1.
Bầy thiên nga
Tháng Mười một đến mang theo hơi lạnh ngay cả trong những trưa nắng hanh. Trưa nắng, ngõ hẹp, phố vắng, thảng những cơn gió heo may đuổi theo những chiếc lá vàng trên mặt đường , tạo thành lớp nhấp nhô, uốn lượn như những vạt sóng cuộn trên mặt biển.
Nhìn những mùa thu đi
Mùa thu đang đi qua, bỏ lại những chiều tím trên vỉa hè, những áng mây hồng cuổi trời, những lọn tóc rối vắt qua bờ mi “Em nghe sầu lên trong nắng”.
Bởi khi “Nghe gió lạnh về đêm” ấy là lúc Đông đã về!
Tiết Lập đông có thể cảm nhận rõ vào ban đêm, khi đã tắt hẳn quạt máy mà vẫn phải đắp ngang người tấm chăn mỏng; khi những cơn ho húng hắng của cả người lớn và con trẻ khuấy động sự yên tĩnh của bóng tối.
Và cả những buổi sớm, những đứa trẻ với những chiếc khăn quàng cổ, những tiếng sụt sịt cùng lúc đập vào vách cửa thang máy và dội lại đầy âm hưởng mùa.
Thảng có khi là những ánh mắt long lanh, ngơ ngác hay những bàn tay nhỏ bé bám chặt lấy cổ của những bà mẹ. Những bàn tay ấm nóng, những vầng trán đỏ rực báo hiệu nhiệt độ cơ thể tăng dù bên ngoài vạch nhiệt kế xuống thấp hơn tất thảy khoảng thời gian nào.
Những cơn sốt là cách mà con người phản ứng lại với những tác nhân có hại xâm nhập vào cơ thể. Tiết trời càng lạnh, những cơn sốt càng xảy ra thường xuyên hơn. Khi ấy, hệ miễn dịch của con người càng phải hoạt động mạnh. Ăn nóng, uống sôi và cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng là rất cần thiết cho một cơ thể có sức chống chịu trong giai đoạn này.
Buổi tối,
Trong hương bồ kết và ánh điện đỏ, mình lôi ra bộ kim đan mới. Cả một bộ mười mấy chiếc kim thon nhỏ, tròn trịa, trơn láng như những món đồ hàng của trẻ em, nhìn đã muốn mê.
Đan lát giờ đã thành một thú vui đầy cuốn hút khiến người ta sáng tạo ra đủ thứ xung quanh nó, không chỉ là các sản phẩm đa dạng mà những nguyên liệu cho chu trình tạo ra sản phẩm ấy cũng muôn màu muôn vẻ.
Xưa kia mình thấy mẹ đan chỉ có vài cây kim, mình không nhớ là mẹ mua hay là ông mình làm cho mẹ từ những thân tre quanh nhà, mà ngày nay thì có cả ngàn kiểu kim có thể làm những tín đổ đan lát hoa mắt khi mục sở thị.
Len mới, kim mới và cô giáo nói câu mới : Cố lên, tay nghề vững cô sẽ cho theo làm thợ :)). Vui quá, thế là trong tiếp lập Đông mò lên Youtube xem thêm mấy cái video dạy đan cho những kiểu mới. Xem đủ thứ từ khắp nơi thì thấy ấn tượng nhất vẫn là từ một ông thầy người Đức.
Trời ạ, thầy khéo tay quá thế thì còn ai địch cho lại :)).
Lại phải thốt lên “Chết dở, ừ thì những nghề ví dụ như làm Tổng thống đi :)) đàn ông đã tranh lấy hết phần rồi, giờ đến đan lát các anh cũng tài ba thế thì cánh phụ nữ biết làm gì đây :)), nhẽ làm chủ quán Phở, cũng không được, thống kê sơ bộ cũng cho thấy chủ các quán Phở danh tiếng cũng toàn là liền ông cả :))
Trong các thứ đan, thích nhất là đan áo. Những tấm áo bảo vệ cho phần ngực và cổ nơi chứa đựng cơ quan hô hấp, họng, phế quản, phổi, rất dễ bị ảnh hưởng và tổn thương bởi khí lạnh.
Nhưng khó nhất và công phu nhất chắc có lẽ cũng là kỹ thuật đan áo. Nhắc đến đan áo, bạn nào còn nhớ câu chuyện cổ Andersen rất quen thuộc “Bầy thiên nga” ? Nếu còn, hẳn là khi nhắc đến chúng ta lại thấy tràn ngập một cảm xúc xúc động và cảm phục lòng tốt, sự quả cảm và tình yêu của cô em gái Eliza dành cho các anh trai của mình.
Vậy thì chúng ta cùng bớt chút thời gian đọc lại một phần câu chuyện của tuổi thơ này này nhé!
Bầy thiên nga
(Để giải thoát cho mười một anh trai bị mụ dì ghẻ biến thành thiên nga, nàng đã phải vượt qua những cửa ải đầy khó khăn để đan những chiếc áo cho họ.)
…………………………………………………………….
Những cảnh huyền ảo cứ như thế hiện ra suốt cuộc hành trình cho đến lúc họ nhìn thấy dải đất họ định bay tới. Nơi đó sừng sững những ngọn núi xanh lam cao ngất với những khu rừng đầy cây bá hương, những tòa lâu đài và nhiều thành phố. Trước khi mặt trời lặn rất lâu, Li-dơ đã được đặt xuống một tảng đá, ngay cửa một cái hang, nền đất phủ đầy dây leo như một tấm thảm tuyệt đẹp.
– Đêm nay em ước sẽ mơ thấy gì? – Hoàng tử út vừa hỏi vừa chỉ cho cô em gái phòng ngủ của nàng.
– Em cầu xin Thượng Đế cho em mơ thấy phép giải thoát cho các anh – Li-dơ đáp.
Ý nghĩ ấy không phút nào rời nàng cả. Nàng cầu xin Thượng Đế cứu giúp nàng. Khi đã ngủ thiếp đi, nàng vẫn cầu nguyện. Nàng mơ thấy như lại bay qua trong không gian, tới lâu đài bà tiên Morgan và bà ta tiến đến trước mặt nàng, đẹp một cách lộng lẫy, giống hệt như bà tiên đã cho nàng mấy quả mận và kể chuyện đàn thiên nga đội mũ miện cho nàng nghe khi nàng đi tới khu rừng.
– Các anh con có thể giải thoát được – Bà tiên nói – Nhưng liệu con có đủ can đảm và bền gan để cứu các anh con không? Nước còn mềm hơn đôi bàn tay thanh nhã của con, nhưng nước chảy đá cứng nhất cũng phải mòn. Có điều là nước sẽ không cảm thấy đau đớn như đôi bàn tay con sẽ phải chịu đựng. Nước không có tim nên không biết đau đớn như con. Con sẽ gặp nhiều nỗi gian nguy, con có thấy cành tầm ma ta cầm trong tay không? Quanh cái hang con đang ngủ, tầm ma mọc nhiều lắm.
