Cảm xúc Thu – Dạo bước trên Mây (14)

by Rose & Cactus

Trước đây bọn mình có một anh khách hàng, có thể gọi là đại gia cũng được, dù thực sự không hiểu sao mình không thích cái danh từ này. Ảnh dân phố cổ Hà Nội nhiều đời, gia đình tư sản gốc và rất tri thức. Nhưng như bao gia đình khác, ở vào thời điểm những năm 80, tư sản hay vô sản cũng đều nghèo như nhau.

Đất nước kiệt quệ sau chiến tranh, thêm phần đóng cửa nên cái nghèo, cái đói bủa vây mọi tầng lớp xã hội. Anh học giỏi và cũng giành được một xuất học bổng đi học ở Liên Xô (Nga ngày nay), dù khá là gian nan vì thời đó nguồn gốc gia đình quan trọng lắm trong việc xét các chính sách nọ kia đối với mỗi cá nhân.

Tuy vậy khi đối diện với cuộc sống ở trời Tây, dù là một nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa đi chăng nữa, thì cũng có quá nhiều cái khiến anh ngỡ ngàng. Một đất nước rộng lớn, trù phú, với nền văn hoá rực rỡ cùng các công trình kiến trúc đồ sộ, nguy nga khiến chàng trai trẻ choáng ngợp.

Hơn thế nữa, những sinh viên nghèo như các anh vẫn có cửa để kiếm tiền trang trải cuộc sống. Dần dần anh mê buôn bán kinh doanh ngoài chợ trời hơn cả việc học, dù cuối cùng anh cũng tốt nghiệp với tấm bằng kỹ thuật loại đỏ. Nhưng nó mãi mãi chỉ là tờ bìa cứng cất trong ngăn kéo làm kỷ niệm.

Những năm tháng lăn lộn gian khổ ở xứ người khiến anh xây dựng được một khối tài sản lớn và những năm 90 khi đất nước mở cửa anh đầu tư ngược trở lại quê hương, đồng thời vẫn đi đi về về giữa hai nước. Việc bươn chải kiếm sống khiến anh lập gia đình muộn, mãi đến bốn mươi tuổi mới có đứa con đầu tiên.

Khi cháu 14 tuổi thì anh quyết định chuyển hẳn về VIệt Nam sinh sống. Lý do, nghe thì thế hệ gen Z các bạn có thể cho là xàm, nhưng đối với bọn mình, những người sinh ra và lớn lên ở thời điểm khó khăn ấy thì hoàn toàn có thể hiểu được: Gia đình anh chuyển về Việt Nam để con cái được sống với quê hương nguồn cội.

“Nếu cháu có yêu thì cũng là một cô gái Việt Nam :))). Chứ ở bên đó, môi trường xung quanh toàn các bạn Tây, chúng nó yêu đương sớm lắm, sớm muộn gì thì nó cũng rước một cô tóc vàng mắt xanh về thôi. Và sau đó, dù không thích đi chăng nữa, thì cha mẹ có mà trời cản. Phải chấp nhận theo con cái, thời nay “Con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đó mà” (cười).

Nhưng qua quan sát thì anh thấy đa phần các cuộc hôn nhân Trai Việt – Gái Tây đều tan vỡ do sự khác biệt quá lớn về tư tưởng và văn hoá. Ngay bản thân anh ở bên đó bao nhiêu năm, còn nhiều hơn thời gian ở quê hương, nhưng là người Việt anh vẫn thích cái nền nã, kín đáo, dịu dàng của con gái Việt Nam.

Thế nên anh phải nhanh (cười), chuyển về quê nhà trước khi nó biết yêu.  Nhưng đúng là về rồi mới thấy, giới trẻ bây giờ hội nhập toàn cầu nên giống nhau quá, “Ta” giờ cũng  gần như “Tây” rồi, hương đồng gió nội bay đi hết cả rồi (cười). Hai vợ chồng lại tự bảo, thôi đã về đến đây mà nó vẫn rước về nhà một “cô gái tóc vàng hoe” thì phải chịu chứ sao giờ :)). Thời đại toàn cầu hoá mà!

