NĂM NHUẬN
Các năm 2020, 2024, 2028, 2032, 2036, 2040 và 2044 có điểm gì chung? Đó chính là Năm nhuận, khi tháng Hai có thêm một ngày và dài 29 ngày.
Nhưng tại sao? Lý do đằng sau nó hơi phức tạp. Ví dụ, hầu hết mọi người tin rằng năm nhuận xảy ra bốn năm một lần, nhưng điều đó không phải lúc nào cũng đúng.
Tại sao chúng ta có năm nhuận?
Một năm dương lịch thường dài 365 ngày. Những năm này xác định một cách tương đối số ngày Trái đất cần để hoàn thành một quỹ đạo quanh Mặt trời. Nhưng 365 thực chất là một con số được làm tròn.
Trái đất mất 365,242190 ngày để quay quanh Mặt trời, hay 365 ngày 5 giờ 48 phút và 56 giây. Năm “thiên văn” này dài hơn một chút so với năm dương lịch và bằng cách nào đó cần phải tính thêm 5 giờ 48 phút 56 giây đó. Nếu chúng ta không tính đến thời gian thêm này, các mùa sẽ bắt đầu trôi đi.
Điều này sẽ gây ra phiền nhiễu nếu không muốn nói là tàn phá, bởi vì trong khoảng thời gian khoảng 700 năm, mùa hè của chúng ta, mà chúng ta dự đoán vào tháng 6 ở bán cầu bắc, sẽ bắt đầu diễn ra vào tháng 12!
Bằng cách thêm một ngày vào mỗi bốn năm, năm dương lịch của chúng ta vẫn được điều chỉnh theo năm thiên văn, nhưng điều đó cũng không hoàn toàn đúng.
Tại sao không phải lúc nào cũng là “cứ bốn năm lại có một năm nhuận”?
Một số phép toán đơn giản sẽ cho thấy rằng trong bốn năm, sự khác biệt giữa năm dương lịch và năm thiên văn không chính xác là 24 giờ.
Thay vào đó là 23,262222 giờ. Làm tròn lại gây tai họa một lần nữa! Bằng cách thêm một ngày nhuận cứ sau bốn năm, chúng ta thực sự làm cho lịch dài hơn hơn 44 phút. Theo thời gian, hơn 44 phút thêm này cũng sẽ khiến các mùa trôi đi trong lịch của chúng ta.
Vì lý do này, không phải bốn năm một lần đều là năm nhuận. Quy tắc là nếu năm chia hết cho 100 và không chia hết cho 400 thì bỏ qua năm nhuận. Ví dụ, năm 2000 là năm nhuận, nhưng các năm 1700, 1800 và 1900 thì không. Lần tiếp theo năm nhuận sẽ bị bỏ qua là năm 2100.
Tại sao gọi là “năm nhuận”?
Vâng, một năm thông thường có 52 tuần và 1 ngày. Điều đó có nghĩa là nếu năm nay sinh nhật của bạn xảy ra vào thứ Hai thì năm tiếp theo nó sẽ diễn ra vào thứ Ba. Tuy nhiên, việc thêm một ngày vào năm nhuận có nghĩa là ngày sinh của bạn bây giờ “nhảy” hơn một ngày.
Thay vì sinh nhật của bạn diễn ra vào Thứ Ba như các năm thông thường, trong năm nhuận, sinh nhật của bạn “nhảy” qua Thứ Ba và bây giờ sẽ diễn ra vào Thứ Tư.
Và nếu bạn sinh vào ngày nhuận 29 tháng 2, điều đó không có nghĩa là bạn chỉ tổ chức sinh nhật bốn năm một lần. Vào những năm không có ngày nhuận, bạn sẽ tổ chức sinh nhật vào ngày 1 tháng 3 và tiếp tục già đi như tất cả chúng ta.
Nhờ năm nhuận nên các mùa của chúng ta sẽ luôn diễn ra đúng thời điểm chúng ta mong đợi và năm dương lịch của chúng ta sẽ trùng với năm thiên văn của Trái đất.
MỘT SỐ SỰ THẬT THÚ VỊ VỀ NĂM NHUẬN
By Esther Frauenstein
1. Tất cả các tháng khác trong lịch Julian đều có 30 hoặc 31 ngày, nhưng tháng Hai đã thua thiệt vì cái tôi của Hoàng đế La Mã Caesar Augustus. Dưới thời người tiền nhiệm Julius Caesar, tháng Hai có 30 ngày và tháng mang tên ông – tháng Bảy – có 31. Tháng Tám chỉ có 29 ngày.
Khi Caesar Augustus trở thành Hoàng đế, ông đã thêm hai ngày vào tháng ‘của mình’ để làm cho tháng Tám giống với tháng Bảy. Thế là tháng Hai đã thua tháng Tám trong trận chiến của những ngày thêm.
2. Nếu một người đàn ông từ chối lời cầu hôn, anh ta sẽ bị phạt một nụ hôn, một chiếc váy lụa hoặc mười hai đôi găng tay.
3.Theo truyền thống, phụ nữ phải mặc quần ống túm hoặc váy lót màu đỏ tươi để cầu hôn.
