Mùa chim én bay (2)

by Rose & Cactus

Khi hồi tưởng về một khung cảnh mùa xuân ở đâu đó mà mình đã trải qua, có những ký ức đẹp đẽ cứ trở đi trở lại , là khu vườn nhỏ nhà ông ngoại mình ngày xưa.

Mình thích gọi nó là Khu vườn của bốn mùa; Khu vườn của mùa xuân

“…  Một buổi mai cuối tháng Chạp, cái lạnh khiến bất kỳ ai cũng đều không muốn chui ra khỏi cái tổ ấm áp. Mùa đông dùng dằng chưa chịu rời đi đâu, ít cũng phải hai tháng nữa, qua Xuân phân thì cảm nhận về sự rét mướt mới bớt dần đi.

Nhưng Đông vẫn còn ở lại không có nghĩa là Xuân chưa tới. Mấy nay đã thấy lất phất vài hạt mưa bụi. Ấy là dấu hiện nàng Xuân đang sửa soạn cho sự lấn át trong vũ hội mang tên Mùa. Sở dĩ gọi kiểu mưa này là mưa “bụi” bởi vì các tinh thể nước không đủ lớn để đọng lại thành giọt. Hạt mưa chỉ mỏng manh như hạt bụi, nhẹ đến mức nó bay trong không trung rồi hoặc là tan biến hoặc là vương vấn vào áo vào khăn của nàng thiếu nữ mải đùa nghịch trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ của mùa Xuân.

Trời vẫn tối sẫm. Thi thoảng lại nghe tiếng gà gáy, lúc xa lúc gần. Được cái, lạnh mấy thì lạnh chứ những chú gà chẳng bao giờ xao nhãng mà quên đi nhiệm vụ của mình. Thậm chí nếu nghe quen ta vẫn có thể à lên một tiếng, rằng “Tao đã nhận ra cái “giọng gáy” này là của mày rồi nhà, Trống choai” :))

Trong căn nhà nhỏ, người nông dân già đã trở dậy. Thay vì  than trách tiết trời, ta chỉ nghe những tiếng húng hắng ho kéo dài, như một dấu hiệu của tuổi tác.

Gấp gọn chăn màn cẩn thận, ông với tay bật công tắc điện. Ánh sáng đỏ của cái bóng tròn treo giữa gian nhà ba gian tuy có hơi làm chói mắt người vừa thức giấc nhưng không thể phủ nhận nó mang lại cảm giác ấm áp hơn hẳn!

Ánh điện vẫn còn ở đó một lúc lâu nữa khi cánh cửa căn nhà được mở toang để đón tia sáng tự nhiên tràn vào. Dưới căn bếp nằm bên hông nhà, đã nghe tiếng củi cháy bập bùng. Khói và hơi nóng như muốn xua tan sương mù, thậm chí đã bò cả vào hàng lỗ thoáng ngay bên trên chỗ đun nấu:

-Tết mà được cái rét ngọt thế này thì tuyệt lắm đây!

Ông lão khẽ nhấp ly trà nóng sau khi đã kéo một hơi dài một cữ thuốc lào.  Đoạn ông lim dim mắt hướng ra khu vườn nhỏ đằng trước nhà.

Ở đó, cây bích đào cổ, với thế đẹp tự nhiên mà không cần bất cứ bàn tay tác động nào của con người, đã chúm chím những cái nụ đầu tiên. Nhanh lắm chỉ độ chục ngày nữa thôi, toàn bộ cành cây gầy guộc trơ trụi bừng lên sắc hồng khi những bông hoa đào bung nở. Bích đào có sắc hồng sậm, cho cảm giác một mùa Xuân rực rỡ hơn.

Nhưng sắc hồng của đào không hề lẻ loi, nó được phụ đạo thêm bởi những bụi hồng nhung bên dưới cũng đang khoe sắc. Hồng là loài hoa đặc biệt yêu thích cái khí hậu se lạnh, lạnh mà lại có ánh mặt trời nữa thì ai cũng sẵn sàng “chết” vì nhan sắc và mùi hương của nàng.

Lão nông thích hồng nhung, giống hồng cổ đỏ thắm với cánh hoa dầy luôn được ưu tiên trồng so với các loại hồng khác. Cuối thu năm rồi, ông cụ còn được tặng hạt giống hoa sao đỏ, một loại hoa dây leo. Không chần chừ ông đã gieo ngay dọc theo hàng rào tre ngay khu vườn. Để sang Xuân, nó cũng kịp bung nở. Góp thêm một sắc màu trong vườn hoa muôn sắc.

Trời sáng dần, ánh sáng làm lộ ra những hạt sương như những tinh thể thủy tinh, lấp lánh trên từng ngọn cây, kẽ lá. Đẹp nhất là trên những cánh hoa mỏng manh.

Một lúc sau, từ căn nhà nhỏ ta đã nghe tiếng hát phát ra từ một chiếc radio cũ. Một bài hát từ chương trình ca nhạc mừng Xuân theo yêu cầu thính giá của đài phát thanh quốc gia:

Khi gió đồng ngát thơm rợp trời chim én lượn
Cây nẩy đầy chồi xanh mây trắng bay yên lành

CHIM ÉN

 Camehl, Ada Walker

Ai mà không biết và yêu mến chú én nhỏ thân thiện? Mỗi năm sau một thời gian dài vắng bóng ở vùng đất ấm áp phía Nam, nàng lại đến với chúng tôi với ánh nắng và hoa, và nàng vui vẻ kể cho chúng tôi nghe rằng:

Mùa xuân đang đến

Có khoảng bảy mươi loài chim én rải rác trên toàn thế giới, nhưng chỉ có năm loài trong số này được tìm thấy ở Hoa Kỳ và sáu loài ở Châu Âu. Loài chim én mà câu chuyện chúng tôi kể trong những trang viết này là loài chúng tôi thường gặp, ngôi nhà mùa hè của nó nằm dưới mái hiên nhà kho và nhà phụ của chúng tôi.

Ở châu Âu, nó được gọi là én nhà hay én ống khói, và ở đó nó làm tổ không chỉ trong các nhà kho và những tòa nhà đổ nát, mà còn trong các ống khói, và đôi khi thậm chí bên trong những ngôi nhà đá thô sơ của nông dân, hoặc ở  những nông trang vùng nông thôn.