Nhưng chỉ có loài tầm ma này và loài tầm ma mọc ở nghĩa địa mới dùng được, con chớ nên quên điều đó. Con phải đi hái cây ấy về và con sẽ bị phồng tay lên, đau đớn vô cùng. Con hãy lấy chân giẫm nát cây ra và sẽ được một loại sợi gai mà con sẽ dùng để dệt mười một chiếc áo dài tay.
Dệt xong con quàng áo lên mười một con thiên nga, và như vậy là phép ma sẽ tiêu tan. Nhưng con phải nhớ rằng từ lúc bắt đầu dệt cho đến khi dệt xong con không được nói một câu. Dù phải dệt bao nhiêu năm con cũng không được nói. Nếu con chỉ nói một tiếng thôi thì tiếng nói đó sẽ như một nhát dao đâm xuyên tim các anh con. Như vậy là tính mạng các anh con treo ở đầu lưỡi của con đó.
Bà tiên đặt cành tầm ma vào tay nàng Li-dơ và bàn tay nàng đau như bị bỏng. Nàng bừng tỉnh. Trời đã sáng rõ, bên nàng là cành tầm ma nàng đã mơ thấy. Nàng quỳ xuống tạ ơn Thượng Đế và ra khỏi hang, bắt đầu làm việc để cứu các anh.
Nàng hăm hở bẻ cây tầm ma, tay nàng cháy bỏng lên. Chẳng mấy lúc hai cánh tay nàng bị phồng cả lên. Nhưng nàng thản nhiên chịu đựng đau đớn, miễn là giải thoát cho các anh. Nàng lấy chân không giẫm nát cây tầm ma và bắt đầu dệt những chiếc áo xanh thẫm.
Khi mặt trời bắt đầu lặn, các anh nàng trở về. Họ rất sợ hãi khi thấy nàng bị câm. Lúc đầu họ tưởng rằng đó lại là phép ma mới của mụ dì ghẻ độc ác, nhưng khi trông thấy hai bàn tay cô em, họ hiểu ngay rằng nàng đang làm việc cho họ. Người anh trẻ nhất òa lên khóc, nước mắt nhỏ xuống làm mất ngay những vết phồng da và Li-dơ không thấy đau đớn gì nữa.
Nàng thức suốt đêm để dệt áo, nàng không muốn nghỉ ngơi trước khi giải thoát được cho các anh nàng. Cả ngày hôm sau nàng ngồi một mình trong lúc đàn thiên nga bay đi, nhưng nàng chẳng hề thấy ngày dài nữa, nàng dệt xong một cái áo và bắt đầu dệt sang tấm thứ hai.
Bỗng có tiếng tù và của người đi săn vang lên trong núi. Tiếng tù và nghe càng gần, nàng càng lo sợ. Nàng chợt nghe thấy tiếng chó sủa, nàng hốt hoảng trốn vào trong hoang. Nàng quấn chiếc áo đã dệt thành một bọc và ngồi lên trên. Bỗng một con chó to chạy đến, theo sau cả đàn chó săn.
Một lát sau, tất cả những người đi săn đã tụ tập ở cửa hang. Đây là một cuộc săn bắn của nhà vua trị vì xứ này. Nhà vua tiến thẳng về phía nàng Li-dơ. Chưa bao giờ ngài thấy một thiếu nữ xinh đẹp như thế. Ngài hỏi nàng:
– Làm sao mà nàng lại tới chốn này, hỡi cô bé kiều diễm kia?
Li-dơ chỉ lắc đầu, vì cần phải giữ miệng để cứu lấy tính mạng của các anh nàng. Cùng lúc ấy nàng giấu đôi tay xuống dưới vạt áo để nhà vua không nhìn thấy đôi tay bị phồng lên.
– Nàng hãy đi theo ta – nhà vua phán – Nàng không thể ở đây được. Nếu nàng vừa đẹp người lại đẹp nết, nàng sẽ bận xiêm y may toàn bằng nhung lụa và ta sẽ ban cho nàng một chiếc mũ miện bằng vàng. Nàng sẽ ở lại trong cung điện.
Rồi nhà vua đặt nàng lên yên ngựa. Nàng chắp đôi tay lại, khóc lóc, nhưng nhà vua khẽ bảo nàng:
– Ta không muốn làm hại nàng đâu, một ngày kia nàng sẽ cảm ơn ta.
Nói rồi nhà vua ôm nàng ngồi phía trước, phóng ngựa qua núi, cả đoàn người đi săn theo sau. Đến sẩm tối họ về đến kinh thành. Nhà vua đưa nàng Li-dơ vào cung.
Trong những gian phòng rộng bằng đá hoa có những vòi nước chảy rất kỳ diệu, tường nhà treo đầy chân dung. Nhưng nàng chẳng chú ý đến vật gì cả, nàng chỉ than vãn, khóc lóc. Nàng lơ đãng, kệ cho các cung nữ mặc cho nàng những bộ quần áo lộng lẫy, đính ngọc trai vào mái tóc nàng và đeo găng vào đôi tay cháy xém của nàng. Phục sức như vậy nàng lại càng xinh đẹp bội phần đến nỗi cả triều đình phải cúi rạp trước sắc đẹp của nàng.
Mặc cho vị giáo chủ lắc đầu phản đối và quả quyết rằng cô gái người rừng này hẳn là một mụ phù thủy, có đôi mắt đốt cháy và làm đảo điên trái tim của nhà vua, ngài vẫn tuyên bố rằng nàng là vị hôn thê của ngài.
Một đại hội được tổ chức, các cô thiếu nữ diễm lệ nhất trong nước nhảy múa những bản vũ đẹp nhất. Nhưng trong ánh mắt và đôi môi của nàng Li-dơ không thấy hiện ra lấy một nụ cười và chỉ thấy vẻ đau đớn buồn phiền.
Nhà vua mở cả một phòng ngủ dành cho nàng. Phòng được căng toàn thảm xanh biếc, loại rất quý, trông hệt như khung cảnh cái động trong đó nhà vua đã gặp nàng. Trên sàn nhà là bó cây tầm ma nàng dùng để dệt áo và trên trần nhà treo chiếc áo đã dệt xong. Một người trong đoàn đi săn thấy lạ đã mang các thứ đó về. Nhà vua nói:
– Ở như thế này em sẽ có thể tưởng tượng như đang ở chốn cũ của em. Có cả những thứ em trìu mến hoặc thường dùng trước đây. Với những vật ấy, giữa cảnh xa hoa em vẫn có thể sống bằng trí tưởng tượng cuộc đời trước đây.
Khi nàng Li-dơ nhìn thấy những thứ mà trái tim nàng tha thiết mong muốn thấy, môi nàng nở một nụ cười và da mặt lại hồng hào tươi tắn lên. Nàng nghĩ đến tính mạng của các anh và cúi xuống hôn tay nhà vua. Ngài ôm nàng vào ngực và truyền lệnh rung chuông nhà thờ liên hồi để báo tin ngài làm lễ thành hôn. Thế là cô gái câm trở thành hoàng hậu.