Phụ nữ có thể cầu hôn nam giới vào năm nhuận: Theo truyền thuyết vào thế kỷ thứ V khi một nữ tu sĩ người Ireland tên là St Bridget đã phàn nàn với thần hộ mệnh của nước này, thánh Patrick về việc người phụ nữ phải đợi chờ quá lâu để “nửa kia” nói lời cầu hôn. Sau đó, Thánh Patrick đã quyết định chọn ngày 29/2 là ngày phụ nữ có thể “cầu hôn” với nam giới. Năm 1288, Scotland đã thông qua đạo luật cho phép phụ nữ được cầu hôn nam giới trong năm nhuận.
4. Một trong năm cặp đôi đã đính hôn ở Hy Lạp sẽ lên kế hoạch tránh kết hôn vào năm nhuận. Họ tin rằng đó là điều xui xẻo.Nếu như đối với nhiều người hoặc một số quốc gia, ngày 29/02 được xem là ngày đặc biệt may mắn thì ở Hy Lạp và Scotland ít ai chào đón, vì ngày này được xem là ngày xui xẻo tương tự như thứ 6 ngày 13 và họ cho rằng những cặp đôi kết hôn vào ngày 29/02 sau này sẽ gặp kết cục không may mắn.
5. Người sinh ngày 29 tháng 2 được gọi là “người nhảy vọt”.
6. The Honor Society of Leap Year Babies là câu lạc bộ dành cho những người sinh ngày 29 tháng 2. Hơn 10.000 người trên toàn thế giới là thành viên.
7. Các nhà chiêm tinh tin rằng những người sinh ngày 29 tháng 2 có tài năng khác thường, chẳng hạn như khả năng đọc bảng chữ cái hoặc vẽ tranh như Picasso.
8. Người đáng chú ý duy nhất được biết là sinh và mất vào ngày 29 tháng 2 là Ngài James Wilson (1812–1880), Thủ hiến Tasmania.
9. Tỷ lệ sinh vào ngày nhuận là 1/1500
10. Karin Henriksen người Na Uy sinh ba người con liên tiếp vào ngày 29 tháng 2 – một con gái vào năm 1960 và hai con trai vào năm 1964 và 1968.
11. Ở Hồng Kông, ngày sinh nhật hợp pháp của một “người nhảy vọt” là ngày 1 tháng 3 trong các năm thông thường, trong khi ở New Zealand là ngày 28 tháng 2. Nếu tính đúng thời gian, khi bay từ nước này sang nước khác, bạn có thể tận hưởng ngày sinh nhật dài nhất thế giới.
12. Hôm nay bạn đang làm việc không công nếu bạn nhận mức lương cố định hàng năm. Và những tù nhân có mức án một năm phải chấp hành thêm ngày nếu thời hạn vượt qua ngày nhuận.
13. Con ếch là biểu tượng gắn liền với ngày 29 tháng 2. Loài ếch tên lửa Úc có thể nhảy cao hơn hai mét.
14. Anthony, Texas tự xưng là “Thủ đô năm nhuận của thế giới”. Nơi đây tổ chức một lễ hội bao gồm chuyến đi có hướng dẫn đến Hang Aztec, “vui chơi ở trang trại ngựa” và khiêu vũ vuông.
15. Matthew Goode, ngôi sao điện ảnh người Anh đóng trong phim Leap Year, cho biết anh biết bộ phim sẽ bị nhớ đến là “bộ phim tệ nhất năm 2011” nhưng muốn “được ở gần nhà và có thể đến thăm bạn gái và con gái mới sinh của mình.” .”
16. Ở Nga, người ta tin rằng năm nhuận có thể mang đến nhiều kiểu thời tiết kỳ dị hơn và nguy cơ tử vong cao hơn. Kinh nghiệm dân gian làm nông nói rằng đậu và đậu Hà Lan trồng vào năm nhuận “phát triển sai cách”.
17. Ở Đài Loan, theo truyền thống, con gái đã lấy chồng sẽ về nhà vào tháng nhuận vì người ta tin rằng tháng âm lịch có thể mang lại sức khỏe không tốt cho cha mẹ. Con gái được yêu cầu mang mì chân giò (lợn) để cầu chúc sức khỏe và may mắn.
18. Năm nhuận trong lịch sử: Trong những năm nhuận, George Armstrong Custer đã đánh trận Little Bighorn (1876), tàu Titanic bị chìm (1912), Benjamin Franklin đã chứng minh rằng sét là điện (1752) và vàng được phát hiện ở California ( 1848).
Google Doodle sáng nay chào mừng năm nhuận bằng hình ảnh đẹp các bạn nhỉ. Mình vốn thích nhìn hình vẽ chú ếch xanh trên cái lá môn xanh trên làn nước xanh “Kìa chú là chú ếch con. Có hai là hai mắt tròn” nhưng thoạt đầu cũng chưa hiểu dụng ý của Google là gì khi đưa chú ếch để minh họa.
Phải mất một lúc một luận ra được các bạn ạ (hơi chậm nhỉ): Trong tiếng Anh điệu nhảy (giống như của chú ếch) là leap (từ này được từ điển định nghĩa nghĩa thứ nhất của nó tương đồng với jump – cú nhảy). Mà năm nhuận cũng là Leap: Leap year.