Én có thân hình duyên dáng và xinh đẹp. Lưng của nó có màu đen và sáng bóng, phản chiếu màu tím đậm; cổ họng và ngực lại nhuốm màu đỏ xỉn. Đôi cánh của nó dài và nhọn, đuôi chia đôi, móng vuốt rất ngắn và yếu, đôi mắt nhỏ, đen rực rỡ và rất nhạy bén khi theo dõi một con côn trùng ở khoảng cách xa. Nó hầu như luôn bay và lao đi rất nhanh một cách duyên dáng. Thức ăn có thể là những con côn trùng mà nó bắt được trên không.

Khi thiên nhiên u ám thức giấc vào mùa xuân, rồi đàn chim én bay về nơi chúng đã rời đi từ nhiều tháng trước. Làm thế nào để chúng vượt qua khoảng cách xa từ ngôi nhà mùa đông của chúng? Những hướng dẫn nào dẫn lối chúng? Dấu hiệu nào chỉ đường cho cuộc hành trình dài?

Không ai biết. Chưa có ai có thể khám phá một cách chắc chắn.Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là – chúng đã ra đi và chúng đã trở về. Chúng đã ở đâu ? Chúng đã ở dưới những bầu trời khác, ở những vùng đất xa xôi, nơi những ngày nắng đã chuyển thành những đêm đầy sao, và những buổi bình minh hồng thắm  đã biến thành những buổi hoàng hôn rực vàng.

Thiên nhiên đã ban tặng cho chúng những nụ cười của ánh nắng, thức ăn dồi dào, những phước lành mà chúng đã phải từ bỏ trong xa cách bởi nỗi khao khát về tổ ấm cũ và niềm vui nuôi con cái.Người ta từng cho rằng chim én có thể bay rất xa trên biển mà không cần dừng lại để nghỉ ngơi.

Nhưng sự nghỉ ngơi là cần thiết đối với chúng, và thỉnh thoảng chúng dừng lại trên những ngọn hải đăng hoặc trên những cánh buồm và dây buộc của những con tàu, khi chúng buộc phải vượt qua những vùng biển dài. Mặc dù đường đi của chúng có thể là một đường thẳng, nhưng thực tế thì không như vậy, vì nhu cầu kiếm được thức ăn khiến chúng đột ngột dừng chuyến bay và rẽ hướng này hướng kia, khi chúng theo dõi côn trùng ở một khoảng cách xa để tìm kiếm thức ăn.

Chúng lao sang phải và sang trái để đuổi theo con mồi, và điều đó khiến cuộc hành trình của chúng kéo dài hơn nhiều. Không phải tất cả chúng đều có thể chịu đựng được sự mệt mỏi khủng khiếp của chuyến bay. Nhiều con sẽ mãi phải dừng lại. Chỉ những con khỏe nhất và mạnh nhất mới tới được những nơi làm tổ quen thuộc cũ.

Những con én quay trở lại quê hương thường thấy rằng những cơn bão mùa đông đã tàn phá ngôi nhà của chúng; nhưng nếu bất kỳ tổ nào của chúng bị hư hỏng hoặc bị phá hủy, chúng sẽ nhanh chóng sửa chữa hoặc xây lại. Sau đó, sau cuộc hành trình mệt mỏi và việc xây dựng tổ ấm, hãy theo dõi sự tán tỉnh của những đôi vợ chồng và cảnh quây quần ngọt ngào với đàn con. Và chẳng mấy chốc không khí ấm áp của mùa xuân thơm ngát hương hoa, sống động với những người hành hương nhỏ bé bận rộn, hân hoan với những câu chuyện vui vẻ và bài hát thoáng qua của chúng.

Những chiếc tổ mà loài chim én này xây dựng là những tác phẩm nghệ thuật gây tò mò. Bên ngoài làm bằng bùn, mà én đã lấy từ ao hay bờ sông nào đó, và với bùn chúng trộn lông và rơm để giữ chúng lại với nhau. Bên trong chúng lót những chiếc lá và lông mềm mại. Có hai đợt đẻ trứng mỗi năm, đợt đầu tiên có năm hoặc sáu quả trứng, đợt thứ hai có ba quả.

Trứng có màu trắng, lốm đốm những đốm đỏ xỉn. Chúng đặt tổ của chúng, không phải riêng lẻ trên ngọn cây lẻ loi nào đó như nhiều loài chim khác, mà nằm cạnh tổ của những người bạn đồng hành của chúng thành một dãy nhỏ dưới mái hiên nhà kho của chúng tôi, hoặc dọc theo các thanh xà ngay dưới mái nhà.

Ở một số vùng đất ở Nam Âu, loài chim nhỏ hòa đồng này được phép làm tổ ở cửa sổ các ngôi nhà và trong các kẽ hở của mái ngói. Ở phương Đông, đôi khi nó còn đặt tổ bên trong cửa, và làm như vậy, như người ta tin, nó mang lại may mắn cho những người sống bên trong. Những du khách ở vùng đất phía Đông đó đã mang về những câu chuyện kỳ ​​lạ minh họa cho thói quen hòa đồng này của loài chim én, một trong những câu chuyện kỳ ​​lạ nhất là câu chuyện của một người Pháp nổi tiếng, người đã đến thăm châu Á vào năm 1844. Đây là những gì ông đã viết: —

Chim én có rất nhiều tình yêu dành cho con người và rất tin tưởng vào họ đến nỗi  không chỉ sống trong mái vòm của cung điện và trong hiên nhà của con người, mà nó còn thâm nhập vào cả phòng ngủ, thậm chí còn cả trên giường nữa. Điều này chính tôi đã thấy nhiều lần, ở thành phố cũng như ở nông thôn, nhưng thường xuyên hơn là ở nông thôn.

 

Tôi thấy những người tốt đó, được tạo vật được chọn của Chúa nhân lành đến thăm, chăm sóc chu đáo xung quanh các gia đình chim, mở cửa sổ vào buổi sáng để cho chim bố mẹ ra ngoài kiếm thức ăn, chịu đựng sự bẩn thỉu mà chúng tạo ra trong phòng, trên đồ nội thất và khăn trải giường, đồng thời dành hàng giờ cùng nhau quan sát và chỉ cho người khác hoạt động của những con chim già, số lượng chim non và sự tiến bộ trong học tập của chúng. Và những gì tôi thấy diễn ra khắp nơi ở đây.