Giáo chủ thầm thì vào tai nhà vua không biết bao nhiêu lời sàm tấu, nhưng những lời đó không lay chuyển nổi ý định của nhà vua và lễ cưới vẫn cứ bắt đầu. Giáo chủ phải đích thân đặt mũ miện lên đầu nàng Li-dơ.
Lão ta độc ác, ấn sụp mũ miện xuống trán nàng, làm cho nàng bị đau ở đầu. Nhưng nàng vẫn cứ trơ ra, không còn thấy đau đớn về thể xác nữa, tim nàng còn đau hơn thế vì chưa giải thoát được các anh nàng.
Nàng vẫn câm, vì chỉ một lời thôi cũng có thể giết chết các anh nàng. Nàng chỉ biết dùng đôi mắt để tỏ lòng biết ơn nhà vua nhân đức đã tìm hết cách để an ủi nàng. Càng ngày nàng càng yêu nhà vua và trong thâm tâm nàng cũng muốn gửi gắm nhà vua nỗi đau khổ của nàng, nhưng nàng không thể nói lên được.
Đêm nào cũng vậy nàng lại vào trong gian phòng xinh xắn, trang hoàng hệt như hang đá cũ, và tiếp tục dệt hết chiếc áo này sang chiếc khác. Dệt đến chiếc thứ 7 thì hết sợi gai tầm ma.
Nàng biết rằng giống tầm ma chỉ mọc ở nghĩa địa thôi và phải đích thân nàng đi hái mới được.
– Làm sao mà ra nghĩa địa được bây giờ? – Nàng nghĩ thầm – Ôi! Tay ta có đau đớn đến mấy cũng không thể so sánh với nỗi đau đang đè nặng tim ta! Ta muốn hy sinh tất cả cho các anh ta. Thượng Đế sẽ phù hộ cho ta.
Run rẩy như đang làm một việc xấu xa, một đêm sáng trăng, nàng xuống vườn, đi theo con đường lớn, qua các phố vắng ngắt tới gần nghĩa địa. Ở đấy nàng thấy những mụ phù thủy già khọm và kinh tởm đang ngồi quây tròn trên nấm mồ lớn nhất. Chúng quẳng tất cả quần áo đi như sắp sửa tắm và dùng những ngón tay gầy guộc, dài ngoẵng để bới những ngôi mộ mới. Li-dơ phải đi ngang qua chỗ chúng và chúng quằm quặm nhìn nàng. Nhưng nàng vẫn lẩm nhẩm đọc kinh. Nàng hái ít cây tầm ma, rồi trở về cung vua.
Chỉ có một người nom thấy nàng ra nghĩa địa. Đó là lão giáo chủ. Trong lúc mọi người đã ngủ, chỉ có lão còn thức. Lão cho rằng lão đã đoán rất đúng về những hành vi khả nghi của hoàng hậu. Theo lão, chính hoàng hậu là một mụ phù thủy đã mê hoặc nhà vua và toàn thể thần dân.
Hôm sau, lão kể với đức vua chuyện xảy ra đêm trước. Nhưng trong lúc lão kể, những pho tượng quanh đó đều lắc đầu như muốn nói: “Nàng Li-dơ vô tội!” Lão giáo chủ lại xuyên tạc ngụ ý của những cái lắc đầu ấy và nói rằng các pho tượng đang kết tội hoàng hậu.
Thế là hai giọt nước mắt lăn dài trên má nhà vua và ngài trở về cung, mang theo một mối nghi ngờ kinh khủng trong lòng. Đêm sau, ngài giả vờ ngủ và trông thấy nàng Li-dơ đi ra như vậy và lần nào nhà vua cũng theo dõi nàng cho đến khi nàng trở về cung.
Càng ngày nhà vua càng trở nên lầm lì, nàng Li-dơ cũng không hiểu vì sao. Đó lại thêm một nỗi buồn cho nàng, nhưng mối lo âu lớn nhất vẫn là việc giải thoát cho các anh nàng. Những hạt lệ của nàng tuôn trên nệm gấm, chăn nhung của hoàng gia như những hạt kim cương lóng lánh, tuy thế ai thấy nàng cũng vẫn ganh tị về sắc đẹp của nàng.
Công việc của nàng cũng đã gần xong. Nàng chỉ còn phải dệt một chiếc áo nữa thôi, nhưng sợi cây tầm ma lại hết. Nàng lại phải ra ngoài một lần nữa để hái vài nắm. Nghĩ đến việc đi đêm hôm và những mụ phù thủy ghê tởm, nàng rùng mình nhưng ý muốn của nàng không gì lay chuyển được và nàng cũng rất mực tin tưởng vào Thượng Đế.
Nàng lại ra nghĩa địa. Nhà vua và giáo chủ theo gót nàng, họ thấy nàng đi vào cửa nghĩa địa rồi biến mất. Vào gần tới nơi họ mới nhìn thấy lũ phù thủy ngồi trên một ngôi mộ. Nhà vua chạy về, ngài đã tưởng tượng trong đám phù thủy ấy có con người mà tối tối ngài ấp đầu vào ngực.
– Dân chúng sẽ xét xử
Ngài phán quyết như vậy. Dân chúng kết tội hoàng hậu phải chết thiêu.
Từ gian phòng huy hoàng, nàng bị đưa đến ngục kín, gió rít qua những chấn song cửa sổ bằng sắt. Thay vào nhung lụa, người ta cho nàng bó tầm ma nàng đã hái về, để gối đầu. Những tấm áo thô, còn đầy gai, dệt bằng sợi tầm ma, được trải làm giường nằm.
Gai đâm vào người nàng nóng ran, nhưng nàng lại lấy làm thích thú. Nàng lại bắt tay ngay vào việc và tạ ơn Thượng Đế. Ngoài phố, trẻ con hát những bài hát nguyền rủa nàng. Chẳng có ai an ủi nàng lấy một câu. Chiều đến một con thiên nga bay đến đậu vào cửa sổ.
Đó là hoàng tử út đã tìm thấy tung tích của nàng. Nàng thấy sung sướng vô cùng, mặc dù nàng biết rằng mai sẽ là đêm cuối của đời nàng. Chả là công việc của nàng đã gần xong và các anh nàng cũng không xa nàng mấy.
Giáo chủ đến để làm phép rửa tội cho nàng, nhà vua đã lệnh cho lão làm việc ấy. Li-dơ lắc đầu và làm hiệu bảo lão hãy để cho nàng yên. Ngay đêm ấy nàng phải hoàn thành công việc của nàng, nếu không bao nhiêu đau buồn, nước mắt và bao đêm mất ngủ cũng trở thành vô ích. Giáo chủ vừa đi ra vừa càu nhàu, nhưng nàng biết mình vô tội.
Đàn chuột nhắt lon ton trên sàn nhà và gỡ sợi tầm ma giúp nàng. Một con họa mi đậu trên cửa sổ hót suốt đêm để khuyến khích nàng.