Cho nên biết thêm ngoại ngữ (ngoài tiếng mẹ đẻ ra) nó thú vị lắm các bạn ạ, giống như mở ra cho mình cánh cửa để khám phá chân trời tri thức và văn minh nhân loại. Tất nhiên không ai có khả năng biết hết mọi ngôn ngữ trên thế giới, nhưng ít nhất cũng nên biết (thành thạo thì càng tốt) một trong hai thứ tiếng: Anh và Trung.
Kho tàng tri thức đồ sộ và những gì tinh túy nhất mà con người đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử đều có thể tìm thấy qua những tài liệu được phản ánh bằng hai ngôn ngữ này. Nó thật sự là vô giá.
Nhưng, lại tiếc, là chúng ta không có (và không xây dựng được) đội ngũ những dịch giả, những người viết thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học tự nhiên để chuyển thế những tri thức đó sang ngôn ngữ tiếng Việt và phổ biến rộng rãi ra đại chúng bằng một hệ thống thư viện bao phủ.
Tiếng Việt càng ngày càng yếu vì hai nguyên nhân:
Thứ nhất gốc tiếng Việt phần lớn là tiếng Hán, những từ hay nhất trong tiếng Việt chính là từ Hán Việt đó các bạn, thì chúng mình lại chẳng được học tiếng Hán nên đọc văn chương thơ ca cổ gần như không hiểu gì;
Thứ hai với khoa học hiện đại phần lớn các phát minh đều được khám phá ra ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nên cũng được viết bằng ngôn ngữ khác, với những thuật ngữ khoa học rất là mới (từ kinh tế cho đến khoa học cơ bản) mà không kiếm đâu ra được ở kho tàng tiếng Việt đã quá cũ kỹ. Thành thử đôi khi phải để nguyên từ của tiếng nước ngoài
Hệ thống thư viện từ cấp quốc gia đến địa phương quá nghèo nàn, lạc hậu. Đọc sách mới chỉ dừng ở mức hô hào khẩu hiệu, nặng về hình thức mà không xây dựng được một chiến lược bài bản.
Chúng ta mãi chỉ như anh thợ đẽo cày giữa đường
ta trồng cây chiều hôm nay
và thu hoạch quả vào sáng ngày mai
rồi vội vàng chở về
trong một chiếc xe kéo cồng kềnh ọp ẹp
trên những con đường ngoằn ngoèo chật hẹp
những con đường mấp mô và luôn đông nghẹt,
những con đường nắng chang
không một bóng cây rợp mát
ta chỉ thấy xung quanh
bên này đường
quán cà phê, trà đá, thức ăn nhanh
và bên kia
tiệm giặt là, sửa xe, làm tóc
bật khóc
ta dừng chân nơi đèn đỏ
một cơn gió
phả vào mặt ta bỏng rát
rồi mây vần vũ và mưa bắt đầu rơi
nặng hạt
mưa như lũ thác
cuốn cuộn dưới bàn chân,
ta xuyên qua
những tiếng ó la
và những tiếng chửi thề tựa âm thanh sấm sét
ta băng qua
hàng trăm ki lo mét
và may mắn khi thấm mệt
kịp về đến hiên nhà
nhưng những thành tựu của mùa màng, lúc mở ra
quả thì còn xanh,
trái lại đã
dập nát!
(mình viết vội bài này một cách ngẫu hứng cách đây hơn chục năm, khi đi công tác về gặp cơn mưa tầm tã và nhìn ra ngoài cửa kính xe, tại một cây đèn đỏ, ,mình thấy một người buôn hoa quả không có áo mưa, người ướt hết và phía sau anh chở thùng trái cây giữa hỗn độn đủ thứ âm thanh. Giờ mình lại nghĩ đến nó nên đăng ở đây)
Có một bộ phim liên quan đến ‘Năm nhuận” (Leap year), không biết đã bạn nào xem chưa ? Đó là một bộ phim tình cảm nhẹ nhàng kể về hành trình ngẫu nhiên tìm thấy được tình yêu chân chính đời mình của một cô gái thành thị đến từ nước Mỹ tên Anna.
Anna bay đến Dublin, Ireland để cầu hôn bạn trai cô, một vị bác sĩ thành đạt nhưng bận rộn, người đang công tác tại đây, vào đúng ngày 29 tháng 2 bởi theo truyền thuyết của người Ireland thì người đàn ông nào được hoặc bị cầu hôn vào ngày nhuận phải chấp nhận lời cầu hôn đó.
Tuy nhiên vì thời tiết xấu nên chuyến bay của cô bị trục trặc và cô bị mắc kẹt ở một ngôi làng nhỏ vùng miền quê đẹp như tranh của Ireland. Tại đây cô đã gặp được chàng trai thực sự yêu mình dù bề ngoài anh ta luôn tỏ ra cục cằn thô lỗ, để rồi cuối cùng cô nhận ra cuộc sống hào nhoáng cùng vị hôn phu giàu có không phải là nơi dành cho mình.
