“A Walk in the Clouds” (Dạo bước trên Mây), được sản xuất vào giữa thập niên 90 của thế kỷ trước, một thời kỷ mà cả điện ảnh và âm nhạc Mỹ được đánh giá đạt được sự phát triển rực rỡ và hoàng kim nhất (dĩ nhiên, xét về tổng thể, hiện nay vẫn chưa có quốc gia nào qua mặt được Mỹ trong hai lĩnh vực này, NHƯNG, cường quốc số 1 thế giới đã có một bước lùi nhẹ so với chính bản thân nó trước đây, cảm nhận cá nhân mình).
Rất nhiều các tên tuổi lớn, các ca sĩ, đạo diễn, diễn viên cũng các tác phẩm bất hủ của họ được xem là những tượng đài trong lịch sử ngành nghệ thuật biểu diễn.
Thập kỷ 90, thời điểm mà thế giới đã có bước tiến lớn về khoa học công nghệ, kinh tế phát triển vượt bậc nhưng xã hội lại chưa bị xâm lấn sâu rộng bởi Internet. Trong công nghiệp điện ảnh, thì các kỹ xảo chưa được lạm dụng một cách quá đà nên xem phim chúng ta nhận ra ngay độ chân thực và trau chuốt hơn hẳn các phim ở thế kỷ 21. Titanic là một điển hình, cho một tác phẩm điện ảnh thập niên 90 thành công cả về nghệ thuật và thương mại, làm say đắm bất kỳ ai yêu thích bộ môn nghệ thuật này.
Mình xem “A walk in the clouds” vào năm mà Titanic được công chiếu trên toàn cầu, 1997. Một bộ phim thuộc dòng phim Romance đặc trưng kiểu Mỹ. Bối cảnh lịch sử là nước Mỹ ở thập niên 40, ngay sau khi chiến tranh thế giới kết thúc. Để ý thì thấy, những năm 90 rất rất nhiều các bộ phim kinh điển đề cập đến giai đoạn trước và sau cuộc chiến đệ nhị này. Cũng dễ hiểu vì phần lớn các đạo diễn sinh ra và lớn lên ở giai đoạn được xem là xấu xí bậc nhất trong lịch sử sinh tồn của loài người khi con người lao vào hỗn chiến chí mạng với những lý do vô nghĩa, để rồi suýt rơi vào thảm cảnh diệt chủng hàng loạt.
Trên con tàu lớn cập cảng, có lẽ nằm tại bang trù phú, rộng lớn thuộc bờ Tây trông ra Thái Bình Dương, California, Paul (Keanu Reeves), một trung sĩ thuộc lực lượng Quân đội Mỹ tham chiến tại Châu Âu cùng nhiều đồng đội của mình trở về quê hương sau khi chiến tranh chấm dứt. Đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa phát xít và chiến thắng cho những lực lượng yêu hoà bình thế giới.
Như bao người lính, anh rời khỏi cuộc chiến với niềm hạnh phúc khôn tả vì sẽ được đoàn tụ với người thân sau bao binh đao khói lửa ngoài mặt trận, thứ đã ám ảnh nhiều người lính trong suốt cuộc đời sau này của họ. Quê nhà đón anh vào một ngày Thu Đông mưa lạnh. Khung cảnh u ám ảm đạm càng khiến người lính buồn hơn, khi các bạn của mình ai cũng được người thân ra đón,
Ngoại trừ anh.
Nhưng chàng lính trẻ ấy còn phải đối diện với thực tế phũ phàng hơn nữa, khi va phải sự lạnh nhạt, thờ ơ và đầy toan tính của người con gái anh yêu. Người mà anh đã dành bao nhiêu thời gian và tình cảm để viết cho cô những lá thư chan chứa nỗi nhớ nhung, dù cho lúc đó anh đang ở vào hoàn cảnh mà sự sống và cái chết thực sự chỉ là những lằn ranh mỏng mảnh.