Thế đấy các bạn ạ, trong khi giới trẻ bị xoáy vào cơn lốc của sự hội nhập, thay đổi và chạy theo trào lưu thì các thế hệ già vẫn luôn đau đáu về việc giữ lại những gì xưa cũ, những gì mà họ đã được dạy dỗ hay trải qua.

Mới hôm qua mình đọc một bài báo của một giảng viên người Việt bên Pháp viết về vấn đề du học và mình để ý vài bình luận phía dưới nói rằng có những đứa trẻ họ biết khi đi du học, thì việc sống và tiếp nhận nền văn hoá khác, một cách trực tiếp mỗi phút giây, việc bị cuốn vào guồng quay của học tập và việc làm khiến chúng dần quên đi những gì thuộc về quê hương bản xứ. Sau này nhiều người định cư rồi thì chỉ có bố mẹ sang thăm thôi chứ chúng không có muốn về thăm bố mẹ.

Con đi càng sớm càng dễ bị đồng hoá và mất gốc. Nếu những đứa trẻ được gửi đi nước ngoài học từ khi còn rất nhỏ, ở bậc tiểu học, thì bố mẹ gần như mất hẳn con. Không sao cứu vãn được vì khoảng cách và sự khác biệt của hai nền văn hoá sẽ là vách ngăn vững chắc chia đôi hai thế hệ: Bố mẹ và con cái. Không phải là tuổi tác, mà là suy nghĩ, tư tưởng, lối sống.

Thế mới có chuyện một ông bố ở Hà Nội, hoảng lên xin tư vấn vì cô con gái 19 tuổi của mình, du học ở Anh, trong một dịp về nhà chơi dẫn theo một anh chàng “mắt xanh mũi lõ” được giới thiệu là người yêu. Vấn đề là cô con gái này ngay hôm về đã không ngủ ở nhà buổi nào mà thuê một phòng khách sạn và ở chung với anh chàng ngoại quốc suốt mấy tuẩn cho đến khi cả trở lại Anh học tập.

Ông bố, vốn nổi tiếng nghiêm khắc, choáng váng  vì không hình dung được giới trẻ ngày nay có thể sống, cái mà ông cho là, buông thả đến như vậy. Lối sống này cơ bản là nó quá khác với truyền thống và phong tục của người Việt Nam, nhưng lại là điều bình thường với xã hội phương Tây.

Đó chỉ là sự khác biệt trong vô vàn những cái khác biệt khác, mà có thể dẫn đến xung đột giữa các thế hệ.

Không chỉ khoảng cách về địa lý, giữa nước này với nước khác mà ngay cả trong một nước, có thể thấy rõ sự xâm nhập sâu rộng của văn hoá và lối sống phương Tây vào các xã hội Á đông. Sự tự do, phóng khoáng và cởi mở của giới trẻ, đặc biệt là trong tình yêu , khiến nhiều bố mẹ khó có thể chấp nhận nổi con cái mình nếu chúng bắt chước “sống như Tây” dù “đang ở Đông”.

Nhưng thực sự, không cứ gì phương Đông mà ngay cả phương Tây, ở một mặt nào đó, cũng chịu ảnh hưởng của toàn cầu hoá.

Chúng ta hãy đọc bài viết dưới của tác giả Legrain, Philippe để hiểu rõ hơn về khái niệm này.

Toàn cầu hóa là gì

Tất cả những ồn ào xung quanh một sự kiện thể thao này là một mô hình thu nhỏ của một cuộc tranh luận rộng lớn hơn nhiều về vấn đề mang tính quyết định của thời đại chúng ta: Toàn cầu hóa. Từ xấu xí này là cách viết tắt cho việc cuộc sống của chúng ta ngày càng trở nên gắn bó với cuộc sống của những người và nơi xa xôi trên khắp thế giới – về mặt kinh tế, chính trị và văn hóa. Những liên kết này không phải lúc nào cũng mới nhưng chúng có sức lan tỏa hơn bao giờ hết.

