng hành vi bỏ chạy. Chúng bất động giả chết cho đến khi được lợn mẹ giải thích rõ ràng mọi chuyện

Tất cả những con lợn mẹ trong một nhóm hoặc lợn đực cùng nhau chăm sóc con cái của tất cả các nhóm. Bằng cách này, những con lợn con sẽ được bảo vệ tốt trong quá trình  lớn lên

Sóc có thể ngủ ngon ở những vị trí không được thoải mái nhất, chẳng hạn trên cành cây. Tuy nhiên, khi thức dậy, cả sóc đỏ và đen thường phóng ầm ầm. Việc tăng tốc độ này là khá bình thường.

Hạt giống vân sam cần môi trường ẩm ướt để nảy mầm. Hàng ngàn cây cố gắng vươn lên khỏi mặt đất nhưng chỉ một số ít sống sót để thay thế những cây già hơn sau này

Trong tháng 5, những cây lá kim cao bắt đầu cho quả. Khi chín, chúng trở thành một phần trong chế độ ăn chủ yếu của sóc.

Bàn chân sau của sóc có thể hướng ra ngoài để giữ vững thân mình khi treo ngược trên cây. Chúng phải ăn rất nhanh, và cần khoảng  100 hạt vân sam để đáp ứng nhu cầu hàng ngày. Bằng cách  khéo léo xé vỏ, chúng đã có thể lấy ra những hạt nhỏ giàu dinh dưỡng

Lúc này sóc mẹ cần rất nhiều thức ăn. Có cả một tổ đầy các con sóc con chờ sữa

Trong khi đó ở các vũng nước và ao hồ nòng nọc đã nở. Khi thời tiết ấm áp, điều này xảy ra trong vòng vài ngày, trong những năm mát mẻ hơn, có thể mất tới bốn tuần.

Sự phát triển của chúng còn phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết mùa xuân

Sau một vài tuần, các chi thô sơ đầu tiên xuất hiện. Bắt đầu bằng các vết phồng ở chân sau, cho biết vị trí của chân trước. Mang của chúng đã rút đi và vật duy nhất nhắc nhở về sự tồn tại của giống loài nòng nọc của nó là chiếc đuôi giống bánh lái.

Sự biến thái đã gần kết thúc. Khoảng hai tháng rưỡi sau khi sinh sản, quá trình biến đổi hoàn tất. Ếch cỏ để lại mặt nước phía sau và bắt đầu cuộc sống thứ hai với tư cách là một chú ếch hoàng tử

Quanh ao mọi thứ lại trở nên bận rộn một lần nữa.

Những chú vịt con, những con chim sâm cầm nhỏ tất cả chúng đều đang kêu gào vì cái bụng rỗng. Giải pháp duy nhất là làm việc theo nhóm vì những con chim sâm cầm bố mẹ này biết là trên mặt nước hay trong tổ

Thời gian làm cha mẹ vất vả  mất từ ​​​​bốn đến sáu tuần. Gà con đã có thể bơi ngay sau khi nở. Sau khi bơi, chúng trở về tổ để nghỉ ngơi

Trong gia đình Gà Muahen chỉ có một chú gà con sống sót, nó cũng được cả bố và mẹ cho ăn và cuối cùng cũng đã no

 Tháng năm vui vẻ là mùa cao điểm của một loại côn trùng,  bọ da nước.

Cứ vài năm chúng lại xuất hiện với số lượng hàng nghìn và ăn sạch lá trên cây. Là côn trùng, chúng chỉ sống từ bốn đến sáu tuần. Trong thời gian ngắn ngủi này, chúng hoạt động như những cỗ máy ăn uống.  Chúng  cứ từ từ gặm sạch mọi chiếc lá trong tầm mắt

Nhưng điều quan trọng nhất là sinh sản. Chúng có những nghi thức giao phối khá đặc biệt và thường  kết thúc bằng một vụ tai nạn, có thể bọ không thể bay tốt và chúng cũng không phải là loài leo núi giỏi, chưa kể đến  những chiếc máy cắt cỏ nữa chứ.

Một số ít trong số chúng sống sót là con mồi dễ dàng cho các loài chim

Thường là chim sáo đá bay vào kiếm ăn sau mùa thu hoạch

Vào tháng 5, chúng bận nuôi con nên phải đảm bảo nguồn cung cấp thực phẩm ổn định trong khoảng 20 ngày. Vì vậy, nguồn cung cấp dồi dào bọ xít giúp con cái của chúng phát triển đặc biệt nhanh chóng. Ngay cả cái lỗ nhỏ cũng có thể chứa được những sinh vật to lớn này. Là những “người quản gia” ngăn nắp, chúng không chứa rác bên trong cái tổ của mình.

Trong tổ, chim hét cũng bị quấy rầy bởi những con non ham ăn của chúng và những con sẻ ngô  cũng vậy

Mùa xuân là khoảng thời gian kiệt sức và năng động nhất

Những con cáo con cũng cần nhiều thức ăn khi được hai tháng tuổi. Chúng vẫn phụ thuộc vào sự chăm sóc của bố mẹ.

Đồng cỏ mang lại nhiều cơ hội săn mồi. Một con hươu trưởng thành không có gì phải lo lắng nhưng chuột thì có. Cáo đặc biệt thích chuột nước, chúng sẽ một bữa ăn thịnh soạn dành cho những đứa con háu đói. Chỉ khi cáo bắt được vài con chuột thì nó mới đưa chúng về hang ổ của gia đình và sau đó sẽ là một bữa tiệc dành cho những con cáo con khi sắp tới chúng sẽ phải tự mình đi kiếm mồi.

Một bữa ăn không kéo dài nên bố mẹ cáo lại phải lên đường săn thêm chuột.

Hươu Mẹ tìm nơi trú ẩn trên đồng cỏ vì chúng sẽ sinh con vào giữa tháng năm.  Một con cáo có thể gây nguy hiểm cho hươu con và nó không vui chút nào khi kẻ săn mồi ở quá gần. Hươu mẹ đã phát ra âm thanh cảnh báo. Cáo không hề chú ý đến điều đó. Tuy nhiên, nó nên làm như vậy vì hươu không phải là hoàn toàn không có khả năng tự vệ và một bà mẹ tức giận chắc chắn có thể lật ngược tình thế.

Để rồi sau đó Cáo cũng hiểu rằng chúng cũng phải có ranh giới của mình. 

Khi được bốn tuần, hươu con không còn trốn một mình trên đồng cỏ nữa. Kể từ bây giờ nó đi theo mẹ mọi lúc mọi nơi

Trong khi đó, Sóc mẹ đang bị căng thẳng khi nó phải một mình gánh trách nhiệm với những đứa con tinh nghịch. Năm tuần sau khi sinh, những con sóc con khó có thể bị kiểm soát được nữa và cái ổ của chúng ngày càng đông đúc nên những đứa trẻ nhất quyết đòi ra ngoài. Chúng đã sẵn sàng cho cuộc sống trên ngọn cây. Mọi hoạt động đều khiến chúng đói và mệt mỏi

Cứ sau vài giờ sóc con lại cần thức ăn. Chúng chỉ có thể nghỉ ngơi khi cái bụng rỗng đã được lấp đầy

Tháng Năm sắp tàn, mùa Xuân cũng sắp kết thúc

Thời gian nuôi con căng thẳng đã qua

Hầu hết các cây đã ra hoa

Mặt trời lên cao hơn bao giờ hết và bây giờ mùa hè đang đến!

Hôm nay thời tiết Sài Gòn cho mình cảm giác của hai kiểu khí hậu. Buổi sáng trời se lạnh, nhiều mây và không có nắng. Dưới sảnh nhà mình, người ta đã trang trí tiểu cảnh mừng Xuân với hai sắc màu chủ đạo là Đỏ và Vàng, vừa ấm áp mà vừa gần gũi. Khác hẳn mọi năm chẳng có gì. Có lẽ năm vừa rồi thế giới có nhiều sắc u ám quá nên rất cần một cái gì đó tươi sáng, lạc quan hơn chăng? Cũng có thể lắm

Buổi chiều, như thường thấy của thời tiết tháng Hai, nắng vàng như rót mật và gió nhẹ. Mình và con lại tha thẩn  gần nhà. Năm nào cũng loanh quanh mỗi chỗ này mà mỗi năm lại thấy có một sắc thái khác.

Năm nay cái đường bao khu nhà mình nở ngập một sắc vàng của một loài hoa Mai. Miền Nam chúng ta có lẽ không màu nào thích hợp hơn sắc hoàng này. Ví như sắc hồng phai của Đào có thể rất đẹp với kiểu khí hậu lạnh với mưa phùn xứ Bắc nhưng dưới ánh nắng rực rỡ phương Nam trông nó cứ lạc lõng sao ấy. Vàng rực rỡ, vui tươi mới đúng tiệp với màu nắng thủy tinh này.

-Tôi đã thấy hoa vàng với váy xanh nhé!

Mình nói với con như vậy khi một cơn gió thổi qua tung bay mái tóc, tà áo của vài người trên đường trong đó có chúng mình. Gió xuân làm lá xào xạc, cánh hoa phấp phới nhưng hay là gió tháng Hai không hề làm hoa hay lá rụng (hay là chúng chỉ là không rụng vào lúc chúng mình ở đó ?).

Đường phố sạch bong. Và vắng lặng. Chỉ có chúng mình. Với nắng, với gió,

Và với Hoa.