Trớ trêu, những tình cảm đó hoàn toàn không được đáp lại một cách xứng đáng, những bức thư có đến được tay người nhận, nhưng đã không bao giờ được mở ra. Chúng được lèn chặt trong một cái hộp kín. Đến tắc thở, như mối tình tưởng sẽ được đóng dấu bằng một cái kết viên mãn ấy. Có lẽ sự hụt hẫng, cảm giác tổn thương là thứ ngập tràn trong trái tim của chàng trai trẻ.
Anh gần như không nói được gì trong khi cô bạn gái thì liến thoắng bào chữa cho hành động của mình. Ở đây chúng ta có thể nhận ra cách đạo diễn xây dựng hình ảnh cho cô bạn gái, một cô gái tóc vàng hoe điển hình Mỹ, hao hao minh tinh Marilyn Monroe cùng thời. Nóng bỏng, quyến rũ và quan trọng hơn, cực kỳ vật chất, đúng chất “Material girl” trong một xã hội tư bản kiểu Mỹ.
Chàng lính trở về từ cuộc chiến, và chưa biết phải đi tiếp hành trình sự nghiệp thế nào, dù trước đó anh đã từng là một nhân viên bán hàng. Một mặt hàng, là sự pha trộn hai vị trái ngược, Ngọt và Đắng.
Chocolate.
Nó như gia vị trong tình yêu của anh với cô gái đang đứng trước mặt mình. Ban đầu thì đầy ngọt ngào, dù có khi chỉ là trong tưởng tượng. Và sau đó, thì những ảo ảnh lấp lánh, đẹp đẽ đó dần trôi xa. Chúng, dù chẳng đăp vào cái gì cả, cũng vỡ tan để lộ ra thực tại đau đớn, đắng chát như vị của loại kẹo được xem là biểu tượng cho tình yêu này.
Cô không chào đón anh với tâm hồn của một cô gái trẻ đang yêu, một tình yêu thuần khiết, mà là sự lọc lõi của một người đàn bà tham lam, đầu óc chỉ nghĩ đến Tiền. Mụ già đội lốt trẻ thơ đó, trong những phút giây đầu tiên gặp lại bạn trai sau thời gian dài xa cách, không màng gì ngoài việc thúc ép ngừoi chồng tương lai hãy mau mau đi kiếm tiền cho mụ, càng nhiều càng ít, càng sớm càng hay để mụ được tận hưởng những tiện nghi mà mụ luôn khao khát, bù đắp cho một tuổi thơ đầy thiếu thốn.
Chỉ một phân đoạn đối thoại ngắn ngủi trong không gian của căn phòng nhỏ bé nằm trong một đất nước rộng lớn, nhưng ta có thể cảm nhận được rất nhiều. Về tình yêu, cuộc sống và nước Mỹ, của những năm tháng đã qua.
Mình xin lấy câu nói của cô bạn gái anh lính, trong những phân cảnh đầu tiên của bộ phim, làm chương mục nhỏ số 1 trong “Dạo bước trong Mây”. Chương mục này là loạt bài về bối cảnh lịch sử của nước Mỹ trong những năm 40 và một vài suy nghĩ về khái niệm và giá trị của Tiền trong cuộc sống. Nghe chẳng romance chút nào đúng không các bạn nhưng đời là thế, thôi cứ đắng cay trước thì sẽ ngọt ngào sau :)). Vả lại, ngoài sự hợp lí theo diễn biến tuần tự của phim thì nói đến MỸ không gì màu sắc hơn là nói đến TIỀN.
Betty đã đáp lại Paul, ngừoi yêu của cô, trong “A Walk in the Clouds”, thế này:
THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC NHƯNG EM THÍCH CỦA CẢI HƠN!
“THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC NHƯNG EM THÍCH CỦA CẢI HƠN!”
(A Walk in the Clouds)
Daily life in the United States, 1940-1959
By Kaledin, Eugenia
1.
Cố gắng hiểu ý nghĩa của mỗi thập kỷ trong lịch sử của bất kỳ quốc gia nào – ngay cả ở một quốc gia có quá khứ ngắn ngủi như Hoa Kỳ – cũng giống như việc cố gắng đưa ra quyết định mười năm nào là quan trọng nhất trong cuộc đời của mỗi người trưởng thành.