Bây giờ chúng ta hãy quan sát những chú chim én con. Bốn hoặc năm cái đầu nhỏ đang ló ra khỏi rìa tổ, trong khi tiếng hót líu lo sôi nổi từ tất cả các cổ họng nhỏ hòa vào nhau thông báo sự xuất hiện của chim bố hoặc chim mẹ. Chim bố mẹ thận trọng đến gần, ríu rít một cách đầy hài lòng trong lúc đó và kẹp  thức ăn nơi mỏ.

Nó bay đến rìa tổ, dừng lại ở đó và thả miếng ăn vào miệng đang há của đứa con đầu tiên, chú chim này sau khi nhận được phần của mình sẽ dành thời gian nhấm nháp, trong khi bố mẹ yêu thương cẩn thận nhặt hết những mảnh vụn còn sót lại trong tổ, bay một khoảng xa và thả chúng xuống đất.

Sau đó nó bỏ đi để tìm kiếm thêm thức ăn. Sau một lúc, nó quay lại và lặp lại cảnh như trên với đứa con thứ hai, với đứa thứ ba, v.v. cho đến đứa con cuối cùng. Sau đó, nó bắt đầu lại với đứa đầu tiên và tiếp tục cho đến khi tất cả đều hài lòng. Cứ như vậy hàng ngày từ sáng đến tối, cho đến khi những con non cuối cùng có thể tự kiếm ăn.

Sau đó bắt đầu một đợt huấn luyện khác – chim non được dạy bay. Chúng ta cũng hãy nhìn vào đây. Chúng ta thấy cả hai con chim già đang dạy bài học này cho con non của chúng. Hãy chú ý cách chúng cổ vũ học sinh bằng giọng nói của mình; cách chúng đưa thức ăn cho những đứa con cách xa một chút, sau đó từ từ di chuyển nó ra xa hơn khi lũ trẻ đến gần để lấy; chúng đẩy những đứa con non nớt ra khỏi tổ một cách nhẹ nhàng và lo lắng biết bao; cách chúng chơi đùa trên không trung để khuyến khích lũ trẻ mà luôn có sự giúp đỡ ở bên cạnh; và cuối cùng, cách chúng tiếp tục bài học với lối trò chuyện đầy biểu cảm giống như những lời vuốt ve, khuyến khích, khiển trách và vỗ tay cùng một lúc.

Khi mùa hè trở nên ấm áp, những vị khách nhỏ của chúng tôi, những người không thích cái nóng gay gắt cũng như cái lạnh khắc nghiệt, sẽ cất lên những nốt nhạc vui tươi đầu tiên vào lúc bình minh khi mọi con chim lông vũ biết hót khác đều im lặng.

Chúng rời bỏ tổ ấm của mình và bay lên không gian vô tận của thiên đường; Chúng lao xuống với sự vội vã chóng mặt; chúng quay cuồng ; chúng bay lên ; chúng lướt qua những đám cỏ thấp và mặt nước sáng bóng của hồ hoặc suối; và với những tiếng kêu ồn ào, chúng gặp nhau, chúng tách ra, chúng phóng đi – rồi quay lại gặp nhau, mười, hai mươi, một trăm lần – – lúc xuất hiện, lúc biến mất như’ tia chớp.

Chúng phát ra những tiếng kêu chói tai khi xoay tròn và bay lên, và nếu chúng dừng lại một lúc, thiếu kiên nhẫn của sự nghỉ ngơi, thì tiếng rung của chúng nghe giống như những câu hỏi và câu trả lời trong một cuộc trò chuyện nhanh.

Chim én, ngoài việc đối xử tốt với con người, còn cư xử tử tế với nhau. Nếu một trong số chúng bị thương, chẳng có lý do gì để một mình nó chịu đau khổ. Nhiều sự việc có thể được kể lại để minh họa cho đức tính tốt này. Chúng tôi chỉ kể lại một câu chuyện về một con én bị thương trên đường phố Paris. Đây là những gì một nhân chứng kể: –

Một con én, do một tai nạn nào đó, tôi không biết là gì, một ngày nọ, bị mắc chân vào một sợi dây thừng kéo căng đến mái hiên của một trong những tòa nhà công cộng. Nó đã cố gắng tự giải thoát và sau đó kiệt sức, treo mình trên sợi dây, kêu la ầm ĩ, thỉnh thoảng lại vùng vẫy và cố gắng trốn thoát một cách vô ích. Tất cả những con én xung quanh, số lượng lên đến hàng nghìn con, đã tụ tập quanh nó.

Chúng tạo thành một đám mây dày đặc, và chúng  kêu rền rĩ lên vì hoảng hốt và xót thương. Sau một lúc, chúng dường như tổ chức một cuộc bàn luận ồn ào và một trong số chúng rõ ràng đã nghĩ ra kế hoạch giải thoát cho người bạn đồng hành của mình và công bố điều đó cho những người khác.

Ngay lập tức chúng bắt tay vào việc. Hết con này đến con khác bay nhanh đến nút thắt và dùng mỏ của nó đập vào chỗ đó. Khoảng nửa giờ sau, sợi dây bị đứt và tù nhân được thả. Những con én vẫn ở lại nơi đó cho đến tối. bay vòng quanh và ríu rít như thể đang tự chúc mừng sự thành công của mình.

Mùa hè trôi qua, cuối cùng những chú chim nhỏ hiền lành mà chúng tôi yêu quý cũng chuẩn bị ra đi. Trên nóc nhà, dưới mái hiên, trên tường, hàng rào, giữa ruộng mía, ven suối, trên dây điện báo, chúng tụ tập thành từng đàn lớn, không ngừng ríu rít, ríu rít.

Chúng đang nói gì? Chắc chắn chúng đang nói về cuộc hành trình sắp tới, và những chú chim lớn hơn đang hướng dẫn những chú nhỏ hơn về điều đó. Nếu chúng ta có thể hiểu được ngôn ngữ của loài chim thì lúc này chúng ta có thể biết được chúng đi đâu, những nguy hiểm bủa vây chúng và những khó khăn chúng phải chịu đựng.

Sau nhiều cuộc trò chuyện ồn ào, cuối cùng chúng cũng sẵn sàng bắt đầu. Tín hiệu được đưa ra – chú chim đầu tiên, rồi đến chú khác, mười, một trăm, một đội quân, bay lên không trung và vòng quanh như thể định hướng. Sau đó, chúng khởi hành với một khối lượng nhỏ và nhanh chóng biến mất trong đám mây đen.