Cây sẽ cho lộc và cây sẽ cho hoa

Em cứ bay trong đời dịu dàng như cơn gió

Em cứ bay nhưng đừng bỏ lại tôi một mình

Khi đứng dưới gốc cây mà năm nào tầm này chúng mình cũng phải lang thang ở đó, mình lại chợt nhớ đến giai điệu của khúc “Hoa Xuân Ca” này. Những cái cây cao lướn mà chúng mình đang đứng cạnh đây, cứ quanh năm là như thế, lá xanh mướt và không bao giờ rụng đến trơ trụi. Nên nó không có lộc mấy đâu. Và mình cũng chẳng thấy được hoa của nó bao giờ.

Nhưng cuộc đời thì luôn phải  có lộc, có hoa chứ.

Không chỉ là trong mùa Xuân

Bởi vì những thứ đẹp đẽ và mang hy vọng đó mới chính là lý do để chúng ta tồn tại.

Và muốn tồn tại.

Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa

Em líu lo bên đời dạy tôi biết xa gần

Mùa xuân là thời điểm của những khởi đầu mới và cuộc sống mới. Thế giới đang tràn ngập niềm vui sống và sức mạnh tuyệt đối của thiên nhiên chưa bao giờ có thể được cảm nhận rõ đến thế trong mùa này.

Chim hót líu lo, côn trùng vo ve trong không khí và những bông hoa nở rộ tô điểm cho cảnh quan một cách kỳ diệu. Các sinh vật đủ loại – chim sáo, sóc và ếch – bắt đầu sinh con.

Trong những khu rừng, cánh đồng, đồng cỏ và vườn tược, thiên nhiên thức dậy sau giấc ngủ mùa đông: chồi non nở rộ, những chiếc lá xanh tươi bắt đầu đâm chồi, những thân cây mềm mại mọc lên khỏi mặt đất.

Thế giới lại có màu sắc trở lại. Mùa đông tĩnh lặng, cằn cỗi đã qua và mùa xuân là một sự phô trương vui tươi – phấn chấn và tràn đầy niềm say mê.

Mùa xuân!

Mùa của chim én

Mùa của chim én bay!

February 5, 2024 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
Rose

Giáng sinh năm ấy (9)

by Rose & Cactus December 26, 2023

Trong “Giáng sinh năm ấy” diễn viên Dương Tử Quỳnh đóng vai bà chủ cửa hàng bán đồ Giáng sinh trên một con phố ở Thủ đô London, nơi cô nàng Kate làm việc. Dương Tử Quỳnh đóng đạt các bạn nhỉ, rất duyên dáng tự nhiên, xứng đáng đẳng cấp diễn viên gốc Á duy nhất đạt giải Oscar, đến thời điểm này.

Người Hoa vốn luôn nổi tiếng buôn bán giỏi, chắc có lẽ không ở đâu trên quả địa cầu này mà họ không lui tới. Bạn có thể bắt gặp khu dân cư, những cộng đồng tập trung dân cư gốc Hoa ở khắp mọi nơi. Từ Đông Nam Á, Âu Mỹ đến cả Châu Phi.

Mình nhớ năm 93, 94 gì đó trên Truyền hình Việt Nam có chiếu bộ phim của Trung Quốc tựa đề “Người Bắc Kinh ở New York”, trong đó có nói về hành trình lập nghiệp của một đôi vợ chồng – vốn là nghệ sĩ trong đoàn nhạc giao hưởng Bắc Kinh –  tại thành phố sầm uất, trung tâm tài chính của nước Mỹ và thế giới, New York.

Như biết bao người nhập cư khác khi đặt chân đến New York, cặp vợ chồng nhạc công cũng mang theo ước mơ về một cuộc sống mới, một chân trời mới. Khi đến nơi, họ gặp ngay những “cú sốc”, những khác biệt rất lớn giữa thực tế và mộng tưởng; nhưng bằng sự nỗ lực, khôn khéo và quyết tâm, họ đã làm giàu bằng chính đôi tay của mình.

Cùng với sự thành công đó là biết bao khó khăn, tủi nhục, thăng trầm, mất mát, phản bội và cuối cùng New York vẫn không phải là thiên đường với họ. Người vợ trở nên điên loạn. Con gái của họ, từ một đứa trẻ ngoan ngoãn lúc họ ra đi giờ thay đổi và bị bọn tống tiền bắn chết. Trước khi chết, cô bé chỉ có một ước muốn duy nhất là được trở về “nhà”. Người chồng sống trong cô đơn và ân hận suốt phần đời còn lại.

Phim đã lâu nên mình quên nhiều, đọng lại bây giờ chỉ còn là hình ảnh cảnh tuyết trắng mênh mông khắp phố phường New York, đối lập với không gian nhỏ đến không thể nhỏ hơn của căn phòng mà hai nhân vật chính thuê, là căn hầm ở bên dưới mặt đất, nơi ánh sáng không bao giờ lọt tới được.

Ngoài cái khiếu kinh doanh, người Hoa nói riêng hay người Á nói chung nổi tiếng có đôi bàn tay  khéo léo, rất thích hợp với các công việc thủ công. Đó có lẽ là lợi thế cạnh tranh tương đối nổi trội của sắc dân này. Vừa rồi mình đọc The New York Times có giới thiệu mấy cửa hàng trang trí đồ Giáng sinh ở Mỹ (có tiếng) thì thấy người gốc Hoa nhiều.

 Lại có chuyện vui về những học sinh Nhật Bản ở một bang nọ của Mỹ thế này: Chẳng là vì học sinh Nhật mỗi sáng rời nhà, trong cặp bao giờ cũng có một hộp cơm Bento do những bà mẹ của chúng chuẩn bị sẵn, để dùng cho bữa trưa ở trường. Phụ nữ Nhật Bản vốn đảm đang và khéo léo, cái này không cần nói thì ai cũng biết. Nhưng vấn đề là trường học thì không phải có mỗi các em học sinh Nhật Bản, Mỹ là hợp chủng quốc nên một lớp học có thể có đủ các sắc tộc ở khắp nơi hội tụ.

Và các em học sinh đó khi nhìn thấy vài người bạn Nhật của mình có những cơm hộp đầy màu sắc, đẹp đẽ như một tác phẩm nghệ thuật thì em nào cũng mê mệt  và thế là về nhà chúng yêu cầu các bà mẹ cũng phải làm cho những hộp cơm như thế để các em  mang đến trường. Chết dở, phải mình chắc  cũng khóc ra tiếng mán luôn ấy, dù con mình từ nhỏ đến lớn cũng toàn có thói quen ăn cơm nhà do mẹ nấu nhưng làm kiểu Bento thì lại khác, vì  nó quá cầu kỳ, đúng kiểu chỉ có thể là người Nhật.

 Cuối cùng, hội phụ huynh của lớp đành phải cầu cứu tới nhà trường để vận động các bà mẹ Nhật hãy thương họ một chút mà ngưng làm cơm trưa quá đẹp cho con :)).

Khổ các bạn nhỉ, chăm quá cũng phiền phức chứ chả sướng  gì đâu :))

Có lẽ đó là một chú ngựa con

By Cheryl K. Pierson

Có thể là bánh quy đường hoặc một hộp sôcôla nào đó, mỗi gia đình đều có một món quà đặc biệt mà họ thích thưởng thức trong những ngày nghỉ lễ

Tôi luôn tận hưởng Giáng sinh nhiều nhất so với bất kỳ ai trong gia đình chúng tôi. Chưa bao giờ có bất kỳ nghi ngờ nào. Là con út trong nhà- với hai chị em đang sắp bước vào tuổi thiếu niên khi tôi sinh ra – điều đó là không thể chối cãi. Đến khi có thể nói chuyện, hiểu ra việc mua quà cho người khác, tôi cũng không thể giữ được sự nhiệt tình cho riêng mình.

Tôi cũng không  giữ bí mật được.

Bố tôi dường như luôn có thể khiến tôi ngạc nhiên. Nó bắt đầu như một trò chơi, dần dần chuyển sang một việc nghiêm túc – nhưng tôi chưa bao giờ chắc chắn ở đâu hoặc bằng cách nào. Bố chưa bao giờ đến hỏi tôi  tặng gì cho ông vào dịp Giáng sinh. Ông quá thông minh để làm điều đó.

“Chúng ta đang gói quà!” Tôi sẽ thông báo.

Bố sẽ nhướng mày  như thể chuyện đó có vấn đề. “Trước khi làm vậy”, Ông nói một cách nghiêm túc, “hãy nhớ màu yêu thích của bố là màu xanh lam”.

“Ồ, nó màu xanh, được rồi,” tôi trấn an ông.

Đậm hay nhạt?

Thực nhạt

“Giống như màu bầu trời hay nhạt như một quả trứng chim cổ đỏ? “Điều này có vẻ quan trọng đối với ông, và tôi cảm thấy mọi chuyện sẽ ổn thôi. Suy cho cùng, trên thế giới có rất nhiều vật thể màu xanh lam, ông chỉ muốn biết màu sắc – chỉ vậy thôi.

Màu xanh như trứng chim cổ đỏ

Ông sẽ giả vờ suy nghĩ sâu sắc trong một lúc lâu. Sau đó, “Chà, nó cứng hơn trứng chim cổ đỏ phải không?

Ồ, vâng, thật khó khăn”. Tuy nhiên, sau khi tôi nghĩ về điều đó, tôi thấy có vẻ khôn ngoan hơn khi cảnh báo ông”. “Nhưng nó sẽ vỡ”.

Một lần nữa, sự tạm dừng trầm ngâm “Nó sẽ?”

Tôi có thể thấy rằng tôi cần phải khiến ông không cần phải lo lắng “Chà, nó sẽ không vỡ như quả trứng chim cổ đỏ đâu, nhưng nó là thủy tinh”.