Bây giờ chúng ta biết rằng ngay cả những tháng đầu tiên của trẻ sơ sinh cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc xác định cách mọi người nhìn nhận bản thân khi trưởng thành, và chúng ta cũng đã nhận ra rằng các cá nhân có thể được định hình ở mức độ lớn thế nào bởi các lực lượng kinh tế và xã hội rộng lớn .
Con cái của những bậc cha mẹ từng trải qua cuộc Đại suy thoái những năm 1930 sẽ luôn nhận thức được rằng những người làm việc chăm chỉ với kỹ năng thực sự có thể không tìm được công việc phù hợp ngay cả ở một đất nước giàu tài nguyên như Hoa Kỳ. Nhiều người phải vật lộn để sống tử tế đã biết đến các tiến sĩ, những người rất may mắn khi tìm được công việc giảng dạy ở trường trung học và các kỹ sư bán khăn trải giường trong các cửa hàng tân phẩm hoặc làm việc ở bưu điện, vui mừng vì có thu nhập để nuôi sống gia đình.
Lớn lên vào những năm 30 và đầu những năm 40, trẻ em không chỉ phải đối mặt với những cựu chiến binh bị thương tật trong Thế chiến thứ nhất ăn xin ở các góc phố mà còn chứng kiến một tầng lớp thất nghiệp mới, bán táo hay xách vali đựng dây giày hoặc giẻ lau bát đĩa từ nhà này sang nhà khác, tuyệt vọng, dù cho chỉ để kiếm một số tiền nhỏ.
Báo chí muốn quảng cáo việc làm thực tế – phân chia theo giới tính – thường xuyên biến mất hoàn toàn trong thời kỳ Suy thoái. Thay vào đó, mạng lưới bếp ăn của nhà thờ và các hiệp hội súp có tổ chức đã xuất hiện để giúp đỡ những người vô gia cư và thất nghiệp sẵn sàng xếp hàng dài chờ đợi để xua tan cơn đói.
“Người anh em, Bạn có thể cho tôi một xu?” là một bài hát hấp dẫn mà nhiều bạn trẻ có thể đã nghe mà không hiểu ý nghĩa kinh tế của nó. Một xu vào những năm 1930 đã mua được một tách cà phê và một chiếc bánh rán.
“Ngừoi anh em, bạn có thể dành một xu?” (Brother can you spare a dime?) là một trong những bài hát nổi tiếng nhất của Mỹ về cuộc Đại suy thoái. Được viết lời bởi Yip Harburg và nhà soạn nhạc Jay Gorney, nó là một phần của vở nhạc kịch Americana năm 1932; giai điệu dựa trên một bài hát ru của người Nga-Do Thái.
Bài hát kể về câu chuyện của một con người bình thường, những người làm việc lương thiện nhằm đạt được giấc mơ Mỹ đã bị phá sản bởi sự sụp đổ kinh tế. Điều bất thường đối với một bài hát Broadway là nó được sáng tác chủ yếu bằng cung thứ.
Bài hát được biết đến nhiều nhất qua các bản thu âm của Bing Crosby và Rudy Vallée được phát hành vào cuối năm 1932. Bài hát nhận được nhiều đánh giá tích cực và là một trong những bài hát nổi tiếng nhất năm 1932. Là một trong số ít bài hát nổi tiếng trong thời đại đề cập đến những điều đen tối hơn. khía cạnh của sự sụp đổ, nó được coi như một bài ca của cuộc Đại suy thoái.
Once I built a railroad, made it run
Made it race against time
Once I built a rairoad, now it’s done
Brother can you spare a dime?
Once I built a tower to the sun
Brick and rivet and lime
Once I built a tower, now it’s done
Brother can you spare a dime?
Once in khaki suits
Gee, we looked swell
Full of that yankee Doodle De Dum
Half a million boots went slogging through hell
I was the kid with the drumSay don’t you remember, they called me Al
It was Al all the time
Say don’t you remember, I’m your pal
Brother can you spare a dime?Once in khaki suits
Gee, we looked swellFull of that yankee Doodle De Dum
Half a million boots went slogging through hell
I was the kid with the drumSay don’t you remember, they called me Al
It was Al all the time
Say don’t you remember, I’m your pal
Brother can you spare a dime?