Suốt mùa hè dài những vị khách nhỏ bé vui vẻ này đã ở với chúng ta, làm sống động những cái bóng mát mẻ quanh những ngôi nhà, chuồng trại, những tượng đài công cộng, những nơi ở quê hương của chúng ta – – và bây giờ chúng đi đến những vùng ” nơi không bao giờ có tuyết, nơi mà đất không bao giờ bị sương giá làm cứng lại.”

Những con én của chúng tôi đi đến các quốc gia phía bắc Nam Mỹ và các hòn đảo xung quanh vùng biển nhiệt đới. Những con én của châu Âu bay về phía nam đến các di tích của Ai Cập và những ngọn tháp của các nhà thờ Hồi giáo ở châu Á.

Khi nghe giai điệu quen thuộc của “Mùa chim én bay” vang lên từ chiếc casset từ gian khách bên ngoài:

Em là cánh én mỏng chao xuống giữa đời anh
Cho lòng anh xao động thành mùa xuân ngọt lành

 cũng là lúc mình tỉnh giắc. Mở mắt trong chăn ấm nệm êm nhưng đã chẳng thấy bà ngoại đâu nữa

-Bà đi chợ rồi hả ông ?

Từ giường bà trong buồng mình hỏi vọng ra

-Bà con đi lâu rồi, chắc giờ cũng đã ra đến chợ. Con cứ ngủ đi, vẫn còn sớm lắm

Nhưng đã tỉnh giấc rồi thì không ngủ lại được nữa. Mình nghe tiếng ông lẩm nhẩm theo giọng cô ca sĩ trên đài phát thanh

Én về én lại xa mùa xuân không ở lại
Bên anh em gần mãi nên đời vẫn đời vẫn xuân trào

“Mùa chim én bay” cùng với “Mùa xuân nho nhỏ”, “Làng lúa làng hoa”, “Mùa xuân bên cửa sổ”….là những ca khúc Xuân gắn liến với thế hệ 8X đời đầu (và kể cả lứa 6X, 7X). Cho đến bây giờ, sau bao nhiêu năm, và đầu cũng đã lốm đốm hai thứ tóc nhưng không năm nào những ngày Tết mà mình không mở nghe. Đến mức mà con mình nó cũng thuộc luôn dù cho con không thích (kiểu bị ép phải nghe ý :)).

Bài hát trên được sáng tác bởi nhạc sĩ Hoàng Hiệp, một người con tài hoa của vùng đất vựa lúa An Giang. Nhiều tác phẩm của ông mình rất yêu thích và thuộc nằm lòng. Ngoài “Mùa chim én bay” thì “Nhớ về Hà Nội” là hai ca khúc được những người con Miền Bắc xa quê như mình hay chọn để nghe khi Tết đến Xuân về.

Mình nằm trong giường bà nghe ca sĩ Ngọc Điệp hát đến câu cuối cùng thì thấy không gian xung quanh yên ắng quá. Biết ông đã uống trà xong và giờ này chắc chắn đang ở ngoài vườn nên mình cũng chẳng muốn nằm ì vô dụng nữa.

Lấy hết can đảm chống chọi lại với cái lạnh (đặc quyền của tuổi trẻ các bạn nhỉ, đó là ngủ khỏe như trâu) mình tung chăn và bật dậy lao ra hiên nhà. Và đúng như mình dự đoán, từ bậc thềm trên cao mình thấy ông đang lúi húi dưới vườn. Ông mình cũng là kiểu người chẳng ngồi yên bao giờ, lúc nào cũng phải tìm việc để làm, luôn bận rộn từ sáng tới tối.

Chả rửa mặt, vệ sinh vệ siếc gì ráo chọi :)) mình háo hức lao xuống con dốc hướng tới khu vườn của ông.

Sáng sớm, sương mù giăng mờ mịt. Nhưng đã nghe tiếng chim  líu lo trên cành khế ngay ngõ ra vườn.

Mùa xuân đã đến thật rồi!

CHIM ÉN

 Camehl, Ada Walker

2.

Con én gắn liền với rất nhiều truyền thuyết đến nỗi từ chúng có thể hình thành nên một chu kỳ thực sự, tất cả đều là “Tại sao”. Tai sao giai điệu của chim én lại buồn? Tại sao nó lại có vẻ ngoài màu đen? Tại sao nó lại có một cái đuôi chẻ đôi? Tại sao ngực nó lại có màu đỏ? Tại sao nó lại kêu mà không hát? Tại sao nó sống ở vùng khí hậu ấm áp? Tại sao nó xây tổ của mình trong những cửa sổ? Tại sao con én thoải mái đi lại mà không bị cản trở ? Tại sao nó lại có phước thế? Tại sao nó lại có thể chung sống với con người? Tại sao các công chúa phương Bắc lại đi tìm chim én? Tại sao chim én lại vượt trội hơn các loài chim và động vật khác?

Chúng ta hãy cùng nhau đi tìm câu trả lời

Nhưng trước tiên, chúng ta phải lưu ý đến ba truyền thuyết, từ những đất nước xa xôi, kể cho chúng ta nghe loài én xuất hiện trên trái đất như thế nào. Truyền thuyết lâu đời nhất, quan trọng nhất trong lịch sử loài chim én, đến với chúng ta từ vùng đất Hy Lạp cổ đại, và có nguồn gốc từ thời kỳ khi các vị thần và nữ thần sinh sống trên sườn núi xanh của Hellas, và khi truyện ngụ ngôn được kể lại để giải thích những bí ẩn của thế giới tự nhiên.

CÂU CHUYỆN THEO TRUYỀN THUYẾT HY LẠP

Ngày xửa ngày xưa, Pandion, Vua của Athens, có hai cô con gái tên là Procne và Philomela mà ông hết mực yêu thương. Ông gả cô con gái Procne cho Tereus, Vua xứ Thrace, người đã đưa cô về quê hương của mình. Nhiều năm cuộc sống hôn nhân hạnh phúc đã trôi qua đối với Procne, nhưng cô vẫn luôn giữ trong lòng ký ức về người em thân yêu Philomela và hy vọng một ngày nào đó sẽ gặp lại em gái. Cuối cùng, khuất phục trước nỗi khao khát của mình, Procne yêu cầu chồng đi Athens và đưa em gái về thăm.