Thông thường, vào thời điểm này, mẹ hoặc một trong những chị gái của tôi sẽ cố gắng kết thúc cuộc trò chuyện. Tôi nhận thấy mẹ đang nhìn bố bằng ánh mắt u ám, dường như muốn nói “ Anh nên xấu hổ về cái tính tò mò của mình đấy”.

Bố sẽ mỉm cười và bước đi – không hề lo lắng chút nào về bất cứ điều gì mẹ đang cố làm ông ngại. Nếu mẹ không có ở đó, một trong những chị gái của tôi sẽ nắm tay tôi và trừng mắt nhìn bố, khiển trách tôi khi họ đẩy tôi trở lại phòng ngủ, nơi chúng tôi sẽ gói quà. “Đừng nói cho bố biết đó là gì! Em luôn làm lộ bí mật!” Kể từ khi tôi học nói, điều đó đã nhanh chóng trở thành một truyền thống.

Khi chúng tôi gói chiếc gạt tàn bằng thủy tinh màu xanh lam, các chị giải thích cho tôi – hoặc cố gắng giải thích – việc bố đã lừa câu trả lời ra khỏi cái miệng háo hức của đứa trẻ năm tuổi của tôi như thế nào. Ở tuổi mười lăm và mười bảy, họ đã từng trải qua những điều như vây.  Nhưng ở tuổi của tôi, tôi không ngừng tự hỏi điều gì đã khiến họ trở nên khôn ngoan đến vậy.

Khi những món quà được gói lại và đặt cẩn thận dưới gốc cây, quyết tâm của tôi càng mạnh mẽ hơn. Chỉ còn bốn ngày nữa là đến Giáng sinh. Chắc chắn, chắc chắn tôi có thể giữ bí mật thêm bốn ngày nữa.

Tôi bắt đầu cảnh giác, đề phòng và suy nghĩ khi bố bắt đầu nói về quà. Ông sẽ tựa lưng vào chiếc ghế êm ái, điếu thuốc trên tay. Cher Huntley và David Brinkey đến nhà chúng tôi để xem tin tức hàng đêm. Nhưng trước khi họ kịp khởi động, bố đã nói: “Tôi thực sự hy vọng ông già Noel sẽ tốt với tôi năm nay. Có một vài điều tôi thực sự mong muốn.”

“Cái gì?” Tôi hỏi. Các chị em tôi và mẹ đã chuẩn bị tinh thần cho hiệp hai.

Với vẻ nghiêm túc nhất, ông nhìn tôi và nói: “Cha thực sự muốn có một con ngựa con”.

“Con cũng vậy!” Tôi kêu lên.

Nhưng, nếu bố không nhận được món quà đó…bố muốn có một vài hộp quả anh đào phủ sô cô la và có thể một vài chiếc quần dài ấm áp và một chiếc gạt tàn mới trên bàn làm việc của bố.

Mắt tôi mở to. Bố tôi đang nhận được một cái gạt tàn mới! Tôi cũng biết mẹ đã định mua cho bố thêm quả anh đào phủ sô cô la, một thói quen lâu đời khác. Nhưng với vài chiếc quần dài và một chiếc gạt tàn mới, ông sẽ không quá buồn về con ngựa con.

Chà, bố sẽ thích món quà của mình, vì…”

“Cheryl!” ba người phụ nữ còn lại của Moss đồng thanh cảnh báo

Bố nghiêng người về phía trước, vẻ mặt đầy thắc mắc: “Bố, Tại sao?

“Bởi vì anh sẽ làm vậy thôi”. Mẹ nói, đưa cho Bố một trong những cái nhìn “đó” qua đỉnh đầu tôi

Tuy nhiên, bằng cách nào đó, bố luôn tìm cách lấy nó ra khỏi tôi. Đôi khi, câu trả lời của tôi cho những câu hỏi của Ông đã bộc lộ điều đó; Có lần, tôi đã buột miệng nói ra điều đó khi những người khác không có mặt ở đó. Đó là một bí mật mà tôi rất tiếc đã nói ra vì lợi ích của bố và xin lỗi vì đã không giữ cho riêng mình. Tôi đau khổ vì thiếu ý chí.

Sau đó, quyết tâm của tôi trở nên mạnh mẽ hơn và truyền thống của bố là cố gắng tìm ra món quà của chúng tôi cho ông là gì – và việc tôi nói với ông quá nhiều – đã bị phá bỏ. Bố đã hoàn thành điều mà ông đã cố gắng dạy tôi: rằng đôi khi, dù khó có thể chờ đợi, nhưng niềm vui từ sự ngạc nhiên vẫn tốt hơn sự chắc chắn về món quà.

Hơn bốn mươi năm sau, Bố vẫn trêu chọc tôi. Tôi mang cho ông một hộp gói quả anh đào phủ sô cô la vào tuần đầu tiên của tháng 12 năm 2007. Khi tôi đưa chúng cho bố, ông hỏi “Bố sắp được nhận món quà gì đây ?”

Có lẽ đó là một con ngựa con”. Tôi trả lời

Ông nhẹ nhàng lắc chiếc hộp, biết chính xác bên trong có gì. Quả anh đào phủ sô cô la là thứ duy nhất được đựng trong hộp có kích thước như vậy. “Không, bố không nghĩ vậy,” Ông trầm ngâm trả lời, “Nó sẽ vỡ à?” Bố lại giở trò cũ nữa.

“Tốt nhất là bố nên mở nó ra”. Tôi nói với ông với một nụ cười. “và xem nó là gì”.

Bố trở về với hiện tại, nghĩ rằng mình biết chắc đang mở ra cái gì. Câu hỏi duy nhất trong đầu ông là sô cô la sữa hay đen. Nhưng khi ông rút tờ giấy ra, tôi biết mình đã  đoán đúng, ông giơ chiếc hộp lên, nheo mắt dưới ánh nắng chiều muộn.

“Ừ, bố sẽ làm vậy”. Bố lẩm bẩm, ngạc nhiên như thể đó là một con ngựa con. “Sô cô la vị bạc hà – phủ quả anh đào. Bố không biết họ đã làm ra thứ như vậy.”

Và tôi cũng chưa nói với ông!

Nhật ký Charlie,

Dec 26

Tôi đang ở vào thời điểm mà mùa Đông bắt đầu bước vào giai đoạn khắc nghiệt nhất. Khi ngày lễ Noel vừa đi qua, nhiệt độ đột ngột rơi xuống 5 độ (và chúng tôi được cảnh báo con số này có thể xuống thấp hơn nữa vào đầu năm mới).

Rét, các bạn ạ! Gớm, cái thằng thi sĩ bạn tôi đôi khi nó cứ thầm ao ước “Làm sao về được mùa Đông” chứ tôi chắc rằng nó mà sống trong cái không khí này dù chỉ một ngày thôi không chóng thì chày cũng chạy mất dép.

Vì cảm giác hơi lạnh nó len vào đến tận xương tủy, rét buốt, răng riếc cứ là va vào nhau lập cập chả khác gì bản hòa tấu đêm khuya (ah nhân chuyện nhắc tới răng, tôi lại muốn nhắc thi sĩ  là đừng lo quá. Giả mà thằng Monster như Từ Thức mải chơi trên cõi tiên để đến khi xuống đến hạ giới thì huhu, thi sĩ của chúng tôi răng đã rụng hết rồi, thì vẫn còn răng giả nữa cơ mà, lo cái gì :)).

Sáng sớm, trong túp lều với mái lợp rơm và tường đắp bằng bùn đất, mà thằng Mountian nó thuê của nhà anh Pha và hiện thời tôi đang ở ké, gió lùa vào cứ là phần phật. Tôi không sao kiếm được cái gì to rộng hơn để bít mọi lỗ hở đành phải quờ quạng bò dậy nghĩ phương cách khác

Trời tối như bưng dù đã sắp đến canh năm. Tôi biết mình cần phải nổi lửa lên để làm ấm không gian chứ không chúng tôi sẽ bị đông cứng. Thằng Mountain thì vẫn đang ngủ, hôm qua nó thức đến gần sáng để thảo ra cái bản kế hoạch làm việc của nó trong những ngày sắp tới. Chuyện, giờ đây nó đã (được) tưởng là quan phụ mẫu rồi, oai quá chứ nên nó nghĩ mình phải làm một cái gì đó cho đúng với vị thế của mình.

Chứng kiến cảnh tượng Chị Dậu tại nhà lão Nghị càng thúc đẩy thằng bạn tôi niềm tin rằng, những vấn đề tồn tại của xã hội phải được ghi nhận trong thực tế chứ không phải là từ các bản báo cáo. Bởi báo cảo trên giấy và hiện trạng ngoài đời có khi khác nhau một trời một vực. Báo cáo dựa vào thái độ chủ quan của người soạn thảo và không có gì đảm bảo rằng các số liệu phản ánh trong đó  có độ tin cậy 100%.

 Làm quan không phải là làm ông trời con khệnh khạng, chỉ sướng ngồi phòng máy lạnh nghe tung hô rồi tự sướng với nhau.

Làm quan chứ không phải làm celeb trong giới showbiz, cứ  đi đến đâu là tiền hô hậu ủng, một bước lên xe, trống dong cờ mở, băng rôn hoa hòe hoa sói rợp trời

Làm quan đúng nghĩa có nghĩa là anh phải bước ra ngoài với tư cách là một người dân thường, hòa nhập vào cuộc sống hàng ngày của họ để trực tiếp thấy những cái chướng tai gai mắt, những khó khăn mà người dân đang gặp phải để từ đó đau đáu với những giải pháp và chính sách phù hợp.

Ồ, sao đường phố lại bẩn thỉu thế, rác thải cứ ngập ngụa ra như thế? Ai là người xả rác bừa bãi ra ? Có cách gì khắc phục được không?