Trước khi mặt trời mọc mười một hoàng tử anh nàng vào cung xin được yết kiến nhà vua. Người ta bảo họ rằng không được, vì trời chưa sáng và không thể đánh thức nhà vua dậy lúc này được. Các hoàng tử van nài chán rồi dọa dẫm. Đội cấm binh kéo đến, nhà vua cũng thân chinh ra hỏi tại sao lại làm ầm ĩ lên như vậy. Vừa lúc ấy mặt trời ló lên, các hoàng tử chẳng còn đấy nữa, người ta chỉ thấy mười một con thiên nga đội mũ miện vàng đang bay lượn trên hoàng cung.
Nhân dân kéo đến ngoài cổng thành để xem thiêu mụ phù thủy. Người ra đã bắt nàng Li-dơ mặc áo vải thô. Bộ tóc dài xõa xuống khuôn mặt xinh đẹp của nàng, đôi má nàng tái nhợt như da người chết, đôi môi nàng như cầu nguyện trong lúc đôi tay vẫn tiếp tục may vá. Ngay trên đường đi đến chỗ chết thiêu, nàng vẫn không ngừng may áo vì nàng đã dệt và may xong mười chiếc, chỉ còn chiếc thứ mười một nữa, nên nàng ráng hết sức may cho xong trước giờ chết thiêu.
– Kìa, trông mụ phù thủy kìa! Nhìn xem nó đang lẩm nhẩm cái gì trong mồm kia! Nó chẳng có lấy một cuốn thánh kinh trong tay! Phải xé tan làm muôn mảnh cái bọc quái quỷ nó cặp kè bên mình kia!
Mọi người xô đẩy nhau và sắp sửa giành lấy bọc áo, bỗng mười một con thiên nga bay tới. Chúng đậu xung quanh nàng và vỗ những bộ cánh dài và rộng. Đám đông kinh ngạc, lùi lại:
– Đó là điềm trời đấy, chắc hẳn cô ta vô tội – Nhiều người thì thào.
Đao phủ đã nắm lấy tay Li-dơ. Nàng vội vã tung mười một chiếc áo lên đàn thiên nga, chúng biến ngay thành mười một hoàng tử trẻ măng. Riêng hoàng tử út còn lại một cánh thiên nga thay cánh tay, vì một chiếc áo chưa may xong, còn thiếu một tay.
– Giờ thì tôi đã nói được rồi! – Li-dơ reo lên – Tôi vô tội!
Nhân dân thấy thế vội quỳ xuống trước mặt nàng như trước một nữ thánh. Nhưng nàng đã ngã lăn ra, ngất đi trong tay các anh nàng, vì làm việc nhiều, lo lắng nhiều và đau đớn nhiều, nàng đã kiệt sức.
– Đúng thế, em chúng tôi vô tội! – Hoàng tử tuyên bố.
Và hoàng tử kể lại đầu đuôi câu chuyện. Trong khi hoàng tử kể chuyện, một mùi hương tỏa ra như có hàng triệu đóa hoa hồng ở đâu đấy. Đó là những thanh củi trên giàn thiêu đã bén rễ mọc thành hoa lá.
Lúc này, giàn thiêu đã biến thành một khóm hoa hồng, trên cùng là một đóa hồng bạch, lóng lánh như một ngôi sao. Nhà vua hái lấy bông hoa cài vào ngực Li-dơ, nàng tỉnh dậy, lòng đầy vui sướng và hạnh phúc. Bỗng nhiên, tất cả chuông nhà thờ không ai giật đều rung lên cả. Chim chóc kéo tới hàng đàn và trong cung vua mở một ngày hội lớn, chưa từng có từ trước tới nay.
2.
Cardigan
Khi đan hầu như chỉ sử dụng đến các ngón tay nên nếu ham quá, ngồi lì cả ngày thì có lúc sẽ cảm giác cả bàn tay rã rời. Các ngón tay mỏi nhừ, nhìn thấy bàn phím là sợ, hết muốn gõ :)).
Để thư giãn, thì hãy tạm nghỉ, bật một bản nhạc và để hồn thả trôi vào đó, với những chiếc áo len Cardigan
Vintage tee, brand new phone
High heels on cobblestones
When you are young, they assume you know nothing
“Cardigan” là một ca khúc được Taylor Swift sáng tác trong thời gian cả thế giới vật lộn với đại dịch Covid. Tác phẩm nằm trong album “Forklore” (Văn hóa dân gian) của nữ ca sĩ.
Trong video âm nhạc chính thức cho “Cardigan” có cảnh Swift ngồi trong một ngôi nhà nhỏ thắp nến trong rừng, mặc váy ngủ và chơi nhạc trên một cây đàn piano cổ điển. Cảnh này cũng có một bức ảnh chụp ông nội của Swift, Dean, người đã chiến đấu trong Trận chiến Guadalcanal, và một bức tranh mà cô đã vẽ trong tuần đầu tiên cách ly vì COVID-19.
Điều này làm mình liên tưởng đến những căn nhà bằng gỗ đặc trưng ở khu vực Bắc Âu. Những căn nhà bằng gỗ nhỏ bé và ấm áp trong rừng, tràn ngập trong các câu chuyện cổ Grim hay Andersen. Bỏ lại những băng tuyết và giá lạnh bên ngoài, thì khi bước vào những công trình che chắn bằng gỗ này hẳn bất cứ ai, dù là công chúa Bạch Tuyết hay cô gái tóc dài Rapuzel, dù là Bảy chú lùn hay là hai anh em Hansel và Gretel đều cảm thấy như trái tim được sưởi ấm.
Có thể là từ hơi ấm thực phát ra từ lò sưởi đặt chính giữa ngôi nhà; có thể là từ những làn khói nghi ngút của những tô thức ăn vừa được nấu chín; và cũng có thể từ những tiếng đàn réo rắt, những điệu nhảy tạo ra những nhịp gõ như những giai điệu bay bổng trên sàn hay là những ánh mắt trìu mến, những tiếng cười thoải mái của những con người sống trong đó.
Tất cả tạo nên một “Bản tình ca mùa đông” đủ sức đánh tan cái rét mướt
Sequin smile, black lipstick
Sensual politics
When you are young, they assume you know nothing
Khi mặt đàn phát ra những tia sáng vàng, cô gái trong video trèo lên và thấy mình được dịch chuyển một cách kỳ diệu đến một khu rừng phủ đầy rêu, nơi cô chơi nhạc trên một cây đại dương cầm tạo ra một thác nước. Cảnh rừng “đại diện cho sự khởi đầu tươi xanh của một mối quan hệ, nơi mọi thứ dường như kỳ diệu và đầy vẻ đẹp”
Chiếc ghế dài dành cho đàn piano bắt đầu phát sáng, cô lại trèo lên đó và sau đó được đưa đến một vùng biển tối tăm, giông bão và dữ dội, nơi cô bám vào một cây đàn piano đang trôi nổi. Cảnh đại dương “đại diện cho sự cô lập và sợ hãi khi một mối quan hệ đang tan vỡ”
Video cũng nêu rõ cảnh kết thúc “biểu thị sự trở lại với ý thức về bản thân sau khi trải qua mất mát tình yêu”, một hành trình tự khám phá;
But I knew you
Dancin’ in your Levis
Drunk under a streetlight,
I knew you
Hand under my sweatshirt
Baby, kiss it better,
Có rất nhiều tham chiếu về quần áo trong ca khúc này. Ca khúc nói về tình yêu tuổi trẻ và cuối cùng là sự tan vỡ, nhưng đề cập đến “áo phông cổ điển”, “giày cao gót trên đá cuội” và “nhảy múa trong chiếc quần Levi’s của bạn”. Tất nhiên, tham chiếu chính vẫn là một chiếc áo len cardigan. Chiếc áo len có một số vị trí chủ đạo trong điệp khúc của lời bài hát:
And when I felt like I was an old cardigan
Under someone’s bed
You put me on and said I was your favorite
Swift có lý: Chúng ta đều có một chiếc áo len cardigan dùng một lần được nhét vào những ngóc ngách trong phòng; một chiếc áo len cardigan đáng quên đến mức bị ném dưới gầm giường và không bao giờ có thể được nhìn thấy nữa. Nhưng, như bài hát minh họa, chiếc áo len đáng quên của người này lại là kho báu của người khác.