Buddy can you spare a dime?
Khi Tổng thống Franklin Roosevelt thừa nhận trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai năm 1937 rằng một phần ba dân số đất nước thiếu nhà ở, thiếu ăn và thiếu quần áo, lời hứa của ông là sẽ hành động quyết liệt để chống lại sự thất bại của các hệ thống đã được hầu hết người Mỹ hoan nghênh, háo hức có được một “thỏa thuận mới” trong cuộc sống của chính họ – ngay cả khi những thay đổi đồng nghĩa với việc chính phủ kiểm soát chặt chẽ hơn.
Chính sách Kinh tế Mới của Franklin D. Roosevelt được thiết kế để điều chỉnh chính sách tiền tệ và tạo việc làm. Chính quyền mới đã thành lập một loạt các cơ quan chính phủ. Cơ quan Quản lý Dự án Công trình, Đạo luật phục hồi quốc gia, Quân đoàn Bảo tồn Dân sự, Cơ quan Quản lý Thanh niên Quốc gia và các tổ chức văn nghệ sĩ như Dự án Nhà hát Liên bang đã tạo việc làm cho những công dân tài năng không tìm được việc làm.
Vào những năm 1930, những người lao động phổ thông đã xây dựng các dự án đường sá và nhà ở; các kỹ sư đã thiết kế những cây cầu và đập mới cũng như những tuyến đường thủy tuyệt đẹp như Riverwalk, địa điểm du lịch nổi tiếng ở San Antonio, Texas và con đường núi dẫn đến Hẻm núi Sabino ở Tucson, Arizona.
Các nghệ sĩ đã vẽ những bức tranh tường lịch sử trên tường toà nhà bưu điện và trong các tòa nhà công cộng; các nhà văn đã chuẩn bị những cuốn sách chỉ dẫn một nhà nước hiệu quả; và các học giả về phong cách dân gian đã lập danh mục các nguồn tài nguyên văn hóa của người Mỹ bản địa và nông thôn với sự trợ cấp của chính phủ.
Mặc dù một số người phàn nàn về tình trạng quan liêu quá mức và sự can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực nghệ thuật – một chủ đề vẫn còn được tranh luận, nhưng có chút nghi ngờ rằng phần lớn tác phẩm được hỗ trợ vào thời điểm này đã giúp nhiều nghệ sĩ và nhà văn nghiêm túc tồn tại. Và khi bước sang thế kỷ 21, người dân Mỹ tiếp tục yêu thích các bức tranh tường ở bưu điện và tận dụng các kho lưu trữ âm nhạc cũng như các cơ sở công cộng do chi tiêu của Chính sách Mới tạo ra.
Vào năm 1938, khi Thornton Wilder sản xuất bộ phim, có lẽ vẫn là bộ phim truyền hình Mỹ nổi tiếng nhất thế kỷ 20, Thị trấn của chúng ta (Our town), hầu hết người Mỹ đều có thể đồng cảm với cảm giác về tình hàng xóm trong khu phố mà Grover’s Corners, New Hampshine, bối cảnh thần thoại của ông, đại diện.
Việc một nhân vật gửi thư đến một con phố trong một thị trấn, một tiểu bang, một đất nước, ở một bán cầu, trên trái đất, trong vũ trụ, trong hệ mặt trời, trong tâm trí của Chúa, nhắc nhở khán giả về sự kết nối của cả hai, con người và tôn giáo.
Trong vở kịch, thị trấn nhỏ – đơn vị xã hội nơi mọi người đều biết nhau và các cá nhân tôn trọng sức mạnh của tình yêu, cái chết và lòng trung thành – là trọng tâm của mọi hành động. Thành công lớn của bộ phim này – được dịch sang nhiều thứ tiếng – xuất phát từ sự hiểu biết rộng rãi trên toàn thế giới về những mối liên hệ đơn giản giữa con người với nhau mà tất cả mọi người đều chia sẻ. Tuy nhiên, thế giới bên ngoài đã bắt đầu thay đổi.