Ồ, sao đoạn đường này cây cối thì ít mà ổ voi ổ gà thì lắm thế? Làm thế nào để có mệnh đề ngược lại ?

Ồ, sao lại có cái nhà bé tin hin thế kia mà nhét đến cả trăm người? Họ đến từ đâu? Mức sống thế nào? Làm thế nào để họ vẫn có nơi cư ngụ mà không phải chịu cảnh rủi ro rình rập (hỏa hoạn) khi liều mình sống ở một nơi như thế?

Vân vân và mây mây

Làm quan không hề dễ dàng, nó đòi hỏi sự lao lực tận tâm, có khi đến mức khi mới nhậm chức thì tóc vẫn còn xịt keo bóng lộn cỡ thằng Leo nhưng đến khi về vườn thì ông ta có thể được thằng Skeleton chạy lại nhận làm anh em họ hàng vì tóc tai đã bạc trắng với những trăn trở.

Tôi mở cửa ra ngoài hiên lấy vài thanh củi. Gió buốt đến tận óc, nên tôi nhanh chóng vô nhà ngay. Khi ngọn lửa được nhóm lên, hơi ấm lan tỏa mới phần nào xua đi được sự lạnh lẽo. Chẳng biết từ đâu, một chú mèo với đôi mắt xanh lét sáng rực trong bóng tối, lò dò đến bên cái bếp và cuộn tròn ở đó như thể mới tìm được đến thiên đường. Phái quá chứ,  khi băng giá rơi xuống, trâu bò cũng có thể chết hàng loạt huống chi là mèo.

Tôi với tay lấy quyển sách của thằng Mountain để trên bàn. Dưới ánh sáng đỏ rực của ngọn lửa, tôi lật những trang đầu tiên:

Một hôm, học trò của Khổng Tử là Tử Trương hỏi, một người làm quan đảm nhiệm chức vụ của nhà nước cần có những điều kiện nào?

Khổng Tử đáp: “Cư chi vô quyện, hành chi dĩ trung”. Nghĩa là, phải quý trọng chức vụ mình đảm nhiệm, làm hết sức mình mà không chán, đồng thời phải tận tâm tận lực và quên mình vì quốc gia, đại cuộc.

Một lần nọ, học trò Tử Lộ cũng hỏi Khổng Tử về đạo lý làm quan, Khổng Tử mở đầu bằng hai quan niệm: Một là “tiên”, hai là “lao”. Hai quan niệm này chữ viết rất đơn giản nhưng lại bao hàm nhiều nghĩa.

“Tiên” ở đây có nghĩa là phải làm trước: Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc (Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Triết học Trung Quốc giải thích chữ “”tiên”, đa phẩn dùng lời của Lão Tử “ngoại kỳ thân nhi thân tồn” (đặt thân mình ra ngoài mà được vẹn toàn): Người làm quan nên đứng phía trước, có khó khăn gian khổ và vất vả, mình phải là người đứng ra gánh vác trước; lợi ích cũng nhường cho người khác, bản thân không màng đến, đây là “ngoại kỳ thân”, và trên thực tế, thành công sau cùng vẫn là bản thân, đây là đạo lý “tiên tri” của người lãnh đạo.

“Lao chi” cũng là nguyên tắc xử thế của người lãnh đạo: Người lãnh đạo phải biết xung phong làm những chuyện khó khăn, không tìm cách nhàn hạ hưởng thụ, đùn đẩy khó khăn vất vả cho người khác làm

Khổng Tử nói xong hai điểm này, Tử Lộ “thỉnh ích”, nghĩa là muốn thầy giảng giải thêm. Khổng Tử lại nói “vô quyện”. Hai chữ này nghĩa thông thường là không mệt mỏi, phải nỗ lực hết sức, nhưng ý nghĩa sâu xa hơn là phải xem trọng trách nhiệm, bản thân không có cảm giác “lười làm”; xét về mặt lịch sử, một nhà lãnh đạo muốn thành công về mặt chính trị quả thật rất khổ. Nếu tuân thủ nguyên tắc này thì dù chỉ xem công văn thôi cũng khiến người ta cảm thấy vất vả.

 Sở dĩ Đường Thái Tông Lý Thế Dân có công lớn trong việc tạo ra “ Trinh Quán chi trị” (sự thịnh trị thời kỳ Trinh Quán) là do ông không tách rời thái độ “tiên chi”, “lao chi”, chăm lo việc nước và sống cần kiệm.

Năm Trinh Quán thứ 5 (năm 631), Đường Thái Tông nói với quần thần: “Việc trị quốc cũng không có khác gì việc trị bệnh. Người bệnh thấy sức khỏe tốt hơn cũng phải lo tịnh dưỡng bồi bổ, nếu không bệnh cũ sẽ tái phát nguy hiểm đến tính mạng. Việc trị quốc cũng vậy, thiên hạ được thái bình, càng nên cẩn trọng, nếu vừa thái bình đã xa hoa phóng túng tất sẽ dẫn đến thất bại. Hiện nay, sự an nguy của thiên hạ liên quan đến một mình ta, vì vậy ta ngày nào cũng cẩn trọng, không dám nghỉ ngơi”. Ngụy Trưng nói: “Trong ngoài ổn định, thần không lấy đó làm vui, chỉ vui khi thấy bệ hạ luôn đề cao cảnh giác”.

Đến năm sau, Đường Thái Tông lại nói với các quần thần về việc đề cao cảnh giác nguy cơ có thể xảy ra, ông nói: “Nhìn lại các bậc đế vương ngày xưa, có thời hưng thịnh, có thời suy vong, cũng giống như buổi sáng và buổi chiều hàng ngày vậy, cũng đều vì nhắm mắt tai ngơ, không biết gì về sự được mất của tình hình chính trị đương thời. Người trung chính không dám lên tiếng, kẻ xu nịnh ngày nào cũng buông lời xàm tấu, do vậy không biết sai trái nên bị diệt vong.

Ta tuy ở ngôi cao  nhưng không thể nhìn thấy hết mọi việc của thiên hạ, vì vậy sắp xếp đại thần các ngươi làm tai mắt của ta. Đừng cho rằng thiên hạ vô sự, bốn biển bình yên mà không để mắt quan tâm. Vua khả ái, dân kính phục. Kẻ thống trị có đạo, mọi người sẽ tiến cử anh ta, kẻ thống trị vô đạo sẽ bị mọi người phế truất, đây chính là ý nghĩa của việc dân nể sợ”.

Ngụy Trưng đáp lời: “ Những vị vua mất nước thời xưa đều sống yên ổn mà bỏ mặc thiên hạ, xử phạt vô tội vạ do vậy không thể trường tồn. Hiện nay, dưới sự thống trị của bệ hạ, trong ngoài đều no ấm thịnh vượng, thiên hạ thái bình nhưng vẫn đề cao cảnh giác, làm việc gì cũng cẩn trọng, như vậy nền thống trị của nước nhà mới được lâu dài”.

Đường Thái Tông không chỉ nói vậy mà ông cũng thường thể hiện trong hành động thực tế. Suốt thời gian chấp chính lúc nào ông cũng quan tâm đến sự bình yên của quốc gia, lắng nghe tiếng nói của người dân.

Tôi chỉ nhớ là mình đã đọc đến đấy rồi thiếp đi lúc nào không hay

Khi tỉnh dậy, đã thấy ánh sáng ban mai nhập nhằng ngoài bậu cửa. Chú mèo vẫn ngủ dưới chân tôi còn thằng Mountain thì đã đi đâu rồi không rõ. Chăn màn đã được gấp ngay ngắn trên giường

Hôm nay tao đi công chuyện của tao, không biết khi nào về mày cứ chủ động ăn uống

Nó chỉ để lại mẩu giấy nhỏ báo tôi biết thế.

Khẽ nhấc mình ra khỏi chỗ, tôi mở cửa ra ngoài sân chạy một vòng, khởi động cơ thể để đẩy lùi cái rét. Khoảnh sân nhỏ đặc trưng kiểu sân xứ Bắc, trước mặt bao giờ cũng là vài ba cây cau, một hai cây na (mãng cầu), vài cây hoa hồng và một cái giếng. Còn có cả một cây đào, đang bắt đầu nhú những nụ đầu tiên.

Dưới giá lạnh, hoa hồng vẫn nở đỏ rực và nước múc lên từ giếng khơi, kỳ lạ thay lại ấm như nước trong cái tích trà của u Tẹo nơi quán nước đầu làng.

Sau khi mọi thủ tục xong xuôi, tôi cũng rời nhà với mũ len trên đầu và khăn ấm nơi cổ. Mũ và khăn là do thằng William mới gửi cho, tôi bỗng cảm thấy lại vẫn như thuở nào khi chúng tôi còn học chung lớp, với giọng nó giáo huấn văng vẳng bên tai mỗi giờ ra chơi: “Mày xuống mặt đất đi ông nội, muốn được tặng khăn mùi soa thì làm ơn hạ tiêu chuẩn xuống” :))

Haizza, nó cứ nghĩ thế chứ tôi làm gì có tiêu chuẩn gì, chỉ là, huhuhu, Duyên mãi mà chưa tới. Thôi thì, được cái an ủi là ít ra tôi cũng không phải lẻ loi, vẫn còn rất nhiều thằng bạn tôi cùng chung cảnh ngộ :))

“Ối làng nước ôi! Cứu tôi với…Ối làng nước ôi! Bố con thằng Kiến nó đâm chết tôi! Thằng Lý Cường nó đâm chết tôi rồi! Thằng Lý Cường nó đâm chết tôi rồi, làng nước ôi!…

Đang mải suy nghĩ về nàng Duyên, à quên cái Duyên tôi giật mình vì bỗng đâu nghe giọng lè nhè hét lên đoạn đầu ngõ. Chẳng kịp nghĩ gì, tôi chạy theo đoàn người đang đổ dồn về hướng ấy. Gớm chết ở cái xứ này, nhà hàng xóm thở mạnh hơn bình thường người ta đã nhận ra rồi  chứ chả nói là tiếng hét kia.