Toàn cầu hóa là một vấn đề bao trùm nhưng lại bị hiểu lầm sâu sắc – hai lý do khiến nhiều người lo sợ nó. Toàn cầu hóa có làm xói mòn bản sắc của một quốc gia hay không? Có phải các thương hiệu toàn cầu đang xâm chiếm nền kinh tế thế giới (và tâm trí của chúng ta)? Có phải chúng ta đang mất quyền kiểm soát cuộc sống của mình trước những tập đoàn lớn nhẫn tâm và thị trường vô danh? Nhiều người nghĩ như vậy – và tất cả những lo lắng này đều có một phần sự thật. Nhưng phần lớn câu trả lời, như chúng ta sẽ thấy, là không.

Mối quan hệ ràng buộc chúng ta với nhau trước hết là mối quan hệ kinh tế về thương mại, đầu tư và di cư. Như hàng hóa, tiền bạc và con người trên khắp thế giới, chúng mang những nơi ở xa lại gần nhau hơn.

Chúng ta lái xe Đức, nghe nhạc hi-fi Nhật Bản, ăn đồ ăn Pháp, uống cà phê Colombia, mặc quần áo Ý, mua đồ chơi Trung Quốc, trò chuyện trên điện thoại di động của người Phần Lan (ngày nay phải là Hàn Quốc mới đúng), làm việc trên máy tính sản xuất tại Đài Loan và sử dụng phần mềm của Mỹ. Người Mỹ làm việc cho các công ty xe hơi của Đức, người Đức làm việc cho các ngân hàng đầu tư của Mỹ. Người Anh làm việc cho các công ty điện tử Hàn Quốc, bàn tay người Mexico hái trái cây ở California, bộ não châu Á tạo sức mạnh cho các công ty khởi nghiệp ở thung lũng Silicon, người Pakistan quản lý các hiệu thuốc ở Anh, người Algeri điều hành cửa hàng tạp hóa ở Pháp.

Các doanh nhân, chủ ngân hàng, nhà tư vấn và luật sư quốc tế có mặt khắp nơi trên thế giới, gắn kết công việc và lương thưởng của chúng ta với các thị trường xa xôi thông qua mạng lưới xuất khẩu và đầu tư.

Các mối liên kết cũng mang tính chính trị: thử nghiệm độc đáo trong các chính phủ làm việc cùng nhau là Liên minh châu Âu (EU), sự gắn kết với nhau của Canada, Mỹ và Mexico, nước láng giềng nghèo phía Nam của họ, thông qua Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) ; khuôn khổ ngày càng tăng của các quy tắc quốc tế về thương mại, môi trường, nhân quyền, chiến tranh và nhiều thứ khác; và hàng ngũ ngày càng tăng của các nhóm gây áp lực xuyên biên giới đang thúc đẩy sự khởi đầu của một nền chính trị toàn cầu – các nhóm vận động mới như Những người bạn của Trái đất và Tổ chức Ân xá Quốc tế, cũng như các tổ chức lâu đời như Giáo hội Công giáo và phong trào lao động quốc tế.

Lính Mỹ tuần tra Kosovo, hải quân Mỹ bảo vệ eo biển Đài Loan, máy bay Mỹ bay qua Vịnh Ba Tư. Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc có mặt rải rác trên toàn cầu. Quân đội Cộng hòa Ireland huấn luyện những kẻ khủng bố Colombia; Tây Ban Nha đã cố gắng dẫn độ Augusto Pinochet, cựu độc tài của Chile, từ Anh vì tội vi phạm nhân quyền.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là các mối quan hệ văn hóa: sự pha trộn của các nền văn hóa thông qua di cư; sự lan truyền nhanh chóng của tin tức, ý tưởng và thời trang thông qua thương mại, du lịch và các phương tiện truyền thông; và sự phát triển của các thương hiệu toàn cầu – Coca – Cola, Mc Donald’s, Disney – đóng vai trò là điểm tham chiếu chung. Người da trắng không còn chiếm đa số ở California.