Tereus ngay lập tức lên đường, và khi đến Athens, anh cầu xin vị vua già Pandion cho phép Philomela đi cùng anh về quê hương ở miền bắc. Sau nhiều lần thuyết phục, Pandion đồng ý và Tereus lên đường ra biển cùng cô gái trẻ. Trong chuyến hành trình, anh đem lòng yêu cô em dâu xinh đẹp nhưng đổi lại cô chỉ khinh thường tình cảm của anh. Sau đó, thay vì đưa cô đến gặp chị gái, Tereus lại dẫn Philomela đến một vùng xa xôi trong vương quốc của mình và ở đó anh giam giữ cô trong nhiều tháng.

Cuối cùng, vị vua trở về gặp vợ một mình và kể rằng cha cô đã từ chối cho phép em gái cô trở về cùng. Philomela bất hạnh đã trải qua một cuộc sống khốn khổ ở nơi Tereus đã giam giữ cô, và tìm cách giải thoát mình khỏi nhà tù dù vô ích. Cuối cùng, cô đã tìm ra cách để gửi lời tới chị gái mình. Cô thêu lên chiếc peplos, hay chiếc áo choàng bằng vải lanh, câu chuyện về sự bất hạnh của mình và gửi chiếc áo choàng đến Procne.

Khi nhận được bộ quần áo, Procne đã đọc câu chuyện và lợi dụng một bữa tiệc công cộng để tôn vinh thần Bacchus, cô giả vờ rằng mình bị điên, đi ra ngoài bức tường thành và vội vã đến gặp em gái mình. Cô tìm thấy Philomela trong nhà tù, giải thoát cho em gái và ngay lập tức đưa cô em về nhà trong cung điện hoàng gia Tereus.

Kể từ ngày đó, hai chị em chỉ nghĩ đến việc trả thù cho hành động tàn ác đó và họ tìm ra cách trả thù khủng khiếp đến mức gần như không thể tin được. Procne có một cậu con trai nhỏ tên là Itys. Hai chị em quyết tâm giết cậu bé. Ngay khi phát hiện ra âm mưu, Tereus đã lấy một chiếc rìu và truy đuổi hai chị em để giết họ. Khi anh ta đến gần họ, họ cầu nguyện các vị thần biến họ thành chim. Procne ngay lập tức trở thành chim sơn ca và Philomela trở thành chim én. Tereus cũng bị biến thành diều hâu chuyên đi săn các loài chim khác.

Bằng cách này, người Hy Lạp đã đưa ra giả thuyết về nguồn gốc của chim én và chim sơn ca. Trong những thế kỷ sau, các nhà thơ Latinh ở Rome (Horace, Vergil và những người còn lại) thường nhắc đến truyền thuyết này. Đôi khi họ hát về Procne như một con chim sơn ca, như trong phiên bản gốc tiếng Hy Lạp, nhưng thường thì họ đảo ngược phần kết của truyền thuyết và gọi cô ấy là chim én và Philomela là chim sơn ca.

Do đó, Horace, trong bài thơ Ode to Vergil, trong đó ông mời nhà thơ đến thăm trang trại Sabine của mình, đảm bảo với Vergil rằng thời tiết dễ chịu đã đến bằng cách nói rằng “Những cơn gió Thracian, những người bạn đồng hành của mùa xuân ‘ đang thổi, và ” Con chim bất hạnh, than khóc cho Itys ‘ đang xây tổ.

Các nhà thơ của Anh và Mỹ theo phiên bản Latin của truyền thuyết trong việc họ thường xuyên đề cập đến hai loài chim yêu thích này, và khi họ hát về “Philomel buồn” hoặc về “Santa Filomela” thì họ muốn nói đến chim sơn ca.Vì sao nốt nhạc chim én lại buồn? Nếu bạn lắng nghe tiếng chim én khi nó đứng một mình trên xà nhà, bạn sẽ nghe thấy nó nói đi nói lại với chính mình: “Itys, Itys, Itys.”

Chẳng phải Procne tội nghiệp đang kêu goik và đau buồn cho đứa con trai bé bỏng của mình sao? Và con chim sơn ca, Philomela buồn bã, khi hót líu lo vào buổi tối trên những ngọn cây ở miền nam châu Âu, chẳng phải nó đã cất vào bài hát của mình những tiếng nức nở thực sự của tang tóc sao?

Những nốt nhạc buồn của chú chim này đã nhiều lần được các nhà văn vĩ đại nhất của chúng ta hiểu là biểu hiện của sự đau buồn. Nếu chúng ta nhìn vào Sách Tiên tri Isaia, chúng ta thấy rằng ông ví tiếng kêu của mình với tiếng chim én: “Như chim sếu hay chim én, tôi cũng kêu”.

Dante bắt được trong nốt nhạc của con én âm vang của tiếng than khóc xa xăm, và ông đã truyền nó cho chúng ta bằng những dòng tinh tế mà ông mở đầu mô tả về sự thức tỉnh của mình trong Thung lũng hoa trên Núi Luyện ngục:

-Đúng lúc giấc ngủ buồn bã của cô bắt đầu, chim én nhỏ, gần sáng, có lẽ để nhớ về những nỗi đau trước đây

 Nhưng câu chuyện Hy Lạp ngoại giáo cổ xưa này không đủ đối với người dân thời sau, khi họ mong muốn kể lại nguồn gốc của loài chim yêu thích của họ.

Những người sùng đạo ở Tây Ban Nha kể lại truyền thuyết hay sau đây, trong đó cậu bé Jesus được cho là đã tự tay mình tạo ra những con én đầu tiên :

CÂU CHUYỆN THEO TRUYỀN THUYẾT  TÂY BAN NHA

Đó là vào một ngày thứ Bảy, Chúa Giêsu, khi đó còn là một cậu bé, đi chơi với những người bạn của mình, giống như chính Ngài. Cậu lấy một ít đất sét trắng và dùng nó để tạo ra những chú chim nhỏ với đôi cánh xòe rộng, rồi đem phơi chúng dưới nắng cho khô.

Sau đó có một người Pha-ri-si đi ngang qua và tức giận khi thấy bọn trẻ làm việc vào thứ bảy, ngày đó là  ngày Sa-bát của người Do Thái; và ông bắt đầu tàn sát và tiêu diệt những con chim đất sét nhỏ đó.