(Và chúng ta đều biết một chiếc áo len cardigan yêu thích trông như thế nào. Một số người có thể thích một chiếc áo len Agnès B cổ điển trong khi bản thân tôi lại thích một chiếc áo len cardigan táo bạo.)
Trong video, Swift ở trong một căn phòng đầy bụi, mở một chiếc rương kiểu Narnia và bước vào một thế giới tưởng tượng tươi tốt, cũng như bơi trong một dòng sông với một chiếc đàn piano nổi, cuối cùng cô ấy trở lại căn phòng đầy bụi đã nói ở trên và sưởi ấm trong chiếc áo len cardigan varsity màu trắng quá khổ.
Khoảnh khắc này chứng minh rằng áo len cardigan, dù là áo dùng một lần hay không, luôn đáng tin cậy.
(Theo tạp chí Vogue)
But I knew you
Playing hide-and-seek and
Giving me your weekends
I knew you
Your heartbeat on the High Line
Once in 20 lifetimes
Cùng với việc phát hành Folklore và “Cardigan”, Swift đã bán “áo cardigan folklore”, bản sao của chiếc áo cardigan cô mặc trong video ca nhạc của bài hát—một chiếc áo len dệt kim màu kem, với những ngôi sao thêu bạc trên khuỷu tay dày của tay áo, và đường viền và nút màu xanh navy—trên trang web của cô. Swift cũng gửi những chiếc áo cardigan cho những người bạn nổi tiếng và những người chúc mừng.
Tạp chí thời trang Mỹ W cho rằng chiếc áo cardigan là tác phẩm chính của dòng sản phẩm cottagecore trong album.
Teen Vogue cho biết chiếc áo cardigan giúp tạo nên “khung hoàn hảo để hiểu vai trò của trang phục trong cuộc sống của chúng ta”, mang đến một góc nhìn khác về việc hiểu thời trang, bắt nguồn từ “giá trị tình cảm” của thời trang.
Refinery tuyên bố Swift trở lại với “bản chất thực sự” của cô, cả về mặt âm nhạc và phong cách”, được hỗ trợ bởi áo len cardigan và váy prairie, và thấy vẻ ngoài của nữ ca sĩ trong video ca nhạc giống với một “bông hồng Anh” cổ điển.
Irish Independent mô tả chiếc áo len cardigan là một chiếc áo len Aran cồng kềnh, “phong cách Clancy Brothers”, và nói thêm rằng Swift “với tốc độ này, chơi trống bodhrán và hát vang ‘The Auld Triangle’ trên đồi”.
Đài phát thanh quốc gia Ireland Raidió Teilifís Éireann đã cảm ơn Swift vì đã đưa áo len cardigan “trở lại bản đồ một lần nữa”, sau James Thomas Brudenell, Coco Chanel, Kurt Cobain và Elizabeth II. Thẩm mỹ cottagecore đã được hồi sinh trên internet sau khi phát hành video và album.
‘Cause I knew everything when I was young
I knew I’d curse you for the longest time
Chasin’ shadows in the grocery line
I knew you’d miss me once the thrill expired
And you’d be standin’ in my front porch light
Chiếc áo len Aran rất nổi tiếng đấy, bạn thử đọc bài viết dưới để biết chi tiết hơn!
3.
Chiếc áo len Aran
By Deirdre McQuillan
Quần đảo Aran nằm ở rìa phía tây của châu Âu qua cửa Vịnh Galway. Được biết đến bằng tiếng Anh với tên Inishmore (hòn đảo lớn), Inishmaan (đảo giữa) và Inisheer (đảo phía đông), chúng chứa đựng nhiều cổ vật và di tích Celtic thời tiền sử và có hồ sơ về nơi cư trú của con người kéo dài khoảng 4.000 năm hoặc 165 thế hệ . Ngôn ngữ đầu tiên của người dân trên đảo, hiện có 1400 người, luôn là tiếng Ireland.
Vẻ ngoài khắc nghiệt và lộ liễu của những hòn đảo cổ xưa này có thể gây sốc cho những du khách lần đầu đến thăm: không có núi cao, không có cây cối và ít nơi trú ẩn. Thay vào đó, vùng đất nằm thấp trên biển với những bậc thang rộng lớn bằng đá vôi bóng loáng và hàng dặm những bức tường đá khô bao quanh hàng trăm cánh đồng nhỏ như cây trắc.
Chịu sự giám sát liên tục và thường lãng mạn của các thế hệ những người không thuộc về đảo, đặc biệt là những bộ óc tò mò và ham học hỏi của thế kỷ 19, người dân trên đảo đã quen với những gì bắt đầu từ một nhóm nhỏ những người dịch chuyển có tri thức và các nhà truyền giáo vào những năm 1800 cho đến hiện nay là một làn sóng tràn ngập của du lịch.
Từ những học giả đầu tiên và những người quan tâm khác, những người đã thực hiện cuộc hành hương thường xuyên bấp bênh từ các bến cảng Galway ra Đại Tây Dương, có rất nhiều mô tả sống động và tường thuật chi tiết về cuộc sống và phong tục của các hòn đảo trong thời kỳ tiền nhiếp ảnh.
Hầu như mọi người quan sát đều bị ấn tượng bởi vẻ ngoài và cách ăn mặc của những người dân trên đảo sống bằng nghề trồng trọt, đánh cá và thu hoạch rong biển tảo bẹ. Chiếc váy họ mặc hoàn toàn phù hợp với cuộc sống mà họ đang sống, nhưng cũng có vẻ đẹp và cảm giác trang trí riêng.
Để hiểu được lịch sử của chiếc áo len Aran, điều cần thiết là phải có một số hình ảnh về trang phục truyền thống. Điều đặc biệt được chú ý là giày pampooties hoặc giày da thô, một loại giày cổ xưa được làm từ da chưa thuộc và được buộc lại với nhau bằng dây câu (cá). Được cả nam và nữ đeo, chúng có độ mềm mại và linh hoạt nhờ được ngâm trong nước khi không sử dụng. Bốn mươi đôi có thể được làm từ một tấm da bò.