Đến năm 2050, một phần ba người Mỹ sẽ có nguồn gốc châu Á hoặc gốc Tây Ban Nha. Hồi giáo là tôn giáo phổ biến thứ hai ở Pháp: Cứ mười ba người Pháp thì có một người tôn thờ Allad. Robin Cook, ngoại trưởng lúc bấy giờ, có tuyên bố nổi tiếng rằng món ăn quốc gia của Anh là gà tikka masala. Nhiều người trong chúng ta có những đồng nghiệp nước ngoài, cũng như những người bạn nước ngoài ở trường học, trường đại học hoặc những ngày lễ. Chúng ta trò chuyện trên Internet với “những người bạn” có thể ở bên kia thế giới hoặc bên kia đường.

Người phương Tây hít cocaine Colombia, mắc các bệnh có nguồn gốc từ châu Phi như AIDS, lo lắng về những kẻ khủng bố Hồi giáo và lo lắng về sự nóng lên toàn cầu. Đồng thời, phim ảnh, âm nhạc, ẩm thực và quần áo Mỹ lan rộng mà không tôn trọng biên giới quốc gia. Những ý tưởng của phương Tây về nhân quyền đã thấm sâu vào các xã hội truyền thống ở Thế giới thứ ba. Hầu như tất cả các quốc gia đều tranh tài ở Thế vận hội Olympic và hầu hết là ở World Cup bóng đá. 

Một trăm năm trước, bóng đá là niềm đam mê của tầng lớp lao động Anh. Thậm chí hai mươi năm trước, nó vẫn là môn thể thao chủ yếu của tầng lớp lao động châu Âu và Nam Mỹ. Bây giờ nó là hoạt động kinh doanh toàn cầu rất lớn. David Beckham là một thương hiệu toàn cầu. Nhật Bản và Hàn Quốc là chủ nhà của World Cup 2002. Arsenal do người Pháp quản lý; Đội hình của nó tại thời điểm viết bài bao gồm sáu người Pháp, hai người Hà Lan, hai người Brazil, một người Thụy Điển, một người Đan Mạch, một người Ukraine, một người Latvia, một người Hy Lạp, một người Nigeria, một người Cameroon, một người Congo và một cầu thủ Nhật Bản. Các nam sinh Thái Lan mặc áo Liverpool (Steven Gerrard là một cầu thủ được yêu thích ở đây) chơi một trận đấu đẹp mắt quanh Wat Saket, Chùa Vàng ở Bangkok. Sự pha trộn văn hóa như vậy là bản chất của toàn cầu hóa thế kỷ XXI.

Tất cả quá trình toàn cầu hóa này được thúc đẩy một phần bởi vận tải và thông tin liên lạc rẻ hơn, dễ dàng hơn và nhanh hơn: máy bay, đài phát thanh, truyền hình, điện thoại, Internet (và trước đó là đường sắt, tàu hơi nước và điện báo). Vào năm 1850, phải mất gần một năm để đi thuyền – hay gửi tin nhắn – vòng quanh thế giới. Giờ đây, bạn có thể bay vòng quanh thế giới trong khoảng một ngày và gửi email đến bất kỳ đâu gần như ngay lập tức. Gửi một tài liệu dài 40 trang từ Chile đến Kenya tốn 50 USD bằng chuyển phát nhanh, 10 USD bằng fax và chưa đến 10 xu qua email.