Nhưng Chúa Giêsu đã vỗ đôi bàn tay bé nhỏ của mình và những con chim lập tức cất cánh bay đi. Sau đó, trên ngôi nhà của Hài nhi Giêsu, với cùng một loại đất sét mà chúng đã được làm ra, chim én bắt đầu xây tổ trên hiên của mái ngói. Và từ ngày đó đến nay, chúng tiếp tục xây dựng ngôi nhà của mình trên những ngôi nhà nhỏ khiêm tốn của người nghèo và mang lại cho họ bình an và may mắn.

Khi Chúa Giêsu sắp bị đóng đinh trên đồi Can-vê, những con én nhỏ phiền muộn đi theo Người cùng với các phụ nữ thánh thiện, và khi Người bị treo trên cây thánh giá, họ đã rút những chiếc gai ra khỏi vương miện trên trán Người, thứ đã đâm vào đầu thiêng liêng của Người.

Khi Chúa Giêsu chết, những con chim én ngay lập tức để tang, che mình bằng một chiếc áo choàng đen mà chúng vẫn mặc cho đến ngày nay.

Và ở Tây Ban Nha, người ta hát một câu đối nhỏ để tưởng nhớ nghi lễ sùng đạo này, như sau:

-Trên núi Can-vê, Những con nhạn thương xót, rút ra mười ngàn chiếc gai từ Đấng Christ tội nghiệp, đau khổ.

Truyền thuyết thứ ba của chúng ta liên quan đến nguồn gốc của chim én đến từ các bộ lạc người da đỏ Navaho. Trong đó, chúng ta thấy những con chim én, trước khi đến trái đất, chiếm giữ một trong những thiên đường thường xuất hiện trong truyền thống Ấn Độ.

CÂU CHUYỆN THEO TRUYỀN THUYẾT NAVAHO

Họ bay vòng tròn lên cao cho đến khi chạm tới bầu trời. Nó thật êm ả. Họ nhìn xuống; nhưng ở đó nước đã dâng lên và chẳng có gì khác ngoài nước. Khi họ bay vòng quanh, có một con có cái đầu màu xanh thò đầu từ trên trời xuống nói với chúng rằng: “Ở đó, về phía đông, có một cái hang”.

Họ bước vào cái hang và đi xuyên qua nó để lên bề mặt của thế giới thứ hai. Cái hang màu xanh thuộc về Người Én. Người Én sống ở đó. Rất nhiều ngôi nhà của họ, thô sơ và gồ ghề, nằm rải rác khắp nơi. Mỗi cái thon dần về phía trên và ở phần đó có một lỗ để vào. Rất nhiều người đến gần và tụ tập xung quanh những người lạ, nhưng họ không nói gì.

Thế giới đầu tiên có màu đỏ; thế giới thứ hai mà con người hiện đang bước vào có màu xanh lam. Họ cử hai người đưa tin, một Châu chấu và một Châu chấu trắng, đến phía đông để khám phá vùng đất và xem liệu ở đó có người nào giống mình không.

Sau hai ngày, những người đưa tin quay lại và nói rằng trong một ngày đi đường họ đã đến được rìa thế giới – đỉnh của một vách đá lớn nhô lên từ vực thẳm mà họ không thể nhìn thấy đáy; nhưng họ không tìm thấy trong suốt cuộc hành trình không có người của mình, không có bất kỳ loại động vật nào, không có cây cối, không có cỏ, không có cây ngải đắng, không có núi non, không có gì ngoài mặt đất bằng phẳng.

Sau đó, những người đưa tin tương tự lần lượt được phái đi về phía nam, phía tây và phía bắc. Họ mất hai ngày để đi mỗi cuộc hành trình, và khi trở về họ kể lại, như trước, rằng họ đã đến rìa thế giới, và không phát hiện được gì ngoài một vùng đất hoang không có người ở. Tại đây, những người lạ thấy mình đang ở giữa một đồng bằng rộng lớn cằn cỗi, nơi không có thức ăn cũng như không có người thân.

Khi những người đưa tin từ phương bắc trở về, những con én đến thăm trại của những người mới đến và hỏi họ tại sao lại gửi quân về phía đông.

“Chúng tôi cử họ đi,” người đó trả lời, “để xem trên mặt đất có gì, và để xem có người nào giống như chúng tôi ở đây không.”

“Và những người đưa tin của bạn đã nói gì với bạn?” những con én hỏi.

“Họ nói với chúng tôi rằng họ đã đến tận cùng thế giới nhưng không tìm thấy thực vật và sinh vật nào trên mặt đất.”

(Những câu hỏi tương tự đã được đặt ra và những câu trả lời tương tự được đưa ra cho các điểm khác của la bàn.)

“Họ đã nói sự thật,” Người Én nói. “ Nếu ngay từ đầu bạn hỏi chúng tôi vùng đất này chứa gì, chúng tôi sẽ nói cho bạn biết và giúp bạn tránh khỏi mọi rắc rối. Cho đến khi bạn đến, chưa có ai từng cư trú trên toàn bộ vùng đất này ngoại trừ chúng tôi.”

Mọi người nói với chim én: “Các bạn hiểu tiếng chúng tôi và có nhiều thứ cũng giống chúng tôi. Các bạn có chân, bàn chân, thân, đầu, cánh như chúng tôi. Tại sao người của các bạn và người của chúng tôi không thể trở thành bạn bè?”

“Hãy để mọi chuyện như bạn muốn,” những con én nói, và cả hai bên ngay lập tức bắt đầu coi nhau như thành viên của một bộ tộc.

Họ trộn lẫn với nhau và xưng hô với nhau bằng những từ ngữ thân thiết, như anh trai, chị gái tôi, bố tôi, con trai tôi, v.v.

Tất cả họ đều sống hạnh phúc và vui vẻ bên nhau trong hai mươi ba ngày, nhưng vào ngày hai mươi tư, một trong những người lạ đã thô lỗ với vợ của Tù trưởng Én, và ngày hôm sau khi biết chuyện, Tù trưởng đã nói với những người lạ rằng: “Chúng tôi đã coi các bạn như bạn bè, và do đó các bạn đáp lại lòng tốt của chúng tôi. Chúng tôi không ngờ rằng vì những tội ác như vậy mà các bạn đã bị đuổi khỏi thế giới thấp hơn, và bây giờ các bạn phải rời bỏ nơi này. Đây là vùng đất của chúng tôi, và chúng tôi sẽ không để các bạn ở đây nữa. Hơn nữa, đây là một vùng đất xấu. Ở đây người ta đang chết mỗi ngày, và ngay cả khi chúng tôi tha thứ cho các bạn, các bạn cũng không thể sống ở đây lâu được.”