Nội dung phim này thì không có gì mới lạ nhưng mình ấn tượng với những cảnh quay đẹp như mộng của đồng quê thiên nhiên của nước Anh. Và dù ở một đất nước phát triển như vậy rồi nhưng vẫn có sự khác biệt rõ rệt về hạ tầng và dịch vụ giữa khu vực thành thị và nông thôn; giữa đô thị lớn và tỉnh lẻ
NGƯỜI H’MONG
By Sarah Turner
6.
Giống như trâu có vị trí then chốt trong xã hội, nghi lễ và sinh kế của nhiều nhóm dân tộc thiểu số ở vùng cao Tây Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam, thì rượu chưng cất và rượu ngô cũng vậy (thường được gọi là cawc trong tiếng Hmong, jiu trong tiếng Trung và rượu trong tiếng Việt) .
Truyền thống chưng cất rượu phổ biến đã là thói quen của các hộ gia đình người Mông trong nhiều thế kỷ. Mặc dù luôn quan trọng nhưng đồ uống có cồn trước đây chỉ được dành cho những dịp đặc biệt, chẳng hạn như các nghi lễ vòng đời như đám cưới, đám tang, lễ tổ tiên và Tết Nguyên đán.
Ngày nay, việc tiêu thụ rượu chưng cất tự chế ở địa phương đã trở nên phổ biến hơn nhiều và được ưa chuộng để chiêu đãi khách, tại các hội chợ, trong thời gian lao động chung và tại nhiều lễ hội khác.
Các gia đình người Mông coi việc mời khách uống rượu gạo (tiếng Hmong: cawv nplej) hoặc rượu ngô là biểu hiện của sự lịch sự, tôn trọng và tình bạn.
Rượu thường được cung cấp – và được mong đợi – trong quá trình trao đổi lao động nhóm hoặc thỏa thuận lao động được trả lương, chẳng hạn như trồng lúa hoặc xây nhà. Trong khi người chưng cất và thương nhân có thể là nam giới hoặc phụ nữ, việc tiêu thụ rượu một cách công khai có xu hướng là một hoạt động giới tính.
Thông thường, phụ nữ uống rượu quá mức trong các sự kiện xã hội thường bị phản đối, mặc dù đàn ông thường làm như vậy vào những ngày họp chợ và các cuộc tụ họp khác. Tuy nhiên, việc phụ nữ uống đồ uống có cồn trong các nghi lễ quan trọng như đám cưới và nghi lễ sau tang lễ là điều bình thường.
Rượu là một phần trong các cuộc đàm phán hôn nhân và đám cưới của người Hmong, nơi rượu thường được phục vụ trong những chiếc cốc tre được chạm khắc đặc biệt.
Theo phong tục, rượu cũng được đưa vào như một phần của khoản thanh toán trong đám cưới và của cải cô dâu do nhà trai tặng cùng với lợn, gà, bạc thỏi hoặc tiền. Việc trao đổi những vật phẩm này, cũng có giá trị biểu tượng, đóng vai trò như một khế ước xã hội, củng cố mối liên minh giữa hai thị tộc thông qua hôn nhân.
Mặc dù tổng số tiền trao đổi này thay đổi tùy theo địa vị xã hội và tình trạng giàu có của một hộ gia đình, nhưng 40 đến 50 lít rượu vẫn là một kỳ vọng khá nhất quán trong hàng thập kỷ qua. Danh sách các khoản thanh toán đám cưới thường, được báo cáo vào năm 2013, bao gồm 40 đến 50 lít rượu, 100 kg lợn sống, 5 kg thịt gà (hai hoặc 3 con) và số tiền tương đương khoảng 500 USD tiền địa phương.
Để so sánh, khi Tsi, một phụ nữ Hmong trung niên, kết hôn vào giữa những năm 1980, lượng rượu trao đổi trung bình chỉ bằng một nửa số đó, có lẽ do nền kinh tế bao cấp của miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1986, khi hoạt động sản xuất và buôn bán tư nhân rượu bị cấm.
Trước đó nữa, Giàu, một người đàn ông lớn tuổi người Mông Sa Pa, kể rằng khi lấy vợ năm 1968, bố mẹ ông phải chu cấp cho gia đình vợ năm mươi chai rượu, năm mươi thỏi bạc, năm mươi đồng bạc và năm mươi kg thịt lợ
Một cặp vợ chồng người Hmong lớn tuổi ở Maguan, Vân Nam, tiết lộ rằng rượu ngô là một phần của lễ cưới khi họ kết hôn vào năm 1970 và vẫn tiếp tục là thông lệ cho đến giờ.
Một người đàn ông Hmong lớn tuổi khác lưu ý rằng khi ông kết hôn vào cuối những năm 1960, các khoản thanh toán bao gồm 40 lít rượu cùng với 70 đến 80 kg thịt lợn, bảy bộ quần áo may thủ công, hai con gà và Y80. Những người được phỏng vấn này xác nhận chức năng quan trọng của rượu vùng cao ở những thời điểm khác nhau và ở cả hai bên biên giới Trung-Việt và nhấn mạnh tính liên tục của ý nghĩa văn hóa của rượu.