Trước Thế chiến thứ hai, hầu hết người Mỹ không sở hữu ô tô. Nhiều gia đình không có điện thoại hoặc radio. Các thế hệ khác nhau và anh chị em trưởng thành thường sống gần nhau. Sự gần gũi về thể chất như vậy không phải lúc nào cũng là vấn đề lựa chọn mà là sự cần thiết về mặt kinh tế. Ông bà đã giúp con cái nuôi dạy các cháu.
Các thế hệ hỗn hợp và đôi khi là các cô chú đơn thân cũng tạo nên gia đình hạt nhân. Những đứa trẻ chưa lập gia đình đủ tuổi đi làm sẽ mang tiền lương về nhà để chia cho cả gia đình và thường là sống với bố mẹ cho đến khi kết hôn. Gia đình thuộc tầng lớp lao động đôi khi bao gồm những người cư trú hoặc người ở trọ, thường được coi là thành viên gia đình theo mọi nghĩa vì họ cũng đóng góp vào nguồn thu nhập.
Mặc dù việc áp dụng An sinh xã hội của Chính sách mới đã bắt đầu mang lại nhiều hơn cái cảm giác tự do cho nhiều người già, nhưng sự chia cắt gia đình trên quy mô lớn vẫn chưa bắt đầu cho đến khi chiến tranh diễn ra.Ở các thành phố lớn, các nhóm dân tộc có mối liên hệ chặt chẽ sống trong cùng một khu phố để hỗ trợ cả về tinh thần và vật chất. Họ hoạt động cùng nhau giống như cách mọi người vẫn làm ở những thị trấn nhỏ như Grover’s Corners.
Như vào thế kỷ 19, học sinh dạy tiếng Anh cho cha mẹ nhập cư của chúng – và một số cha mẹ chưa bao giờ học tiếng Anh. Ngay cả khi hầu hết những người trẻ tuổi đều mong muốn trở thành người Mỹ hơn, thì những người khác vẫn cố gắng duy trì và tận hưởng những nghi lễ gắn liền với nguồn gốc nhập cư của họ cũng như những người ở Grover’s Corrners muốn duy trì bản sắc thị trấn nhỏ của họ.
Ví dụ, những người Công giáo người Canada gốc Pháp đã cố gắng đảm bảo rằng họ không tiếp nhận các linh mục người Ireland hoặc người Ý. Và mặc dù xu hướng di chuyển đi lên liên quan đến việc chuyển đến những ngôi nhà lớn hơn ở những khu dân cư tốt hơn đã tồn tại từ buổi khởi đầu của nước Mỹ, nhưng việc di chuyển đó đòi hỏi phải có sẵn tiền mặt – thứ không thể tiếp cận được cho đến khi chiến tranh bắt đầu làm giảm bớt việc làm.
Năm 1940, thu nhập trung bình vẫn thấp hơn năm 1929 và 8 triệu người vẫn thất nghiệp.
Paul Pisicano, một kiến trúc sư người Mỹ gốc Ý thành đạt được nhà sử học Studs Terkel phỏng vấn, đã lưu ý đến những khác biệt mà chiến tranh mang lại. Trước đó, ông nhận xét, mọi người coi bản sắc dân tộc của mình là điều hiển nhiên. Ông đã mô tả cách những người hàng xóm thậm chí còn nấu rượu trong hầm rượu của căn hộ chung cư Bronx của họ. “Sau chiến tranh không ai sử dụng hầm rượu nữa. Toàn bộ ý thức cộng đồng biến mất “
Khi những người lính quay trở lại, các siêu thị bắt đầu thay thế các cửa hàng tạp hóa và tiệm bánh nhỏ bán xúc xích Ý và bánh mì giòn. Than thở về sự mất mát của thế giới cửa hàng “Mom and Pop”, nơi các gia đình biết những chủ cửa hàng đã phải gia hạn tín dụng trong thời kỳ khó khăn, Pisicano hối hận vì đã thua cuộc trong cuộc đấu tranh.
Không thoải mái với khả năng tiến lên mà sự chuyên nghiệp của ông là đại diện, ông kết luận rằng chiến tranh “đã xóa bỏ nền văn hóa của chúng tôi và khiến chúng tôi trở thành người Mỹ. Điều đó chẳng vui chút nào.