Và rồi trước mắt tôi hiện ra một cảnh vừa quen vừa lạ (vì tôi chưa bao giờ chứng kiến nó lại hãi hùng đến thế)

Một gã đàn ông rất khó đoán tuổi  lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh chai cào vào mặt. Máu ra loe loét trông gớm quá! Mấy con chó xông vào quanh hắn, sủa rất hăng. Ngay cạnh đó một gã trai trẻ hơi tái mặt, đứng nhìn mà cười nhạt, cười khinh bỉ.

Trời ơi, giờ đây tôi hiểu vì sao mình thấy quen rồi, đúng cảnh Chí Phèo làng Vũ Đại chứ đâu

 Hừ! Ngỡ là gì, chẳng hoá ra nằm ăn vạ! Thì ra hắn định đến đây nằm vạ!

Người ta tuôn đến xem. Mấy cái ngõ tối xung quanh đùn ra biết bao nhiêu là người! Thật ồn ào như chợ. Bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá cũng vững dạ vì có anh lý, cũng xưng xỉa ra chửi góp. Thật ra, các bà muốn xem Chí Phèo ra làm sao? Không khéo nó có ý gieo vạ cho cụ ông phen này…

Nhưng kìa cụ ông đã về. Cụ cất tiếng rất sang hỏi: “Cái gì mà đông như thế này?”. Chỗ này “lạy cụ”, chỗ kia “lạy cụ”, người ta kính cẩn giãn ra, và Chí Phèo bỗng nằm dài, không nhúc nhích rên khe khẽ như gần chết.

Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:

– Các bà đi vào nhà: đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?

Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:

– Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?

Không ai nói gì, người ta dần dần tản đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng.

Tôi vội lùi sau một cái cây lớn 

Trên đường còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:

– Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế ?

Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:

– Tao chỉ liều chết với bố con nhà mầy đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.

Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.

– Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?

Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:

– Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.

Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:

– Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.

Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:

– Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.

Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, cụ quát:

– Lý Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo người ta đun nước, mau lên!

Cụ dắt Chí Phèo đứng dậy, giục thêm vài tiếng nữa, và Chí Phèo chịu đi: hắn chỉ cố khập khiễng cái chân như bị què.

(Chí Phèo – Nam Cao)

Sau khi Chí Phèo vô nhà cụ Bá, tôi không còn có lý do gì để đứng đực ra đó nữa. Vội vã, tôi nhằm đường thẳng tiến ra quán nước của U Tẹo đặng mong u sắp xếp cho tôi gặp chú Tiểu Kính. Nhưng không ngờ, người mà tôi sắp được mục sở thị lại là nhân vật khác hẳn.

Là ai thì các bạn đợi, buổi tối về nhà tôi sẽ viết tiếp. Hẹn gặp các bạn sau!

 

 

 

December 26, 2023 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
Rose

Giáng sinh năm ấy (8)

by Rose & Cactus December 24, 2023

Hôm nay là ngày Chủ nhật nhưng đồng thời cũng là Ngày lễ  Noel, thật là một sự trùng hợp thú vị phải không các bạn?

Trong bảy ngày của tuần, ngày cuối cùng lại có tên gọi riêng, không nằm trong hệ thống thứ + n như tên của sáu ngày trước đó. Về mặt ngôn ngữ, “chủ nhật” là một từ Việt gốc Hán và nó có nguồn gốc của tên gọi Chúa nhật xuất phát từ đạo Công giáo. Theo Kinh Thánh, trong buổi sáng thế, Chúa Trời dựng nên trời đất và muôn loài trong sáu ngày đầu tiên. Ngày thứ bảy, Ngài nghỉ ngơi và lấy ngày này làm ngày thánh. Từ đó, đối với người theo đạo Thiên Chúa, “Chủ nhật” được gọi là “ngày của Chúa” và là ngày của niềm vui.

Đó là ngày mà mỗi người Kitô hữu có dịp đến nhà thờ để gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau. Đặc biệt hơn, đối với các em thiếu nhi, các bạn trẻ trong nhiều xứ đạo, Chúa nhật là ngày được học hỏi giáo lý, một số nơi thì vui chơi sinh hoạt. Đối với những bậc phụ huynh hay những người lớn tuổi thì Chúa nhật là ngày để thăm hỏi, trò chuyện với nhau. Vì thế, Chúa nhật còn là ngày của tình yêu thương, của sự quan tâm đến nhau.

(Theo Tổng giáo phận Sài Gòn)

Dù không phải là con chiên của Chúa và chưa bao giờ được tham dự một buổi lễ chính thức nào trong nhà thờ vào đêm Giáng sinh, nhưng mình vẫn luôn cảm nhận được không khí xúc động và linh thiêng khi tiếng chuông nhà thờ ngân vang  khắp các nẻo đường

Jingle bells, jingle bells Jingle all the way

Nó cũng khơi gợi một niềm cảm xúc y như khi mình nghe tiếng chuông chùa trong đêm giao thừa tết nguyên đán.

Đó có lẽ là điều tuyệt vời nhất mà tôn giáo mang lại cho chúng ta. Thật ra, Thiên Chúa giáo hay Phật giáo hay những đạo giáo khác, suy cho cùng cũng là  sản phẩm của con người và vì vậy nó được sinh ra, mình nghĩ, với mục đích tối thượng là mang lại cho con người niềm tin, tin vào những điều tốt đẹp để hy vọng một tương lai tươi sáng.

Bởi trong cuộc sống bên cạnh  những niềm vui những điều may mắn, chúng ta sẽ phải đối mặt với  không ít những thử thách, cam go, những tai ương bệnh tật, những điều xui xẻo hay mất mát. Và để đi hết hành trình cuộc đời  mà không gục ngã, đôi khi chúng ta cần phải có một nơi trong tâm thức để mà dựa vào, giống kiểu một liệu pháp cứu rỗi tinh thần vậy. Tôn giáo là một trong những phương thức cho chúng ta điều đó, với những phép màu kỳ diệu.

Đến bây giờ có còn bạn nào vẫn còn tin vào những phép màu và những điều kỳ diệu ? Chẳng hạn như, các bạn vẫn còn nghĩ ông già Noel là có thật?

Nếu có thì xin chúc mừng các bạn, các bạn hẳn phải là những người rất lạc quan và tràn đầy niềm vui sống. Và hãy luôn giữ niềm tin đó, vì nó sẽ tiếp thêm cho bạn một sức mạnh to lớn để bạn bước tiếp, một cách vững chãi, trên đường đời.

Xin được kể câu chuyện của mình,

Đầu năm lớp 11 chẳng hiểu sao mình gặp vấn đề về Mắt. Bố mẹ mình phải đưa mình đi khắp mọi nơi, bệnh viện lớn bệnh viện nhỏ, bác sĩ Tây y, Đông y rồi thầy lang, ở quê rồi ở Hà Nội, đủ cả. Cứ nghe ai mách đâu có thầy giỏi là tới. Bệnh tật khiến mình phải nghỉ học nhiều, nhất là kỳ I của lớp 11.

Nhưng có thể khi đó mình đang ở tuổi bẻ gãy sừng trâu -cái tuổi cho con người ta một nguồn sinh lực dồi dào không tưởng- nên thời điểm đó mình không hề lo nghĩ đến cái gì tồi tệ hơn về mặt sức khỏe mà chỉ thấy thương bố mẹ và  sợ nghỉ học nhiều quá mất bài không theo kịp bạn bè :)). Thế nên dù mắt mũi nhức mỏi mình vẫn ráng tự học ở nhà. Không đến lớp học thêm được và ở trường thất thường bữa đi bữa nghỉ, thì mình đi mua một lô sách Ôn thi Đại học và tự nghiền ngẫm.

Lúc đó các bạn ạ, niềm mong mỏi được đi Hà Nội học  nó lớn khủng khiếp, và vì vậy nó giúp mình quên mẹ hết mọi đớn đau hay những ý nghĩ tiêu cực mà lao vào học bất cứ khi nào mình cảm thấy khỏe. Sau này mình mới nhận ra, người thầy tốt nhất của mình chính là Sách và Khả năng tự học. (Đến giờ mình vẫn nhớ trong đống sách mà mình tha về có bốn tập sách ôn tập về Vật lý phần Cơ, Điện và Quang (để thi Đại học) do một nhà xuất bản trong Tp.HCM phát hành vì nó quá là hay).

Nhưng mẹ thương mình nên hay quát nếu mình cứ suốt ngày sách vở. Sau nhiều ngày thuốc thang mà không thấy có kết quả gì nhiều, mẹ mới tìm đến ngôi chùa ở tận sâu trong một xóm núi gần nhà ông ngoại mình. Mẹ gửi mình vào đó (một cách tượng trưng) với niềm thành kính và tin tưởng Đức Phật sẽ mang trở lại cho mình sức khỏe. Suốt nhiều ngày sau đó, mẹ rất hay đi Chùa, lâu lâu cũng có đưa mình đi. Và dĩ nhiên, mình vẫn vừa đi học vừa đi chữa bệnh.

Sang đến giữa kỳ II năm lớp 11, như một điều kỳ diệu, mắt của mình bắt đầu bớt đi các dấu hiệu đau  nhức và khá dần lên. Và đến đầu năm lớp 12 thì mình gần như là khỏi hẳn, và lúc này mình đã trở lại hoàn toán với trạng thái khỏe mạnh để tập trung cho năm học quan trọng nhất của một đời học sinh.