Nhu cầu về gạo và rượu ngô của các hộ gia đình Hmong đạt đỉnh điểm trong khoảng thời gian trước Tết Nguyên đán, diễn ra vào cuối tháng Giêng hoặc đầu tháng Hai. Mùa nghỉ lễ có thể bắt đầu sớm nhất là vào tháng 10 hoặc tháng 11, khi rượu, thường được dùng làm quà tặng, được sử dụng trong nhiều lễ kỷ niệm và các chuyến thăm xã hội.
Trong những tháng sau vụ thu hoạch, các hộ gia đình có nhiều thời gian hơn dành cho những sự kiện xã hội quan trọng, đặc biệt là đám cưới.
Để chuẩn bị cho nhu cầu gia tăng, các nhà sản xuất rượu tự chế bắt đầu chưng cất số lượng lớn vào tháng Bảy. Sản xuất và buôn bán rượu giảm dần sau Tết, vào cuối tháng 2 và tháng 3, trùng với thời điểm bắt đầu mùa trồng lúa và ngô, khi các hộ gia đình dành sức lao động để sản xuất nông nghiệp và giữ tiền mặt để mua giống và phân bón.
Ở Việt Nam, rượu vẫn được sản xuất ở các hộ gia đình và các làng vùng cao. Việc phân phối đang mở rộng cả qua biên giới và về phía vùng đồng bằng Việt Nam, nơi rượu vùng cao có những khách hàng ruột.
Rượu vùng cao tự chế đóng vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa, thu hút sự quan tâm ngày càng tăng từ các bên liên quan ngoài địa phương và người tiêu dùng kể từ cuối những năm 1990.
Mối quan tâm này đã làm tăng bối cảnh thương mại vượt ra ngoài khu vực địa phương; các chuỗi hàng hóa mới bao gồm các dòng thương mại khu vực và vùng cao-đồng bằng đã được xây dựng và vướng vào các mạng lưới quan hệ và ý nghĩa xã hội rộng lớn hơn.
Khi những hàng hóa này di chuyển qua các thị trường địa phương và quốc gia, chúng gặp phải các hình thức sản xuất, lưu thông, tiếp thị, quản lý và tiêu dùng khác nhau.
Giá trị thương mại ngày càng tăng của các sản phẩm này được thể hiện qua việc quảng bá và xây dựng thương hiệu cho các “làng sản xuất rượu”, tức là các làng dân tộc thiểu số đã nổi tiếng là nơi sản xuất rượu đặc sản khắp miền Bắc Việt Nam kể từ cuối những năm 1990.
Sự nổi tiếng ngày càng tăng của những ngôi làng này bắt nguồn từ sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm du lịch, đầu tư nhà nước, quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng và sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng ở vùng đồng bằng. Một nghiên cứu điển hình về một ngôi làng như vậy sẽ giúp chứng minh tác động của việc thương mại hóa rượu ngô.
Sự phát triển của các thị trường thương mại rộng lớn hơn cho những hàng hóa này đang tạo ra những cơ hội cũng như không gian tranh chấp và lật đổ mới, từ đó dẫn đến các cuộc đàm phán và ứng biến sáng tạo. Những logic cụ thể đóng khung các chuỗi hàng hóa rượu vùng cao này thể hiện rõ ràng trong các diễn ngôn, kiến thức và cách thể hiện đang thay đổi mà qua đó dòng chảy của những hàng hóa này đang được định hình và định hình lại.
Một truyền thống gia đình.
Trước đây, các hộ gia đình người Mông thường tự sản xuất rượu nhưng ngày nay một số gia đình chuyên chưng cất rượu để trao đổi với các hộ khác hoặc để buôn bán. Kiến thức truyền thống địa phương về nghề này được lưu truyền qua nhiều thế hệ và được coi là tài sản thiết yếu của hộ gia đình.
Ở vùng cao Việt Nam, chuyên môn hóa sản xuất rượu được người Mông xem là biểu tượng của uy tín, một phần vì nó phản ánh sự giàu có của một hộ gia đình.
Theo anh Cau, một người Hmong sản xuất và buôn bán rượu ngô ở tỉnh Lào Cai,
“Có nhà chỉ nấu rượu khoảng 5 lần/năm, có nhà làm quanh năm. Những hộ sản xuất nhiều rượu hơn như nhà tôi cũng buôn bán. Đây là điều đã được truyền lại cho chúng tôi từ những người lớn tuổi. Bố mẹ, ông bà và các cụ của tôi sản xuất rượu ngô để bán nên bây giờ đến lượt tôi kế nghiệp. Có gia đình đã chuyên làm nghề này từ rất lâu; những gia đình này được người dân trong làng biết đến và kính trọng”.
Đối với một số nhà sản xuất người Mông như Chia, người đã chưng cất rượu ngô 18 năm, buôn bán rượu được ưa thích hơn việc bán hạt ngô.
Tiếp bước cha mẹ, Chia giải thích: “Việc sản xuất rượu đã có trong lịch sử gia đình tôi và tôi không muốn đánh mất văn hóa của mình”.
Mong muốn gắn bó với nghề chưng cất và kinh doanh rượu ngô của anh càng trở nên quan trọng hơn bởi thực tế là bản thân hạt ngô đang trở thành cây trồng vùng cao có lợi nhuận cao ở phía đông sông Hồng.