Trang phục truyền thống
Nếu giày pampooties thu hút sự chú ý của du khách thì phần còn lại của trang phục trên đảo cũng vậy, một mảng đầy màu sắc và đặc biệt của những chiếc áo dệt kim cứng cáp được làm từ len và trước khi thuốc nhuộm thương mại ra đời, chúng được nhuộm bằng cây cỏ và địa y địa phương.
B.N. Hedderman, một y tá y tế công cộng làm việc trên quần đảo từ năm 1903, đã mô tả bộ trang phục này “không giống bất cứ thứ gì tôi từng thấy trước đây. Họ không mặc áo khoác và mặc đồ len dệt ở nhà với nhiều màu sắc với những chiếc thắt lưng đa dạng, dài khoảng hai thước, bao quanh chúng là màu sắc rực rỡ của cầu vồng”.
Crios (phát âm là kriss) hoặc dây bện mà cô nhắc đến được dệt không cần khung cửi bởi những người phụ nữ bằng cách gắn sợi dọc vào ngón chân hoặc chân ghế đẩu, sử dụng ngón tay của họ làm con thoi. Kỹ thuật này vẫn tồn tại trên các hòn đảo cho đến ngày nay, đòi hỏi sự khéo léo và khả năng kiểm soát cao.
Đối với những người tuân thủ thời Victoria, những người được may đo theo kiểu trang nhã, bó sát và thường phóng đại của cuối thế kỷ 19, trang phục của người dân trên đảo là một sự tương phản đáng kinh ngạc. Mọi người đều mặc những lớp quần áo nặng nề.
Những người đàn ông mặc một chiếc áo sơ mi flannel tối màu bên dưới một chiếc áo khoác bawneen cổ chữ v (bainin có nghĩa đen là “có chút màu trắng” trong tiếng Ailen và dùng để chỉ len không nhuộm) và bên ngoài là một chiếc áo ghi lê hoặc áo vest có cài cúc – ve áo phía sau làm bằng vải flannel màu xanh xám hoặc nâu .
Chiếc quần rộng thùng thình của họ, cũng là loại vải mặc ở nhà, có những đường xẻ ở cuối để có thể cuộn lại. Cả nam và nữ đều đi tất dệt kim màu xanh với đế và gót màu trắng. Trên hết đó là quần áo cá nhân trong đó không có chỗ cho những khái niệm về phong cách khác nhau. “Bộ đồng phục của tổ tiên”, như nhà báo người Ireland Malachy Hynes đã mô tả vào những năm 1940, nặng khoảng 12 Ibs hoặc 5,5 kg.
Rực rỡ nhất là những chiếc váy lót màu đỏ sặc sỡ (sau này là màu xanh) của những người phụ nữ mà J.M.Synge và nhiều nhà văn, nghệ sĩ khác đã ca ngợi. Những thứ này được mặc với những chiếc áo khoác màu sặc sỡ hơn và những chiếc quần ôm hoặc khăn choàng, như tên gọi của chúng, sau này được móc với nhiều màu sắc – trang phục cầu vồng mà một số phụ nữ lớn tuổi trên đảo vẫn mặc đến nhà thờ vào Chủ nhật.
Trang phục của họ là nguồn tự hào, một biểu tượng nhận dạng cũng đánh dấu những chuyển biến quan trọng trong cuộc đời. Nó là phổ biến. Ví dụ, các bé trai phải mặc váy cho đến tuổi thiếu niên.
Trong Tom O’Flaherty’s Aranmen All (1934), ông mô tả ở Aran “các cậu bé là những chiếc váy lót len cho đến khi chúng đạt đến độ tuổi mà lúc đó tôi coi là đã lớn. Mọi cậu bé đều háo hức chờ đợi bộ quần áo đầu tiên của mình. Chúng tôi có một con cừu đen già và con vật sinh sôi nảy nở này mỗi năm có hai con cừu con và đôi khi ba con. Len của nó đủ để cung cấp cho nhu cầu của cha tôi”.
Một giáo viên đến quần đảo vào những năm 1920 kể lại rằng khi một chàng trai trẻ kết hôn, anh ta mặc chiếc leine gorm, chiếc áo sơ mi vải nỉ màu xanh, như một dấu hiệu cho địa vị mới của mình.
Năm 1934, bộ phim “Man of Aran” của Robert Flaherty, được quay vào năm trước đó ở Inishmore, đã thu hút sự chú ý của thế giới đến quần đảo nhờ miêu tả cuộc đấu tranh không khoan nhượng của một gia đình trên đảo để sinh tồn trước những cơn bão biển dữ dội. “Bộ phim”, như nó vẫn được nhắc đến ở Inishmore và là nơi nó được chiếu hàng ngày cho khách du lịch, đã nuôi dưỡng hình ảnh một dân tộc kiêu hãnh, độc lập, biệt lập.
Nhưng thứ đã trở thành một biểu tượng thậm chí còn mạnh mẽ và phổ biến hơn của quần đảo là một bộ trang phục không được bất kỳ nhà quan sát thế kỷ 19 nào đề cập đến và cũng không xuất hiện trong phim, một chiếc áo len dệt kim bằng tay của ngư dân màu trắng, có nhiều hoa văn. .
Trên thực tế, áo len không phải là một phần trang phục thông thường của người Aran. Synge trong cuốn sách Quần đảo Aran, xuất bản năm 1907, đã bình luận về thực tế là nhiều thanh niên đã mặc “chiếc áo đấu thông thường của ngư dân”, mặc dù ông chỉ nhìn thấy một chiếc ở Inishmaan.
Vào tháng 6 năm 1931, tạp chí National Geographic lặp lại nhận xét của ông gần như nguyên văn: “nhiều thanh niên đã đội mũ lưỡi trai cũng như mặc áo xanh của ngư dân”. Những chiếc áo đấu này đã phổ biến khắp các bờ biển của Anh và Scotland vào thời điểm đó, và dần dần được sản xuất bằng máy.
Chắc chắn không có nhà quan sát nào ở thế kỷ 19 mô tả những chiếc áo len được trang trí công phu và có dây cáp lộng lẫy, kiểu trang trí đặc biệt mà họ khó có thể không chú ý đến. (Từ mà người dân đảo sử dụng cho áo len hoặc áo jersey là geansai hoặc gansey, một thuật ngữ tiếng Anh phổ biến để chỉ quần áo dệt kim không có trong Từ điển tiếng Ireland/Anh của Dineen năm 1927).
Do đó, khá rõ ràng rằng chiếc áo len Aran màu trắng lộng lẫy là một phát minh của thế kỷ XX. Vậy thì giải thích thế nào về mối quan hệ của nó với trang phục truyền thống của đảo? Câu trả lời một phần nằm ở sự tiếp nối các kỹ năng truyền thống, nhưng quan trọng hơn là liên quan đến tác động của sự phát triển trong thế kỷ 20 đối với quần đảo Aran.