Châu chấu thi hành đầu tiên. Họ bay lên cao. Những người khác theo sau, tất cả đều bay lên và bay vòng tròn cho đến khi chạm tới bầu trời. 

Nhật ký Mountain,

Feb 08

Lẽ ra giờ này tôi đã đón Tết trên quê hương mình, vùng châu thổ Cửu Long trù phú nhưng một giai điệu bất chợt nào đó

Bên anh em gần mãi
Nên đời vẫn, đời vẫn xuân trào

đã níu bước chân tôi ở lại biên cương lạnh giá,  nơi địa đầu Tổ quốc thêm ít ngày.

“Mùa chim én bay” nghe cứ mang âm hưởng của dân ca Bắc Bộ dù cả phần nhạc và lời đều được viết bởi hai nghệ sĩ miền Tây Nam Bộ chính gốc.

Khi gió đồng thơm ngát
Hương lúa chín ngọt ngào
Rợp trời chim én liệng
Cho lòng anh nôn nao

Khi đọc những vần thơ của thi sĩ người Tiền Giang này, tôi không biết nơi tôi đang đứng có con chim én nào không. Vì tuy Xuân đã chạm đến cửa nhà, những căn nhà sàn, nhà đá cheo leo nơi vách núi, nhưng cái lạnh vẫn còn như tê tái lắm.

Băng tuyết vừa mới tan cuối tháng trước, trời hửng nắng được vài ngày. Nhưng như chợt nhớ ra rằng đã lâu cái Tết nơi miền biên ải này không cho người ta cảm giác được chạm tới sự ngọt ngào của kiểu rét ngọt quyến rũ. Nên để chiều lòng người, trong đó có người lữ khách phiêu bạt như tôi, bắt đầu từ tối qua bầu trời đã chuyển gió. Đóng đô ở đây đã được mấy tháng, tôi chợt nhận ra mình đã có thể trở thành một nhà khí tượng học (Ah, tôi cứ phải nhắc là tôi không phải anh thanh niên Sapa đâu nhá. Bằng chứng là tôi vẫn đang giữ cái khăn mùi soa trong túi áo đây thôi :)).

Cơn gió thoáng qua với cơn gió báo hiệu một kiểu thời tiết khác đang tới nó khác nhau lắm. Vậy là Tết con Rồng này tôi sẽ được thưởng thức một cái Tết với hơi lạnh đặc trưng của khí hậu miền Bắc, một cơ hội không phải lúc nào cũng gặp.

Chả phải đó cũng là điều may mắn sao? Khi cầu được, ước thấy?

Hiện tại tôi đã rất sẵn sàng  cho chuyến du Xuân “Xuôi vạn lý” hơn 2.000 km từ cột mốc số 0 vùng cao phía Bắc về đến đất Mũi Cà Mau.  

Tiếc là trong chuyến trở về này chỉ có một mình tôi, thằng bạn Charlie chẳng biết vì “viêm màng túi” hay vì nhớ nàng “Lý Chính Thất” nào đó mà đến nay căn bệnh lãng tai vẫn chưa có giấu hiệu thuyên giảm :))

Có khi mai tôi phải vào nhà thầy lang xóm nhà cô Mị nhờ thầy bốc một thang thuốc cho nó xem sao, biết đâu tình hình sẽ có chuyển biến khác :))

Còn giờ, ngọn lửa tỏa ra từ cái bếp củi đang cháy bập bùng đã sưởi ấm trái tim tôi và khiến tôi dù không phải là thi sĩ William, hay cũng không sinh ra từ cái đất ra ngõ gặp nhà thơ tình yêu thì cũng nổi hứng phải tìm “Thơ” mà đọc :))

Bạn đọc thử xem nhé, đây là bài thơ Haiku, loại thơ cực ngắn của Nhật Bản, cô đọng và hàm súc. Một bài thơ chỉ ba câu, mười bảy âm tiết (5-7-5) dài không quá mười hai, mười ba từ, không chấm câu, không đề.

Nhưng đọc thú vị lắm đấy!

1.

Khi con én bay tới bay lui,

Bóng của nó phủ xuống

Trên cánh cửa cũ

 

As the swallow flies to and fro,

Its shadow is cast

Upon the old door

Điều quan trọng nhất ở đây không phải là con én mà là cánh cửa. Những gì được cảm nhận là sự thờ ơ của cánh cửa, và càng được tăng theo tuổi tác của nó; nhưng khi điều này được nói ra, không chỉ sự thật này biến mất mà cả con én, cái bóng của nó và cánh cửa cũ nữa. Những gì nhìn thấy bằng mắt thì đã có thể thấy rồi; nhưng những gì được nhìn bằng con mắt thơ mộng là còn “được cảm”, tất cả sự sống nảy sinh từ chất liệu chết của chim và cánh cửa.

2.

Con én thả phân

Xuống bức tranh Otsu,

Rồi bay đi

The swallow makes a dropping

On the Otsu picture,

And flies off

Loại tranh này,  là một bức phác họa thô sơ, đủ rẻ để người nghèo có thể mua được, nhưng lại mang chút hương vị mộc mạc làm vui mắt vì sự tao nhã và cầu kỳ. Một số là hình các cô gái nhảy múa, một số là những con quỷ với đôi mắt rực sáng đang ngâm nga bài “nenbutsu”, một số là hình con cá da trơn và quả bầu.

Những thứ này được trải ra ven đường ở ngoại ô thị trấn để thu hút sự chú ý của những người dân quê đang trở về làng của họ. Trên những vết bẩn như vậy, phân của chim nhạn không phải là vấn đề đáng lo ngại. Có một đoạn thơ tương tự cũng của Buson

Phân của diều hâu

Mắc kẹt

Trên bông diên vĩ.

The kite’s droppings

Stuck

On the irises.

Nhưng đây hoàn toàn là một bức tranh có màu xanh lá cây, tím và trắng, tất cả mọi thứ đều được sử dụng một cách khách quan và không có thành kiến, như những màu sắc trong bảng màu của anh ấy.

3.