Cho đến gần đây, những kỳ nghỉ ở nước ngoài vẫn chỉ dành cho người giàu; bây giờ người nghèo ở các nước giàu có thể tiếp cận. Điện thoại đã từng là một thứ xa xỉ; bây giờ các quán cà phê Internet đã mọc lên ở các thị trấn tồi tàn của Thế giới thứ ba. Tuy nhiên, toàn cầu hóa không chỉ liên quan đến sự thay đổi công nghệ. Đó cũng là một sự lựa chọn chính trị. Nó liên quan đến việc mở cửa biên giới quốc gia một cách có ý thức trước những ảnh hưởng của nước ngoài.

Sự bùng nổ trong các liên kết xuyên biên giới là kết quả của các quyết định của chính phủ nhằm dỡ bỏ các hạn chế đối với thương mại, đầu tư nước ngoài và dòng vốn cũng như nhờ có giao thông và thông tin liên lạc tốt hơn. Nơi nào các chính phủ quyết định cản trở nó, giao thông quốc tế sẽ bị cản trở. Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, người Mỹ chào đón tới một triệu rưỡi người nhập cư mỗi năm.

Trong thập kỷ qua, với dân số cả thế giới và dân số Mỹ gấp nhiều lần so với lúc đó, số lượng người nước ngoài được phép vào Mỹ chỉ bằng một nửa mỗi năm – và hầu hết các quốc gia đều có các biện pháp kiểm soát nhập cư chặt chẽ hơn nhiều. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất và sau đó là cuộc Đại suy thoái đã thuyết phục họ hướng nội, các chính phủ đã ngăn chặn làn sóng toàn cầu hóa lớn đầu tiên bắt đầu từ thế kỷ 19. Nhập khẩu vào Mỹ, nước đã mua gần 2/5 lượng hàng xuất khẩu của thế giới vào năm 1929, đã giảm 70% từ năm 1929 đến năm 1932. Cho vay quốc tế giảm hơn 90% từ năm 1927 đến năm 1933.

Toàn cầu hoá có thể khiến bản sắc văn hoá của một dân tộc, đặc biệt là của các dân tộc nhỏ bé và kém giàu có, có nguy cơ lụi tàn và biến mất hay không còn là một dấu hỏi.

Nhưng rõ ràng rằng để duy trì và bảo tồn nó trong bối cảnh hội nhập đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi dòng tộc ở mỗi đất nước.

Như gia đình dòng họ gốc Tây Ban Nha Aragon ở xứ Napa, California trong “Dạo bước trên Mây” vậy. Họ đã cố gắng gìn giữ và thực hiện những tục lệ tốt đẹp đã được truyền lại từ cổ xưa của dân tộc mình, dù họ đang sống trong lòng một xã hộ tân thời đang biến đổi mạnh mẽ. Ông bố yêu cầu con trai sử dụng  tên thuần Tây Ban Nha Pedro thay vì cái tên rặt Mỹ Pete. Bà mẹ thì chuẩn bị cho con gái một cái giường đẹp nhất đêm tân hôn của con và tự tay bà trải giường với chăn ga gối đều là của hồi môn với một bông hồng tươi thắm ở giữa, cùng những lời chúc ngủ ngon:

“Bố mẹ là người rất coi trọng truyền thống và thế giới hiện đại cũng khó mà quen được”.

THỜI KHẮC THU HOẠCH NHO, THỜI KHẮC ĐẶC BIỆT, THỜI KHĂC CỦA PHÉP MÀU”

(A Walk in the Clouds)

The soul of Spain

6.

Người Tây Ban Nha

Do đó, khi chúng tôi khảo sát các khía cạnh khác nhau của tính khí người Tây Ban Nha được bộc lộ trong cuộc sống hàng ngày, trong lịch sử, tôn giáo, văn học và chính trị, chúng tôi thấy rằng chúng liên kết thành một bức tranh hài hòa hơn là chúng được thể hiện. Tất cả đều là biểu hiện của một chủng tộc nguyên thủy nguyên thủy, dưới áp lực của một môi trường đặc biệt gây hứng khởi nhưng lại cứng rắn, đã duy trì qua mọi giai đoạn phát triển một mức độ khác thường của tuổi trẻ đầy sức sống, sự hoang dã mãnh liệt mà nó đã bắt đầu.