Đan
Kỹ năng đan lát là một phần của cuộc sống hàng ngày trên đảo. Dọc theo bờ biển phía tây Ireland, nhưng đặc biệt là ở Donegal, nghề đan lát bằng tay (lần đầu tiên được du nhập vào Ireland vào thế kỷ 17), dệt vải và các kỹ năng gia đình khác được khuyến khích vào nửa cuối thế kỷ 19 bởi các nhà từ thiện thời Victoria với tư cách là những người kiếm thu nhập ở các cộng đồng nông thôn nghèo và cơ cực.
Hội đồng quận tắc nghẽn, một cơ quan chính phủ được thành lập vào năm 1893 để chống đói nghèo ở các vùng nông thôn đông dân cư, đã thành lập 76 trường dạy ren, đan và móc cũng như thành lập các ngành đánh cá được tạo ra để cải thiện mức sống chung.
Ở Donegal, đan lát đã trở thành nghề chính của hầu hết mọi gia đình và theo John Molloy của Ardara, người có công việc kinh doanh của gia đình từ năm 1900, “một trong những nghề thủ công tại nhà giúp dân chúng có cái ăn”.
Tuy nhiên, tại Quần đảo Aran, như Hội chợ Major Ruttledge đã báo cáo vào năm 1893, “không có thứ gì dệt hoặc kéo sợi được bán”. Những người phụ nữ chắc chắn đang đan tất, nhưng chỉ cho gia đình họ, một hoạt động chiếm rất nhiều thời gian của họ. Những chiếc tất này sẽ được làm “vòng tròn” trên ba hoặc bốn chiếc kim sau khi len được chải thô, kéo sợi và nhuộm, một kỹ thuật đòi hỏi năng lực và kinh nghiệm nhất định.
Có thể bằng chứng bằng hình ảnh sớm nhất về kiểu dệt kim màu trắng phức tạp đến từ một bộ phim được thực hiện trước “Man of Aran” của Hiệp hội Điện ảnh Công giáo vào năm 1932 trên Inishmore trùng với Đại hội Thánh Thể ở Tuam.
Trong một cảnh được quay bên trong nhà thờ ở Kilronan, một nhóm trẻ em, cả bé gái và bé trai, mặc trang phục Rước lễ lần đầu. Có thể thấy một số cậu bé mặc áo len trắng có hoa văn với cổ nhỏ và cúc dọc vai. Một chiếc dường như được làm hoàn toàn bằng đường khâu giỏ với cổ áo có đường khâu rêu, tạo hình trước cho một số loại quần áo lớn hơn sau này.
Nữ diễn viên Nhà hát Abbey, Rita Mooney, trong chuyến viếng thăm quần đảo vào năm 1930 đã viết “vào thời điểm đó, trẻ em ở Aran sẽ mặc áo len đến dự Thánh lễ vào Chủ nhật, mỗi gia đình đều có thiết kế truyền thống riêng, và tất cả đều sạch sẽ, trắng bóng”. Một ông cụ, nay đã ngoài 80 tuổi, vẫn còn trìu mến nhớ lại chiếc gansey màu trắng trong lễ rước lễ lần đầu của mình.
Vì vậy, áo len Aran, như chúng ta biết, bắt đầu xuất hiện vào khoảng năm 1900 và cuối những năm 1920. Các kỹ thuật mới, mũi khâu mới và phương thức thử nghiệm đã phát triển trên các hòn đảo trong giai đoạn này, biến một hoạt động khá thường xuyên thành một nghề thủ công có vẻ đẹp độc đáo và biểu đạt nghệ thuật.
Một khi những người thợ đan có kinh nghiệm có thể nhìn thấy khả năng tạo hoa văn mà không có hình thức thông thường nào để sao chép, thì không có gì có thể ngăn cản họ. Sự khác biệt giữa áo len Aran, với các tấm hoa văn dọc của chúng và nhiều ví dụ tuyệt vời khác về áo len gansey câu cá từ khắp nước Anh và Scotland vào thời điểm đó, là sự xa hoa tuyệt đối của thiết kế Ireland.
Giống như ký hiệu âm nhạc, một khi những người thợ đan biết các nốt nhạc và hợp âm, họ có thể tự sắp xếp, sáng tác nhạc cho riêng mình. Cảm giác bản địa về trang trí trong trang phục đã tìm thấy một cách thể hiện khác. Phương thức mới đã dần được áp dụng.
Có nhiều lời giải thích khác nhau về cách thức điều này xảy ra. Các cơ sở của Hội đồng Quận tắc nghẽn nhằm cải thiện ngành đánh bắt cá trên các đảo đã đưa ngư dân đến đó từ Scotland, Donegal và Quần đảo Eo biển và những nơi khác cho mùa đánh bắt cá.
Vợ của ngư dân sẽ đi cùng họ để róc cá. Sẽ có nhiều cơ hội để xem và sao chép những chiếc áo len dệt kim truyền thống của những người mới đến từ các cộng đồng ven biển khác. Và kỹ thuật dệt kim, bao gồm việc sử dụng một cây kim thứ ba, sẽ mở ra khả năng tạo ra các mũi khâu “nổi”. Phụ nữ Donegal chắc chắn sẽ quen thuộc với Fair Isle và các nguồn sợi đan khác ngoài len dầu bản địa.
Những người di cư trở về cũng sẽ mang theo những ý tưởng mới; Người dân đảo Aran theo truyền thống di cư đến Boston. Một người phụ nữ, Mary Dympna Dirrane của Inishmore, trong một lá thư gửi Kitty Joyce vào những năm 1950, đã tuyên bố rằng mẹ bà, Margaret, đã đến Mỹ vào năm 1906 và, lấy cảm hứng từ những chiếc áo đấu màu xanh nước biển của ngư dân mà bà đã thấy ở đó, đã đan một chiếc khi trở về nhà cho anh trai mình bằng mũi đan rổ và sau đó là một chiếc khác có hình thoi.
“Và từ đó, những cành cây và cây trồng được sao chép mọc khắp hòn đảo.” Đối với Rahana Darlington, tác giả của “Irish Knitting”, bà nói rằng mẹ bà đã được những người phụ nữ nhập cư trên một số hòn đảo ngoài khơi Boston dạy nhiều mũi đan khác nhau.
Không còn nghi ngờ gì nữa, Margaret Dirrane là một thợ đan có óc sáng tạo cao. Năm 1946, bà được coi là một trong ba người giỏi nhất ở Quần đảo Aran. Bà cung cấp đồ đan cho Cleo, một cửa hàng ở Dublin, và vào một thời điểm nào đó trong những năm 1950, bà đã ném vào một trong những chiếc túi đựng bột mì trắng mà bà luôn dùng để gửi hàng, một chiếc mũ nhỏ kết hợp ba kỹ thuật trong một bộ trang phục: đan, móc và dệt. Chiếc “mũ crios” đầy màu sắc này, như tên gọi của nó, vẫn đang được bán cho đến ngày nay.
Nghề đan Aran cũng phải được xem xét trong bối cảnh khuyến khích chung các kỹ năng gia đình vào đầu thế kỷ. “Inis Beag” của nhà nhân chủng học John C. Messenger, sử dụng thông tin thu thập được vào những năm 1950 về Inisheer, tuyên bố rằng các giảng viên đã được cử đến vào những năm 1890 từ Hội đồng Quận tắc nghẽn “để dạy phụ nữ cách đan các mẫu phức tạp”.