Sau lần đó, mẹ mình trở thành Phật tử đúng nghĩa. Khi về hưu bà đã gần như trở thành người của nhà chủa. Còn mình, cũng phải thành thực, rằng mình chưa giác ngộ được như mẹ mình vì mình không  đi Chùa được thường xuyên. Nhưng trong thâm tâm mình đã luôn cố gắng học và làm theo những điều  tốt đẹp Phật dạy, như một sự biết ơn.

Và quan trọng, cũng như mẹ mình, mình đã có niềm tin vào phép nhiệm màu trong cuộc sống.

-Dù thế nào con vẫn luôn tin là Ông già Noel là có thật mẹ à, đó thực ra niềm mong mỏi của con nguười về những ước mơ sẽ trở thành hiện thực trong cuộc sống.

Bà cụ non nhà mình nói với mình câu này cũng lâu lắm rồi khi bả mới học hết lớp 5 :))

-Đúng rồi đó con, thế nên hãy để ông luôn tồn tại như một nhân vật có thực,  trong trái tim của tất cả chúng ta.

Nào, giờ thì các bạn hãy ước điều gì đi nhé, trong đêm Giáng sinh, hẳn là ông già Noel kiểu gì cũng xuất hiện và đem cho bạn phép nhiệm màu. Còn nếu chẳng may ông có hỏng xe dọc đường thì bạn cũng cứ hãy tin rằng vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời, Chúa sẽ thay Ông biến điều ước của bạn thành hiện thực.

Quà tặng của pháp sư

By Cynthia Brian

Hãy nhớ dành một vị trí đặc biệt trong trái tim bạn cho các đạo sĩ, những người đã tôn vinh Chúa Hài Đồng từ nhiều năm trước.

Tôi thật may mắn khi là con cả trong một gia đình có năm đứa trẻ có cha mẹ tin vào phép thuật. Chúng tôi lớn lên tại một trang trại ở miền bắc California và tôn vinh mọi thứ. Bởi vì nhà của chúng tôi có phần biệt lập nên truyền thống gia đình mà cha mẹ chúng tôi tạo ra đã là nền tảng cho tuổi thơ của tôi.

Một trong những ngày lễ như vậy là Đêm thứ mười hai, hay Ba vị vua thông thái, được tổ chức vào ngày 6 tháng 1. Cha mẹ người Thụy Sĩ gốc Ý của chúng tôi tiếp tục lễ kỷ niệm này để tôn vinh các Đạo sĩ, những người đã theo Ngôi sao Bê-lem đến thăm Hài nhi Giêsu hơn hai nghìn năm trước. Vì chúng tôi sống ở nông thôn nên mẹ luôn nói với chúng tôi rằng việc ba vị vua khôn ngoan đậu lạc đà bên ngoài nhà chúng tôi còn dễ hơn là một ngôi nhà trong thành phố. Chúng tôi không có lý do gì để không tin bà.

Chúng tôi yêu thích ngày “Ba vị vua thông thái” vì Magi khiến chúng tôi cảm thấy thật đặc biệt. Dường như không có ai khác trong trường chúng tôi được các vị vua Trung Đông này đến thăm khi màn đêm buông xuống. Và mặc dù truyền thuyết kể rằng Ba Vua đã mang đến cho Chúa Giê-su vàng, nhũ hương và thần thoại, nhưng chúng tôi rất vui khi nhận được một miếng trái cây, một ít kẹo và khoảng 25 xu tiền xu từ họ mỗi năm.

Theo những gì tôi có thể nhớ, bố mẹ tôi đã tạo ra phép thuật trong cuộc sống của chúng tôi. Một năm nọ, mẹ xin phép đi ăn tối. Khi bà rời khỏi bàn ăn, chúng tôi nhìn thấy một con lạc đà đang đi chậm rãi bên cửa sổ, cái bướu của nó nhấp nhô. Chúng tôi hét lên vì phấn khích và kinh ngạc khi biết rằng các vị vua đã đến!

Chúng tôi không nhận ra rằng mẹ đã mua một con lạc đà nhồi bông khổng lồ và ở bên ngoài di chuyển nó qua cửa sổ để duy trì phép thuật. Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy và thấy những chuỗi đồ trang sức lấp lánh được xâu khắp nơi trên bụi cây và dây leo quanh nhà. Để củng cố phép thuật, chúng tôi đã tìm thấy dấu móng lạc đà và một lượng lớn phân lạc đà bên cạnh ngôi nhà! Trên hết, chúng tôi tìm thấy một tờ ghi chú được đính kèm trên một trong những bụi cây. Lời nhắn là lời thông báo rằng đây là một năm tuyệt vời đối với các đạo sĩ, vì vậy họ đã quyết định chia sẻ tài sản của mình với chúng tôi.

Tôi nhớ rất rõ cảm giác vui sướng tột độ khi chúng tôi bước ra ngoài và nhìn thấy những viên ngọc lấp lánh treo trên cây! Tôi sẽ không bao giờ quên chuyện này. “Chúng ta đã giàu, chúng ta đã giàu!” Anh chị em tôi hét lên. Mặc dù chúng tôi yêu thích trái cây mà các đạo sĩ để lại cho chúng tôi, nhưng việc nhìn thấy những món trang sức lấp lánh trang trí cho cây thông của chúng tôi thật tuyệt vời. Chúng tôi nóng lòng đến trường để kể cho thầy cô và bạn bè về những món quà đặc biệt này. Chắc chắn những người khác đã trải nghiệm niềm vui của họ.

Nhưng không ai khác có.

Trên thực tế, cha mẹ khéo léo của chúng tôi đã tạo ra ảo ảnh chỉ dành cho chúng tôi bằng những đồ trang sức đã qua sử dụng từ Goodwill và phân ngựa từ chuồng ngựa của chúng tôi. Các nữ tu ở trường, nhớ lại ánh mắt kinh ngạc của chúng tôi khi kể lại câu chuyện, đã quyết định giữ bí mật về cha mẹ chúng tôi. Nhưng khi chúng tôi kể lại cho những đứa trẻ khác, chúng tôi lại nhận được những ánh mắt thất vọng. Trước sự thất vọng của chúng tôi, không ai trong số họ từng gặp phải sự giàu có như vậy trên cành cây của chúng tôi. Chúng tôi rất thất vọng vì bạn bè của chúng tôi không được các đạo sĩ ưu ái nên chúng tôi ngay lập tức chia chiến lợi phẩm của mình.

Chúng tôi được cha mẹ hết lòng yêu thương và mặc dù hiếm khi nhận được những món quà ông già Noel mà chúng tôi yêu cầu nhưng cuộc sống của chúng tôi có rất nhiều điều kỳ diệu đến nỗi chúng tôi không nhận ra rằng mình nghèo. Vào đêm Giáng sinh, rúc trong chăn, khi nghe thấy tiếng chuông xe trượt tuyết leng keng của ông già Noel và tiếng khịt mũi của đàn tuần lộc trên mái nhà, chúng tôi đã mím chặt mí mắt lại một cách hạnh phúc. Ngay khi bình minh lên, chúng tôi chạy xuống lò sưởi – nguồn sưởi ấm duy nhất trong nhà – và ngắm nhìn những món quà dưới gốc cây trong khi sưởi ấm.

Chúng tôi luôn cố gắng che giấu sự thất vọng của mình trước số lượng quà ít ỏi, nhưng chúng tôi không thành công lắm. Nhìn thấy sự thất vọng của chúng tôi, bố đảm bảo với chúng tôi rằng năm đó chúng tôi là những đứa trẻ rất ngoan. Sau đó, bố sẽ nói thêm rằng vì ông già Noel không để bất cứ thứ gì dưới gốc cây nên có lẽ chúng ta nên đi vòng quanh trang trại để xem ông già Noel có đánh rơi thứ gì từ chiếc xe trượt tuyết của mình khi ông bay qua không.

Đảm bảo đủ! Ở dưới nhà kho hay treo lủng lẳng trên cây thông sẽ là một vài món quà đặc biệt dành cho chúng tôi. Một lần. Một chiếc xe đạp nhô ra khỏi ống khói với tờ giấy kèm theo có nội dung: Xin lỗi, nó không chịu tuột xuống.

Ngày nay, các con tôi thích thú với điều kỳ diệu mà chúng trải nghiệm quanh năm trong gia đình chúng tôi. Ba vị vua khôn ngoan luôn tìm cách đến thăm, để lại đằng sau những viên ngọc hoặc đồng xu ngọt ngào cũng như lung linh. Và mặc dù chúng tôi sống trong một trang trại nhỏ, nhưng nhờ phép thuật mà cha mẹ tôi đã truyền cho tôi, chúng tôi đã tổ chức được một số chuyến thăm lạc đà khá thuyết phục.

Nhật ký William,

Dec 24

Chắc có lẽ thời tiết cũng có điều ước của nó và ông già Noel không có cớ gì để không biến điều ước đó thành sự thật. Bạn sẽ đồng ý với tôi vì sau cả mấy tuần nắng nóng thì hôm nay, từ sáng đến giờ đã sắp cuối giờ chiều bao trùm lên tất cả là một kiểu thời tiết Giáng sinh đậm đặc. Trời không có nắng, âm u và thảng trong khí lạnh  những cơn gió nhẹ lướt qua  đủ cho lòng người thêm phần xao xuyến.