Giá trị và uy tín cao mà những người Hmong ở Việt Nam mang lại cho hoạt động sản xuất và buôn bán rượu mạnh trái ngược với tình trạng xảy ra ngay bên kia biên giới ở huyện Maguan, Vân Nam. Ở đó, thanh niên và người lớn tuổi người Mông giải thích rằng trước đây nhiều hộ gia đình chưng cất rượu nhưng ngày nay rượu ngô công nghiệp được mua ở các cửa hàng hoặc chợ.
May, một phụ nữ Hmong ở độ tuổi 20, lớn lên ở vùng nông thôn huyện Maguan, kể với chúng tôi: “Người làng tôi từng làm rượu ngô nhưng đã bỏ nghề sau khi ngừng nuôi lợn. Ngày xưa họ vừa trồng ngô vừa thu mua ngô để làm rượu nhưng hiện nay một quán trong làng chỉ bán rượu người ta mua về dùng trong đám cưới, đám tang.
Ngày nay ở Maguan, nhiều người Hmong, cũng như các thành viên của các nhóm thiểu số khác mà chúng tôi đã nói chuyện, coi việc sản xuất rượu là một công việc vất vả và đặc biệt là giới trẻ dường như không muốn tham gia vào hoạt động này.
Hơn nữa, trong khi rượu ngô vẫn giữ được tầm quan trọng về mặt văn hóa xã hội, rượu được sản xuất công nghiệp hiện được nhiều người Hmong và Zhuang ở Vân Nam coi là có chất lượng ngang bằng hoặc cao hơn so với các loại rượu chưng cất tại nhà.
Kết quả là, ở phía bắc biên giới, việc sản xuất rượu phần lớn đã trở nên tách rời khỏi văn hóa, nền kinh tế uy tín và sự giàu có của hộ gia đình.
Rượu vùng cao và phương trình sinh kế của người Hmong
Ở vùng cao Việt Nam, rượu do các hộ gia đình người Mông chưng cất thường được sản xuất từ gạo hoặc ngô. Đôi khi, các loại cây lấy củ như sắn được sử dụng, mặc dù nhiều nhà chưng cất cho rằng loại rượu này có chất lượng kém và không thể bán được với giá tốt trên thị trường.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi loại ngũ cốc mà nhà chưng cất sử dụng là loại cây trồng chủ lực ở địa phương. Chúng tôi nhận thấy rượu gạo được sản xuất nhiều hơn ở phía tây sông Hồng, nơi địa hình và khí hậu cho phép sản xuất lúa nước bậc thang. Rượu ngô có xu hướng là rượu được sản xuất ở phía đông con sông, nơi điều kiện khô hạn và thổ những thích hợp với ngô hơn lúa.
Thật vậy, ở khu vực phía đông của Lào Cai, cũng như ở tỉnh Hà Giang xa hơn về phía đông, ngô là nguồn sinh kế chính của người dân Hmong, những người tiêu thụ ngũ cốc, sử dụng trong chăn nuôi gia súc và bán ở chợ dưới dạng rượu hoặc làm ngũ cốc cho ngành thức ăn chăn nuôi ở đồng bằng sông Hồng.
Việc một hộ gia đình có chưng cất rượu hay không phần lớn được quyết định bởi khả năng tiếp cận đủ đất để tạo ra lượng gạo hoặc ngô dư thừa vượt quá nhu cầu sinh hoạt hàng năm.
Những hộ này – những người vẫn làm nông nghiệp nhưng cũng chuyên sản xuất rượu thường xuyên – do đó có xu hướng khá giả hơn, có thửa đất lớn hơn.
Do đó, việc sản xuất rượu ở một mức độ nào đó phản ánh sự khác biệt về kinh tế xã hội trong và giữa các thôn. Tuy nhiên, đồng thời, việc thu hẹp diện tích đất nông nghiệp của các hộ gia đình đang dẫn đến việc giảm sản lượng lúa và rượu ngô ở một số vùng miền núi Việt Nam. Như đã lưu ý ở trên, các hộ gia đình người Mông theo chế độ phụ hệ và con trai thường được thừa kế thửa đất từ cha mẹ khi kết hôn.
Những thỏa thuận thừa kế theo truyền thống này, khi kết hợp với các yếu tố khác, chẳng hạn như tăng trưởng dân số, nhập cư và việc giao đất do chính phủ tài trợ, đang tạo ra một mô hình tổng thể về tình trạng giảm quỹ đất sẵn có trên mỗi hộ gia đình.
Ví dụ, cho đến những năm 1990, người Mông ở các xã thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào cai như Tả Van, Lao Chải, Giàng Tả Chải, Tả Phìn đều tham gia sản xuất rượu gạo quy mô nhỏ thường xuyên, chủ yếu phục vụ nhu cầu gia đình, tiêu dùng hoặc mua bán, trao đổi trong thôn. Ngày nay, chỉ còn một số hộ gia đình ở các xã này có thể tiếp tục chưng cất vì diện tích đất trồng lúa bình quân đầu người đã bị thu hẹp.