Tôi có thể nói thêm rằng tác giả xuất sắc của cuốn “Idearium Espanol” đã đưa ra quan điểm tương tự theo một cách khá khác khi ông nhận xét rằng có một lý do sâu sắc khiến Tây Ban Nha luôn tuyên bố và bảo vệ tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội: Bản thân bà đã bị buộc phải trải qua mọi nỗi đau của thai sản nhưng vẫn chưa đến tuổi già với tinh thần trinh nguyên vẫn còn trẻ trung trong mình.

Với lịch sử và cách nhìn này, chúng ta thấy những phẩm chất tốt đẹp của Tây Ban Nha cũng như những khuyết điểm không thể tránh khỏi và ăn sâu như thế nào của nó, đặc biệt là sự kết hợp giữa sáng kiến ​​tuyệt vời với việc thiếu khả năng bền vững để theo đuổi cái mà Menendez y Pelayo coi là đã xác nhận những thiên tài người Tây Ban Nha.

Chúng ta thấy rằng danh dự luôn đóng một vai trò quan trọng như thế nào trong tư tưởng của người Tây Ban Nha, ngay cả trong thời kỳ huy hoàng và thành công nhất của lịch sử Tây Ban Nha; chúng ta hiểu tại sao Cid, như được mọi người quan niệm, với khí chất hoàn toàn dân chủ, công lý qua loa đại khái, gần giống như một Robin Hood được tôn vinh, lại trở thành anh hùng vĩ đại của Tây Ban Nha.

Chúng tôi cũng nhận ra rằng đức tính hàng đầu của người Tây Ban Nha luôn là đức tính dũng cảm nguyên thủy. “Phẩm chất nổi bật nhất của chúng tôi”, Pascual Santacruz  nói chân thành về người dân của mình, “là lòng dũng cảm”, mặc dù ông thừa nhận rằng đó là lòng dũng cảm chứa đựng nhiều sự man rợ và liều lĩnh vốn thuộc về thời kỳ sơ khai của nền văn minh. Bất cứ điều gì người Tây Ban Nha có thể đạt được.

Thật thú vị khi quan sát rằng Brantome – người Pháp, Morel Fatio tin rằng, người hiểu rõ nhất về Tây Ban Nha – chủ yếu bị ấn tượng bởi phẩm chất hiếu chiến của người Tây Ban Nha. Ông đã nhìn thấy họ diễu hành qua Pháp đến Flanders vào những ngày Tây Ban Nha vẫn còn là một cường quốc trên thế giới “Bạn có thể gọi họ là những hoàng tử”, Ông nói, “họ xếp hàng và hành quân một cách kiêu ngạo, với một vẻ duyên dáng thật tuyệt vời

Họ hầu như thờ ơ với bất kỳ đức tính nào khác ngoài lòng dũng cảm. “Họ gửi sách cho quỷ dữ”, ông nói thêm, “trừ một số người trong số họ, khi họ chăm chỉ nghiên cứu, rất hiếm và xuất sắc trong đó, rất đáng ngưỡng mộ, sâu sắc và tinh tế, như tôi đã biết một số người”.

Tuy nhiên, ngay cả khi anh ta hướng năng lượng của mình sang các lĩnh vực khác, thật thú vị khi quan sát thấy người Tây Ban Nha thường xuyên duy trì tinh thần hiệp sĩ dũng cảm như thế nào, thậm chí cả những hình thức chiến tranh. Điều này cũng đúng ngay cả trong lĩnh vực tôn giáo. Ramon Lull được Menendez y Pelayo vui vẻ gọi là “hiệp sĩ triết học”.

Thánh Theresa bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cách viết một câu chuyện tình lãng mạn về tinh thần hiệp sĩ. Các tu sĩ chiến đấu của Dòng Đa Minh được tổ chức bởi một người Tây Ban Nha, trong khi các tu sĩ dòng Benedict hiếu hòa và uyên bác, với một số ngoại lệ đáng chú ý, đã sớm ngừng phát triển trên đất Tây Ban Nha.