From: Leo

William thân mến,

Tao viết cho mày những dòng này khi đang ở phòng thí nghiệm mang tên “Sự kỳ diệu của Trái tim”. Mày có thấy ngạc nhiên không? Một phòng thí nghiệm sinh hóa vốn khô khan mà lại được đặt tên nghe “rung rinh” thế :)). Thì đó, mới chính là tao :))

Tất nhiên tao không phải là mày, dù có ngồi vắt não cũng không thể cho ra đời một bài thơ về  “trái tim” để có thể làm rung động các độc giả. Chính vì vậy tao phải lựa chọn con đường khác, vòng vèo và khó khăn hơn: Nghiên cứu về trái tim một cách trực diện nhất, dưới góc độ của y học. Tao hy vọng nó đồng thời cũng giúp chữa trị được phần nào căn bệnh mãn tính mà tao mắc phải: “Bệnh yếu tim” (khi đứng trước các bóng hồng :)).

Mày biết đấy, tim có nhiệm vụ bơm máu đi khắp các bộ phận của cơ thể. Mà khi nói đến máu nghĩa là nói đến màu đỏ, như bài thơ mà cô Happy đã đọc cho chúng mình nghe trong giờ Sinh năm ngoái đó mày còn nhớ không?

“Mà nói vậy: “Trái tim anh đó

Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:

…………………………………………………..

(Tao đồ có lẽ bài thơ đó là dành đặc biệt cho mày và nàng Gấu nhà mày :)).

Thật ra, màu đỏ chính là màu của Giáng sinh. Nó là màu sắc mạnh mẽ, được cho là tượng trưng cho máu của Chúa Giêsu khi Ngài chết trên thập tự giá.

Nó  là màu áo choàng của Giám mục và của ông già Noel!

Nó  là màu của lửa và than hồng, có thể giữ ấm cho chúng ta trong mùa đông lạnh giá.

Nó còn là màu của những quả táo trên cây thiên đường, đại diện cho sự sa ngã của Adam trong các vở kịch.

Cá nhân, tao còn thích những cây trạng nguyên màu đó. Vì thế mùa Giáng sinh này tao đã mua mấy chậu Trạng nguyên để trước hiên nhà. Nhưng tao vẫn cảm thấy thiếu thiếu cái gì mà mãi đến sáng nay, trong khí trời đẹp dịu dàng, tao mới tìm ra nên vội vã phi đi mua. Mày biết cái gì không? Là một cái khăn quàng cổ màu đỏ. Kệ, chúng mày thích khăn mùi soa thì tao thích khăn len màu đỏ :)).

Cho mày biết thêm, kể từ dạo thất bại với “Thử thách Bảy ngày” giờ đây tao vui vẻ với cuộc sống “single” và chí thú vào sự nghiệp nghiên cứu ‘Con tim” :))

Thế nên, về lời đề nghị của mày “Làm bài phân tích về đời sống tinh thần của gen Z  chúng ta trong thời đại AI” , tao nghĩ tao có thể vui vẻ mà nhận lời. Nhưng tao cũng muốn mày hiểu thêm là tao chỉ có khả năng cảm nhận trong phạm vi hạn hẹp vấn đề của “con tim” thôi chứ những thứ khác e vượt quá hiểu biết :)).

Trong tuần sau tao sẽ có bài gửi cho mày đặng đáp ứng được thời hạn mà thằng Monster đưa ra. Nó thì cứ hay vẽ vời trong khi mỗi chuyện cỏn con lo cho mày cái hôn lễ thì cứ khất lần khất nữa. Tao đồ đợi nó xuống núi được thì mày cũng …rụng hết răng rồi, cưới xin gì nữa :)).

Thôi nhé, chúc mảy Giáng sinh vui vẻ!

P/S: Tao khuyên chúng mày thay từ “Sư tử” bằng từ khác ngọt ngào hơn đi, “Gấu”chẳng hạn. Ai lại cứ mở miệng ra là sư tử, sư tử nghe chán chết đi được :)).

Đọc xong thư của Leo, tôi off máy và nhân việc nó nhắc đến sắc đỏ, tôi lôi từ trong ngăn kéo tủ ra vài quả châu màu đỏ treo thêm lên cây thông Noel. Màu đỏ luôn là màu của may mắn và tôi hy vọng mình sẽ luôn gặp được nhiều may mắn trong năm mới này.

Đúng lúc đó thì chuông cửa nhà tôi réo inh lên. Tôi chạy xuống lầu mở cửa. Thật bất ngờ, trước mặt tôi là một cây thông xanh rì tuyệt đẹp. Kèm theo là một bức thư, chẳng thấy đề nơi gửi nhưng chỉ cần nhìn chữ tôi nhận ra được ngay nó đến từ ai:

Gửi thi sĩ William,

Tao biết hôm nay là ngày lễ trọng đại đối với mày và gia đình, vậy nên xin mày hãy nhận món quà nhỏ này từ tao như  lời chúc giáng sinh an lành.

Cây thông này tao vừa thu hoạch từ khu rừng nơi tao đang cư ngụ, mới trong sáng nay thôi. Ôi, thật sự tao không kiếm đâu ra từ để miêu tả cái cảm giác tuyệt vời khi đứng giữa một rừng thông ngay trong ngày Giáng sinh.

Không phải ngẫu nhiên mà siêu sao Taylor Swift đã có những sáng tác mê hoặc lòng người đâu. Chúng mày sẽ hiểu lý do khi đọc về tuổi thơ của cô ấy, như những gì cô Mây về gió cổ đã viết về thần tượng của mình trên tạp chí Rolling Stones gần đây, tao xin trích ngắn gọn:

…………………………

Nhiều người bảo rằng, chính trang trại trồng thông ở Pennsylvania – nơi Taylor được sinh ra và lớn lên, chính là nơi đã ươm mầm và đem đến một Taylor Swift như ngày hôm nay: với tầm nhìn rộng trong âm nhạc (để người hâm mộ vẫn luôn hào hứng mong chờ mỗi khi cô nàng “nhấp nhá” tung ra ca khúc mới), một độ nhạy về cảm xúc sáng tác, trái tim chứa đầy những điều diệu kỳ đôi khi mơ mộng, thậm chí cả… sở thích làm bánh cookie của cô nàng.

Trong một phỏng vấn với Rolling Stone, Taylor từng chia sẻ: “Tôi có một tuổi thơ vô cùng huyền diệu, bay nhảy tự do và chạy đến bất kỳ đâu mà tôi mường tượng ra trong đầu. Chính những ngày tháng đó đã đọng lại trong tôi sâu đậm đến mức, tôi gần như quá khích mỗi khi mùa thu về và sau đó chính là mùa Giáng sinh. Bạn bè tôi muốn phát điên mỗi khi tôi lại nói về việc mùa thu sắp đến rồi. Họ cứ như thể “Cậu là gì thế, một yêu tinh Giáng sinh hả?”.

Thậm chí, những tháng ngày còn ở trang trại thông, Taylor còn vui vẻ với công việc đi nhặt những cái kén  bọ gậy để chúng không nở ra và “tấn công” nhà của mọi người. Tuổi thơ với một trang trại, đậm chất “holiday season”, dễ mộng mơ đã nuôi lớn trong cô ca sĩ một tâm hồn phóng khoáng chất nghệ sĩ ngày hôm nay.

Sinh ra đã gắn liền ít nhiều với âm nhạc, lớn lên ở trang trại đầy mộng mơ và phóng khoáng – đến tuổi niên thiếu, âm nhạc trong Taylor cứ như vậy mà tự nhiên bung trào.

………………………………..

Tao rất thích hình ảnh của cây thông như là một biểu tượng nổi bật nhất khi nghĩ về một lễ Giáng sinh.

Tại sao lại như vậy ? Tại sao  chúng ta lại  trang trí cây thông vào dịp Giáng sinh ? Có lạ không khi bạn cảm thấy bắt buộc phải mang một cái cây vào nhà hàng năm chỉ để dỡ bỏ nó một tháng sau đó? Không ai biết chắc chắn tại sao cả.

Dựa trên bằng chứng lịch sử, thật khó để nói ai đã bắt đầu truyền thống này. Tuy nhiên, nhiều truyền thống về cây Giáng sinh tôn vinh Chúa Jesus, và do đó nó có thể khuyến khích chúng ta tiếp tục những truyền thống như vậy. Trong khi con người đã trang trí cây thông từ hàng trăm năm nay thì nhà truyền giáo người Đức Martin Luther ở thế kỷ 16 là người đầu tiên được cho là đã mang cây thông vào nhà để trang trí cho lễ Giáng sinh.

Chuyện kể rằng, một đêm trước lễ Giáng sinh, Martin đang đi dạo trong rừng và nhìn lên thì thấy những ngôi sao lấp lánh xuyên qua những cành thông. Đẹp đến nỗi ông đã mang cây về nhà. Ông nói với các con rằng điều đó làm ông nhớ đến Chúa Jesus, Đấng đã rời bỏ các vì sao trên trời để đến trần gian vào dịp Giáng sinh.

Martin và gia đình treo nến trên cây để trang trí nhằm nhắc nhở họ về Chúa Jesus vì Người là ánh sáng thế gian. Vào giữa những năm 1800, việc trang trí cây thông vào dịp Giáng sinh đã trở nên phổ biến đến mức Nhà vua và Nữ hoàng Anh bắt đầu trang trí cây thông Giáng sinh.

 

Câu chuyện về Martin Luther là một trong nhiều câu chuyện giúp chúng ta hiểu được một khía cạnh về sự khởi đầu của truyền thống Giáng sinh này. Tuy nhiên, những câu chuyện về cây thông Noel khác xung quanh truyền thống cây thông Noel của chúng ta cho chúng ta hiểu biết hơi khác về lý do tại sao chúng ta trang trí cây thông vào dịp Giáng sinh.