Các hộ gia đình hiện nay sử dụng nhiều đất hơn để trồng lúa phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày. Hơn nữa, nông dân Hmong ở huyện Sa Pa giải thích rằng họ chỉ có thể làm rượu nếu họ nuôi nhiều lợn. Do đó, hầu hết các nhà sản xuất Hmong ở các thôn lân cận, những người bán hàng ở chợ Hmong hoặc các hộ gia đình Giáy địa phương nằm trong các thung lũng vẫn tiếp tục chưng cất ở quy mô lớn hơn.
Trong khi sự khan hiếm đất nông nghiệp bình quân đầu người ngày càng tăng đồng nghĩa với việc sản xuất rượu đang trở thành một hoạt động chuyên môn hơn, thì đối với các hộ gia đình vẫn có đủ đất để hỗ trợ sản xuất thường xuyên, thu nhập từ rượu ngày càng trở nên quan trọng như một cách kiếm tiền rất cần thiết để trả tiền mua hạt giống và vật tư nông nghiệp.
Do đó, việc mở rộng hoạt động buôn bán rượu của các hộ gia đình này có liên quan trực tiếp đến việc Nhà nước Việt Nam khuyến khích các giống lúa lai, giống ngô và các đầu vào nông nghiệp có thể kiếm tiền khác.Các giống lai cũng có một số tác động trực tiếp đến việc sản xuất rượu.
Tại huyện Bát Xát và Sa Pa, tỉnh Lào Cai, những người được phỏng vấn giải thích rằng gạo dùng để sản xuất rượu không còn là giống lúa truyền thống mà là giống lai.
Theo truyền thống, các giống lúa địa phương được đánh giá cao hơn nhờ hương vị vượt trội so với các giống lúa lai, chúng được dành cho tiêu dùng trong gia đình. Hơn nữa, việc sử dụng các giống địa phương để sản xuất rượu hiện được coi là lãng phí vì thiếu đất nên khó tạo ra đủ sản lượng để chưng cất quy mô lớn hơn.Đối với người Hmong và những người sản xuất rượu ngô thuộc các dân tộc thiểu số khác, tình hình còn phức tạp hơn.
Những người chưng cất rượu Hmong coi hạt giống ngô lai có chất lượng thấp và họ không thích sử dụng những hạt giống này để làm đồ uống bán trên thị trường. Do đó, các nhà sản xuất rượu chuyên dụng ở tỉnh Lai Cai và Lai Châu chỉ cố gắng chưng cất rượu từ giống ngô địa phương của họ.
Tuy nhiên, ở các vùng cao phụ thuộc vào ngô, các hộ gia đình trồng ngô lai ngày càng nhiều với mục đích tiếp thị nó dưới dạng ngũ cốc và thức ăn chăn nuôi. Các nhà chưng cất ở Hà Giang ngày càng dựa vào ngô lai do điều kiện sinh thái nông nghiệp khó khăn nên sẽ thỏa hiệp khi cần thiết và sử dụng ngô lai.
Tuy nhiên, người Hmong thích ăn các giống ngô truyền thống của địa phương và ngô lai vẫn chưa được con người ưa chuộng, chẳng hạn như bột ngô, một loại lương thực chủ yếu của người Hmong.
Thu nhập và sử dụng thu nhập của hộ gia đình
Ngoài các chức năng văn hóa xã hội và mức độ liên quan của rượu vùng cao như một biểu tượng cho kiến thức truyền thống và vốn văn hóa của hộ gia đình, nó còn đóng một vai trò tài chính quan trọng đối với người Hmong và các dân tộc thiểu số khác tham gia sản xuất.
Buôn bán rượu dường như là một chiến lược sinh kế sinh lợi hơn so với bán gạo hoặc ngô – nhưng lại kém lợi nhuận hơn bạch đậu khấu. Lò Mây, một phụ nữ người Yao sản xuất và buôn bán rượu ở xã Thanh Kim, huyện Sa Pa, từng bán số gạo dư thừa của mình nhưng sau đó nhận ra rằng mình có thể kiếm được nhiều tiền hơn nhờ buôn bán rượu.
Năm 2009, Lò Mây có thể thu về 140.000 đồng nhờ bán 40kg lúa lai. Tuy nhiên, dùng số tiền tương tự để sản xuất rượu, cô có thể thu về 600.000 đồng – gấp hơn 4 lần.
Tuy nhiên, quan sát của chúng tôi cho thấy rằng các nhà chưng cất không sản xuất nhiều rượu hơn mức cần thiết để duy trì sinh kế chung của họ. Doanh thu từ việc bán rượu thường được chuyển trở lại sản xuất gạo hoặc ngô để tiêu dùng và chưng cất thêm.
Thu nhập từ việc bán rượu cũng tài trợ cho việc mua hạt giống lai hàng năm cũng như các loại phân bón và thuốc trừ sâu tốn kém nhưng cần thiết để những hạt giống này phát triển tối ưu.
Các khoản mua sắm thường xuyên khác từ thu nhập thương mại được các nhà sản xuất rượu Hmong trích dẫn bao gồm các mặt hàng sử dụng hàng ngày trong gia đình, thịt, gạo (đặc biệt ở các vùng trồng ngô), và ít phổ biến hơn là thiết bị nông nghiệp, trâu, xe máy và chi phí giáo dục cho con em.