Một lần nữa, văn học, một sở thích dường như nằm ngoài lĩnh vực của người lính, lại gần như bị quân lính độc quyền ở Tây Ban Nha. Cervantes, nhà văn hàng đầu  Tây Ban Nha, Camoens, nhà văn hàng đầu Bồ Đào Nha, đều là những người đã dành phần lớn cuộc đời mình cho chiến đấu và phiêu lưu. Ngài Philip Sidney, một nhân vật độc nhất vô nhị ở Anh, tương ứng với mẫu hình chung trong biên niên sử văn học Tây Ban Nha.

Các nhà thơ Tây Ban Nha, cũng như các nhà soạn kịch và tiểu thuyết gia, thường xuyên đấu tranh với những người viết lách trong khoảng thời gian họ có cuộc sống năng động hơn ở triều đình, trại tập trung và nơi làm việc. Castilian Alvaro de Luna – hiệp sĩ, kỵ sĩ, vũ công, người hát rong và nhà ngoại giao giỏi nhất ở Tây Ban Nha vào thời của ông – đại diện cho lý tưởng cũ của Tây Ban Nha.

Sau này, tiểu thuyết gia Alarcon là nhà thám hiểm, nhà báo, người làm việc tự do, người lính và người đàn ông của thế giới. Cho đến gần đây, nhà văn của cuộc nghiên cứu, nhà văn không gì khác hơn là một nhà văn, hầu như không được biết đến ở Tây Ban Nha. Thậm chí ngày hôm qua, nhà văn Tây Ban Nha nổi tiếng nhất, Valers, là một nhà ngoại giao và nhà quốc tế của thế giới, trong khi Blasco Ibaflez, tiểu thuyết gia xuất sắc nhất của thế hệ trẻ ngày nay, là một chính trị gia và nhà cách mạng có cuộc đời phiêu lưu đầy táo bạo.

Những phẩm chất đặc biệt của các thiên tài người Tây Ban Nha, chúng ta không thể không nhận ra, đã tìm thấy những cơ hội huy hoàng nhất của họ trong một giai đoạn của lịch sử thế giới mà xét về mặt thể chất trong mọi sự kiện, giờ đây đã vĩnh viễn không còn nữa.

Tây Ban Nha đã bước vào một thời đại thoả mãn với yêu cầu và khen thưởng các nhiệm vụ công nghiệp và thương mại vốn đòi hỏi những sáng kiến ​​kém sáng tạo hơn. Tuy nhiên, cũng như sự giàu có tự nhiên của đất nước, chúng ta khó có thể mong muốn thấy Tây Ban Nha sử dụng nguồn năng lượng tốt đẹp của mình trong sự cạnh tranh, và do vậy chỉ ở mức hạng hai, so với Anh và Đức, chấp nhận những món hời nhỏ mà các cường quốc công nghiệp lớn hơn có thể đã coi thường việc chạm vào. Tây Ban Nha cuối cùng cũng phải đối mặt với nhiệm vụ trước mắt là ổn định vị thế kinh tế và vị thế chính trị trong nước của mình.

Nhưng ngoài nhiệm vụ đó, bên cạnh nhiệm vụ đó còn có những vấn đề trong tương lai tiến bộ của loài người mà chúng ta có quyền mong đợi rằng Tây Ban Nha nên coi nó độc lập và là một phần tiên phong có giá trị như nó đã từng giải quyết các vấn đề của thế giới vật chất. Bằng cách duy trì và áp dụng lại những lý tưởng nguyên thủy và thiết yếu của mình, chúng ta có thể chắc chắn rằng Tây Ban Nha sẽ truyền đạt những món quà tinh thần tốt đẹp nhất của mình cho thế giới.

You may also like

Để lại bình luận