Một là, trong khi những cây khác trông có vẻ chết trong mùa đông thì cây thông vẫn khỏe mạnh và sống động. Ngay sau khi mùa thu bắt đầu, thì cây cối cũng bắt đầu rụng lá, riêng cây thông thì không. Trong những tháng mùa đông, bạn có thể nhìn xuyên qua khu rừng và thấy rằng cây thông vẫn mang một màu xanh khỏe mạnh. Cây thông luôn sống động. Giống như cây thông luôn sống, Chúa Jesus vẫn sống mãi mãi. Giống như mùa đông sẽ không ngăn cản được cây thông, cái chết sẽ không ngăn cản được Chúa Jesus.

Hai là, cây thông hướng tới thiên đường. Trong khi tất cả các cây khác đều rậm rạp và rộng ở phần trên thì phần ngọn của cây thông lại thu hẹp lại chỉ còn một nhánh duy nhất. Nó có hình dạng như một mũi tên, hướng lên trời. Dấu chỉ này nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lên trời. Chúa Jesus đến thế gian này để chết vì tội lỗi của chúng ta như một người đầy tớ và Ngài sẽ trở lại làm Vua từ trời cao.

Ba là, cây thông xanh nhắc nhở chúng ta hãy mong chờ một thời điểm mà những cây khác sẽ sống lại. Cây thông là biểu tượng của niềm hy vọng rằng mùa xuân sẽ mang lại sức sống cho những cây khác. Giống như cây thông khiến chúng ta mong đợi sự sống mới vào mùa Xuân, Chúa Jesus khuyến khích chúng ta mong đợi sự sống mới trong Ngài.

Màu của cây thông là màu xanh. Đó là màu của niềm tin và hy vọng. Và tao muốn mày hiểu rằng, mày cứ yên tâm chắc chắc sẽ có ngày tao xuống núi và chủ trì cho sự kiện trọng đại của mày.

P/S: Không đến nỗi tận khi mày rụng răng đâu, thằng Leo nó cứ dọa máy thế :)).

Nhưng cụ thể ngày tháng năm nào thì mày cho tao “bí mật”. Cuộc sống cứ phải có chút “secret” nó mới vui chứ đúng không, việc của mày là hãy cứ vui vẻ chờ đợi và…hy vọng!

Một lần nữa, chúc tất cả chúng mày một mùa Giáng sinh an lành!

Và nhớ gửi báo cáo cho tao đúng hạn :))

Monster

Hiện tại tưởng chừng như vô nghĩa

By Naomi Levine 

Tận hưởng niềm vui đặc biệt khi chia sẻ máng cỏ Giáng sinh với bạn bè và gia đình bằng cách đặt nó ở một vị trí nổi bật trong nhà bạn trong những ngày nghỉ lễ 

Một lớp tuyết mỏng đang rơi trên Đường cao tốc Long Island khi tôi lái xe đến Manhattan vào buổi tối tôi rời nhà ở Bayside, Queens. Để tránh phải lái xe vào đêm khuya, tôi đã thuê một căn hộ studio gần Nhà hát Diễn viên West Side, nơi tôi tham gia các lớp học, diễn tập và biểu diễn hầu hết các buổi tối. Alan, một diễn viên kịch, đã mượn xe tải của sếp để vận chuyển hai chiếc ghế sofa và bàn, ghế, tủ nhỏ và tủ sách của tôi. Richard, Santiago, Jimmy và Paul đã tham gia giúp đỡ.

Từ nơi xa xôi như Omaha, Nebraska, cho đến nơi gần như Fair Lawn, New Jersey, các thành viên trong đoàn kịch của chúng tôi đã gắn kết thành một gia đình sân khấu – luôn sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau.Là một người mới cải đạo từ Do Thái giáo, tôi đã mời nhiều người bạn Giáng sinh và người Do Thái này đến ăn mừng Đêm Giáng sinh với tôi. Những người đến sớm, Jill, MaryAnn và Eddie đang ở nhà tôi lúc chín giờ thì có tiếng gõ cửa. Cẩn thận đặt ly rượu của mình lên trên tủ sách, giữa bể cá và máng cỏ, tôi bước vài bước ra cửa. Khi tôi mở cửa, Alan bước vào với một cây thông Noel nhỏ. Thật là một món quà thú vị và bất ngờ!

Tất cả chúng tôi cùng tham gia sắp xếp cái cây nhỏ trên chiếc bàn gần cửa sổ. Sau đó Alan ngồi chung vui với chúng tôi một lúc,  anh nói rằng mình luôn làm việc bán thời gian trước kỳ nghỉ để bán cây Giáng sinh và rằng anh không thể ở lại lâu vì ông chủ của anh mong anh ấy sẽ vứt bỏ số cây không bán được vào một khu rừng dọc sông Hudson. Một lúc sau, Eddie đề nghị để tránh lãng phí anh nên quyên góp số cây còn lại cho một mục đích chính đáng. “Hãy đem tặng chúng,” Eddie mỉm cười nói. Tất cả chúng tôi đều nghĩ đó là một ý tưởng tuyệt vời nhưng nhận ra đó không phải là quyết định của chúng tôi. Alan sẽ làm những gì anh ấy cho là đúng.

Sau khi Alan rời đi, tôi tìm thấy một hộp ruy băng và một chiếc kéo. Jill và MaryAnn dùng chúng để làm những chiếc nơ nhỏ trang trí cây thông, trong khi Eddie gảy đàn ghi-ta, còn tôi thì chuẩn bị món khai vị trong góc bếp. Khi những người bạn khác đến, họ cùng tham gia vui chơi và giúp trang trí cây thông.

Một giờ sau, lại có tiếng gõ cửa. Lại là Alan, tất cả đều mỉm cười. “Tôi đã nghe theo lời khuyên của Eddie,” anh nói. “Đỗ xe ở góc đường Chín mươi hai… người qua đường rất ngạc nhiên, vui mừng và thực sự hạnh phúc khi được nhận cây thông Noel miễn phí. Sau đó, một người quay phim truyền hình đã dừng lại và quay phim chúng tôi trong câu chuyện đặc biệt của ông ta về cách người dân New York trải qua đêm Giáng sinh. Nó sẽ được đăng trên Bản tin 11 giờ!”

Alan thực sự đã xuất hiện trên màn hình tivi đêm đó. Chúng tôi reo hò khi thấy anh  vẫy đôi bàn tay vẫn đeo găng trong không khí và nói lớn: “Cây Giáng sinh miễn phí! Hãy bước lên và lấy cây mà bạn muốn.” Mọi người cười vui vẻ trước ống kính và hét lên: “Giáng sinh vui vẻ!” khi họ về nhà, và mang những cây thông Noel đã được giải cứu khỏi bãi rác. Qua khóe mắt, tôi quan sát Alan và Eddie đập tay nhau. Tôi mỉm cười hạnh phúc. Đây chính là ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh.

Gần đó, được khắc trong ánh đèn dịu nhẹ, là món quà Giáng sinh tưởng chừng như tầm thường mà Alan đã tặng tôi vài giờ trước. Cây thông Noel nhỏ bé bình thường này, bây giờ được trang trí bằng những chiếc nơ màu đỏ và trắng, đã bắt đầu tuôn trào tinh thần thực sự của lễ Giáng sinh.

Tôi cảm thấy lòng mình bừng lên hơi ấm, cả từ rượu lẫn từ việc biết rằng nhiều gia đình sống gần góc Phố Chín mươi hai – được tặng cùng một món quà Giáng sinh có vẻ tầm thường như tôi – cũng giống như tôi, đang nhìn món quà của họ, với nụ cười tương tự trên khuôn mặt của họ. Tôi biết những cái cây của họ cũng được khắc sâu trong ánh sáng chiếu từ cửa sổ nhà họ.

Và tôi biết, với sự chắc chắn rằng chỉ có phép thuật Giáng sinh mới có thể mang lại, rằng cũng giống như tôi, món quà của họ không hề tầm thường chút nào. Kể từ đó, vào mỗi dịp Giáng sinh, những lời nhắc nhở nhẹ nhàng trong suốt mùa lại gợi lại ký ức về ngày lễ đặc biệt đó khi tình yêu xuất phát từ trái tim của một người đã bao bọc rất nhiều người.

December 24, 2023 0 Bình luận
0 FacebookTwitterPinterestEmail
  • 1
  • …
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • …
  • 15

Bài viết mới nhất

  • Giọt nước mắt bay lên
  • Chả dại gì em ước nó bằng vàng
  • Những cơn gió của thiên đường
  • Tản mạn đầu Xuân
  • Con chim bồ câu bé nhỏ

About Me

About Me

RosenKactus@gmail.com

Keep in touch

Facebook Twitter Instagram Pinterest Tumblr Youtube Bloglovin Snapchat

Bài viết nổi bật

  • Giọt nước mắt bay lên

    March 5, 2025
  • Chả dại gì em ước nó bằng vàng

    February 26, 2025
  • Những cơn gió của thiên đường

    February 19, 2025
  • Tản mạn đầu Xuân

    February 12, 2025
  • Con chim bồ câu bé nhỏ

    February 5, 2025

Chuyên mục nổi bật

  • Cactus (19)
  • Film (8)
  • Rose (150)
  • Stories (15)
  • Uncategorized (2)

About me

banner
RosenKactus@gmail.com

Bài nổi bật

  • 1

    Tạm biệt 2023….. (1)

    December 28, 2023
  • 2

    Cảm xúc Thu – Dạo bước trên Mây (6)

    September 30, 2023
  • 3

    ….Xin chào 2024 (1)

    January 1, 2024
  • Facebook
  • Instagram
  • Pinterest
  • Youtube
  • Email
  • Tiktok

@2023 - All Right Reserved. Designed and Developed by YVS Digital


Back To Top
Rose and Cactus Blog
  • Home
  • About me
  • Rose
  • Cactus
  • Books
  • Stories
  • Film
  • English