Quá trình sản xuất
Mặc dù hãy nhớ rằng các quy trình sản xuất cụ thể cho các loại rượu khác nhau là khác nhau, nhưng mô tả của các nhà sản xuất Hmong về quy trình chưng cất cơ bản cho thấy rằng chúng vẫn có công nghệ thấp và chi phí thấp, giống như các quy trình được mô tả trong các báo cáo của thực dân Pháp từ cuối thế kỷ 19, những năm 1890.
Cái khác là các máy chưng cất ngày nay cũng sử dụng hạt lai khi cần thiết và sản xuất các chất lên men; mặt khác, không có nhiều thay đổi.
Dụng cụ chưng cất được sử dụng ở một làng người Mông ở Lào vào cuối những năm 1960 cũng tương tự như những dụng cụ chưng cất ở vùng cao Việt Nam ngày nay.
Hệ thống này còn thô sơ nhưng hiệu quả, mặc dù thực dân Pháp không mấy ấn tượng với nó, họ lưu ý rằng “Người dân trong vùng sản xuất rượu eau de vie (rượu) có chất lượng kém hơn so với rượu sản xuất ở Đồng bằng do quy trình sản xuất rất thô sơ. Sau khi thu hoạch, mỗi gia đình người Mông hoặc Mân (Yao) dựng một hoặc vài thùng chưng cất rất đơn giản tại nhà. Thóc được giữ nguyên vỏ trấu, đựng trong hũ lớn hoặc thùng gỗ để lên men tự nhiên. Ở mức thấp nhất của gầu là một ống tre để chưng cất từng giọt rượu vào một thùng đất nung. Loại rượu này không được người An Nam (Kinh) đánh giá cao. Một số nhà sản xuất (Hmong và Yao) thích loại rượu này hơn choum-choum (rượu) từ vùng đồng bằng “
Thời đó, như bây giờ, việc chưng cất cần có một cái chảo thép lớn thuộc loại mà các hộ gia đình thường dùng để nấu nướng, một thùng gỗ không có nắp (cùng loại được người Hmông dùng để nhuộm chàm) và một dụng cụ bằng kim loại có đáy lõm trên đỉnh thùng.
Ma, một phụ nữ người Mông mà gia đình thường xuyên chưng cất rượu để bán ở chợ địa phương, đã nêu ra các bước chính trong quá trình sản xuất rượu (bằng gạo hoặc ngô nguyên vỏ):
- Chúng tôi phơi khô ngũ cốc dưới ánh nắng mặt trời
- Chúng tôi đun sôi gạo hoặc hạt ngô trong chảo lớn trên lửa từ 5 đến 8 tiếng, tạo thành hỗn hợp nhuyễn
- Chúng tôi làm nguội hỗn hợp đã nhuyễn đó. Sau đó, chúng tôi thêm chất lên men ban đầu và hương liệu khác. Chúng có thể bao gồm các loại thảo mộc, gia vị và các loại lá đặc biệt khác nhau được trồng trong vườn nhà của chúng tôi hoặc được thu hoạch từ rừng. Hỗn hợp này được đặt trong một thùng chứa và để lên men trong bốn đến mười ngày.
- Sau khi lên men, chúng tôi chuyển hỗn hợp vào thùng gỗ lớn. Thùng này được gắn một ống tre chèn vào bên cạnh. Bên trên đặt một chiếc bát kim loại chứa nước mát. Đồ chứa được đặt trên bếp và nấu chín. Chúng tôi cố gắng giữ nhiệt độ ổn định và được kiểm soát chặt chẽ.
- Rượu (khói) bốc lên trên đỉnh thùng, tại đây chúng ngưng tụ ở đáy bát kim loại chứa nước lạnh và bắt đầu nhỏ giọt xuống ống tre. Chúng tôi thu thập chất lỏng (bằng phễu) và chuyển nó vào thùng đựng.
- Đôi khi chúng tôi lặp lại việc này (chưng cất lại) để làm cho rượu mạnh hơn.
Gia đình của Ma, cùng với nhiều người khác, đầu tư đáng kể lao động chân tay và thời gian – lên tới hai tuần cho mỗi chu kỳ sản xuất – vào việc sản xuất rượu. Họ phải tìm nguồn nguyên liệu từ rừng, sản xuất hoặc mua chất “men” khởi đầu, trồng và thu hoạch lúa hoặc ngô, tất cả đều trải qua một quy trình chưng cất kéo dài và tinh tế đòi hỏi bí quyết đáng kể.
Lượng rượu mà người Hmong có thể thu được từ mỗi mẻ thay đổi tùy theo kỹ năng kỹ thuật, lao động sẵn có trong gia đình của họ, chất lên men được sử dụng, loại ngũ cốc và thời tiết, cùng các yếu tố khác.
Các nhà sản xuất giải thích rằng 40 kg thóc tạo ra 16 đến 20 lít rượu gạo, trong khi cần khoảng 60 kg ngô để tạo ra 20 lít rượu ngô. Chúng tôi ước tính rằng loại rượu này thường nằm trong khoảng từ 35 đến 50 phần trăm theo thể tích.