Bay vào qua mành tre

Con én đã được thuần hóa

Bởi cô gái xinh đẹp

Flying in by the bamboo-blind

The swallow is tame

With the beautiful girl

Một thứ đẹp đẽ là đã đủ, nhưng ở đây có những hai. Điều này làm chúng ta nhớ đến Davies:

Cầu vồng và bài hát của chim cúc cu

Có thể không bao giờ đến với nhau nữa

Có thể không bao giờ đến

Bên này mộ

A rainbow and a cuckoo’s song

May never come together again

May never come

This side the tomb

Nhưng trong thơ Nhật còn có một điều đẹp đẽ khác, đó là mối quan hệ bình dị, cổ tích giữa cô gái và chú chim.

4.

Bị khuấy động,

Con én bay ra

Khỏi căn phòng vàng

Agitatedly,

The swallow flies out

Of the chamber of gold

Bằng cách nào đó con én mắc sai lầm và lạc vào một căn phòng. Bối rối một chút, nó phóng ra khỏi phòng và tiếp tục lộ trình cũ. Tương phản với khung cảnh vàng rực rỡ, màu đen và trắng của hình ảnh con én rõ ràng nổi bật một cách táo bạo.

Những khoảnh khắc như vậy là những khoảnh khắc của cuộc sống đối với nhà thơ, kẻ có thể chộp lấy chúng từ thời gian; khi con én biến mất, không có cảm giác mất mát, không ước mong nó quay trở lại, chỉ còn tàn dư của cuộc đời đã trải qua giữa nhà thơ và con chim, một cuộc sống có màu sắc, hình thức cũng như sự tồn tại sống động.

5.

Phía sau dãy nhà kho,

Nơi con én

Bay lên bay xuống

Behind a line of warehouses,

Where the swallow

Fly up and down

Ở đây có sự tương phản giữa chuyển động và bất động, nhẹ nhàng và nặng nề, cởi mở và bí mật, thiên nhiên và con người. Trong những tia nắng chiều tà, đàn én nghiêng mình bay theo cùng một đường bay nhưng khác nhau đằng sau những nhà kho kiên cố, đen trắng xếp thành hàng dọc con đường. Điểm nhấn mang tính thơ nằm ở chữ “phía sau”. Cuộc sống của chúng, giống như cuộc sống của chúng ta, được sống trong một cõi đã biết nhưng lại là chưa biết; nó ở trong bóng râm, trong bóng tối, mặc dù có thể là ban ngày; nó ở “phía sau” chúng ta.

6.

Con én

Chao qua liệng lại;

Nó đã quên cái gì thế?

The swallow

Turns a somersault;

What has it forgotten ?

Bài này mô tả chuyến bay của con én, cách thức đặc biệt của nó là đột ngột quay đầu và trở lại. Sự hài hước và huyền ảo thể hiện rất khéo léo động tác của nó. Có một câu thơ tương tự về con chuồn chuồn ở Akinobo

Con chuồn chuồn,

Lao nhanh tới ngọn núi xa,

Rồi lại nhanh trở lại

The dragon-fly,

Swift to the distant mountain,

Swift to return

Bài này cũng sử dụng sự hài hước để thể hiện bản chất của loài vật. Hay đúng hơn là bản chất cơ bản của những thứ này và của tất cả mọi thứ là hài hước?

7.

Một con én

Bay ra khỏi mũi

Của Đức Phật vĩ đại

A swallow

Flew out of the nose

Of the Great Buddha

Tượng Phật vĩ đại này sẽ ở Nara, hay ở Kamakura.

Từ quan điểm thông thường và tương đối, chúng ta có sự tương phản giữa sự thần thánh và trần tục trong hình ảnh con én bay ra khỏi mũi của tượng Phật. Từ quan điểm tuyệt đối, dù con én bay ra từ Mũi Thánh của Đức Phật hay từ mái hiên nhà công cộng đều như nhau. Nhưng phạm vi của bài thơ này không phải là tương đối cũng không phải tuyệt đối. Nó ở trong chính cuộc sống, cuộc sống không phải là luật lệ hay số phận mà là cả hai.

Nếu bỏ lại cuộc nói chuyện trừu tượng vô nghĩa này, chúng ta tái hiện lại trải nghiệm thi ca của Issa, thì chúng ta cũng nhận được điều tương tự, chỉ được diễn đạt bằng những thuật ngữ dễ hiểu hơn. Issa cảm thấy con én bay đến bất cứ nơi nào mà đôi cánh của nó mang theo là sự bất công, nhưng nhận ra rằng hình ảnh đó không chỉ là một khối kim loại đơn thuần. Trên hết, anh ấy cảm thấy có một ý nghĩa nào đó trong cuộc xung đột giữa luật pháp và tự do này, một ý nghĩa sẽ cạn kiệt thành lời khi nó được giải thích.

Một câu thơ khác của Issa, thuộc về mùa đông, cũng minh họa sự kết hợp những điều trái ngược của ông, như sau:

Từ đầu mũi

Của Đức Phật trên đồng hoang,

Những giọt băng lơ lửng.

From the end of the nose

Of the Buddha on the moor,

Hang icicles.

8.

Chim én hót líu lo trong đêm;

Người dân của ngôi nhà

Đang xua đuổi con rắn.

The swallows twitter at night;

People of the cottage

Are striking at the snake.

Một con rắn đã bò đến gần tổ chim én, trong đó có trứng hoặc chim con. Chim bố mẹ bay ra kêu ríu rít, ồn ã quanh mái hiên. Những người trong nhà cầm đèn lồng và gậy gộc xông ra xua đuổi con rắn đang quằn quại cố gắng trốn thoát dọc mái hiên

9.

Ah, chim én buổi tối!

Lòng tôi đầy nỗi sợ hãi

Cho ngày mai

Ah, evening swallow!

My heart is full of fears

For the morrow

Bài này có lẽ có gì đó  của Burns

‘Làm sao các ngươi có thể ca hát,

hỡi những chú chim nhỏ,

Và tôi thực sự quan tâm?

How can ye chant,

ye little birds,

And I so fu’ o’ care?

Đó là Keats

‘‘Ta không phải ganh ngươi vì hạnh phúc,
Nhưng vui vì thấy ngươi quá hồn nhiên,

‘Tis not through envy of thy happy lot,

But being too happy in thine happiness

Thơ Haiku hay đấy chứ, bạn làm một bài mừng Xuân thử, kiểu như:

Chút chít

Tiếng chuột kêu

Trong đêm ba mươi tĩnh lặng

:)))

Wishing all of you a happy New Year!

You may also like

Để lại bình luận