Những người đưa tin cũng đề cập đến thực tế rằng “chỉ trẻ em mới mặc áo gansey vì đàn ông luôn thích áo len tối màu có thiết kế đơn giản. Các họa tiết này có những cái tên du dương như đường cong, hình số tám, kim cương đôi, nụ hồng, tổ ong và quả mâm xôi và hầu hết chúng phổ biến ở phần còn lại của Ireland, quần đảo Anh và các khu vực khác của châu Âu.”
Trên hết, đan lát là một hoạt động tập thể, một trò tiêu khiển gắn kết các cô gái trẻ trên đảo và một kỹ năng hàng ngày được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác theo dòng dõi phụ nữ. Các khuôn mẫu không bao giờ được viết ra và bất kỳ khám phá nào cũng nhanh chóng được sao chép và lưu giữ trong bộ nhớ tập thể. Một số thợ đan sáng tạo hơn và nhanh nhẹn hơn những người khác.
Một người phụ nữ ở Inishmore nhớ lại vào những năm 1930, khi bà còn là một cô bé, “chúng tôi thường đi lễ vào Chủ nhật, xin Chúa tha thứ cho tôi, không phải để cầu nguyện mà chỉ nhìn chằm chằm vào những mũi khâu – và sau đó chúng tôi chạy vội về nhà để thử và tự mình sao chép chúng”. Một người thợ đan khác, Bridgie Mullen, nhớ lại việc các cô gái trong làng đến đan len cùng nhau bên ngọn đèn dầu treo trên ống khói và cha cô ấy sẽ đọc truyện cho họ nghe.
Sự phát triển của áo len
Bước nhảy vọt giàu trí tưởng tượng từ việc chế tạo những chiếc tất có một số chi tiết đến những món đồ lớn hơn trong đó có thể sắp xếp đủ loại kiểu mẫu phải thực hiện bằng một thử nghiệm tự tin và được chia sẻ.
Để hiểu được sự phức tạp của một số loại áo len thời kỳ đầu, bạn phải nhận ra rằng chúng thường bao gồm các đường ngang khoảng 400 mũi khâu bằng len dệt thô ở nhà, trong đó 12 mũi khâu hoặc 20 hàng tạo thành khoảng một inch.
Mỗi mũi khâu trên mỗi hàng phải được thực hiện chính xác để đảm bảo họa tiết chính xác. Mỗi mẫu hoặc họa tiết, chẳng hạn như dây cáp hoặc hình thoi, có một số mũi khâu cụ thể mang lại một số ý tưởng về số học liên quan, chưa nói đến kỹ năng trang trí và đo vẽ cần thiết để thực hiện thành công một loạt thiết kế.
Do đó, việc tạo ra một chiếc áo len như vậy là một thách thức đáng kể. Thành tựu của những người thợ dệt trên đảo là biến trang phục thường ngày của người đi biển thành một thứ gì đó độc đáo.
Ngoài ra còn có câu hỏi về việc tạo hình, độ vừa vặn và khâu lắp ráp cuối cùng được nhiều người thợ đan cho rằng là những phần khó khăn nhất. Sự ra đời của kim dày hơn và sợi mềm hơn giúp tiết kiệm thời gian và công sức.
Một trong những nhà sưu tập đồ đan nổi tiếng nhất, Gladys Thompson, người có chuyên môn về Guernseys, jerseys và Arans đã viết vào năm 1969 về những chiếc áo len Aran đời đầu rằng “chúng đã khiến tôi mất ngủ nhiều đêm khi tìm ra các mẫu… chúng quá đáng yêu để có thể bị thất lạc và một số kỷ lục phải được giữ lại trước khi chúng trở thành một món đồ bị lãng quên.”
Người phụ nữ đảm bảo sự sống sót của chúng và là nhân vật nổi bật nhất trong câu chuyện đan len của Aran là Tiến sĩ Muriel Gahan. Là người sáng lập “Country Workers Limited” và “Hiệp hội Homespun” của Ireland, bà đã cống hiến cả cuộc đời mình để duy trì các nghề thủ công của đất nước Ireland như dệt, làm giỏ và đan lát.
Vào tháng 12 năm 1930, Country Shop được khai trương như một cửa hàng bán đồ thủ công truyền thống này ở tầng hầm của một tòa nhà trang nhã theo phong cách Georgia ở St. Stephen’s Green ở Dublin. Nó đã trở thành một trong những địa danh được yêu thích nhất của thành phố và nhà hàng và quán cà phê của nó là nơi tụ tập nổi tiếng.
Vài năm sau, Tiến sĩ Gahan đến thăm Quần đảo Aran lần đầu tiên. Thông qua người bạn Elizabeth Rivers, một nghệ sĩ đến sống ở Inishmore vào năm 1935, cô đã liên lạc được với những người thợ đan giỏi nhất trong khu vực, chủ yếu ở phía tây hòn đảo, và bắt đầu mua hàng của họ. Đây là những món đồ thủ công Aran đầu tiên được bán.
Năm 1936, một nhà báo dệt may người Đức, Heinz Edgar Kiewe, người có một cửa hàng may vá ở Oxford, đã mua một trong những chiếc áo len này ở Country Shop trong chuyến thăm Dublin. Sau đó, ông đã mô tả nó trong cuốn “The Sacred History of Knitting” vào năm 1967: “Đó là một mảnh áo len trông kỳ lạ có màu trắng như Kinh Thánh… đối với chúng tôi, nó trông quá kỳ quặc, có thể nói chúng cứng như một tấm ván”.
Theo Bishop Richard Rutt trong cuốn A History of handknitting (1987), Kiewe sau đó đã đưa chiếc áo len cho Mary Thomas, và một nhà báo đan lát có ảnh hưởng, người đã đăng một bức ảnh về nó cùng với một phần mô tả trong cuốn sách về các mẫu đan năm 1943 của cô. Trong những hiệu ứng chi tiết phong phú của chiếc áo len này, Kiewe nhận thấy mối liên hệ thẩm mỹ với nghệ thuật Celtic thời kỳ đầu, dẫn đến niềm tin sai lầm và dai dẳng rằng những chiếc áo len đã có từ hàng thế kỷ trước.
Tuy nhiên, anh cũng nhận ra vẻ đẹp độc đáo của nó. Như Bishop Rutt đã nói, “Đan len của Aran phát triển để thể hiện cảm giác chung về thiết kế. Các họa tiết mang vẻ đẹp Celtic nam tính thô ráp, không cần lãng mạn hóa, được tạo ra bởi kỹ năng của phụ nữ. Những người phụ nữ đã vẽ ra những mức độ tưởng tượng trần tục và nguyên thủy hơn những câu chuyện ngụ ngôn giả tôn giáo về hình dạng các mẫu của họ.
Tại Bảo tàng Quốc gia Dublin, ví dụ sớm nhất về kiểu đan Aran là từ những năm 1930 và 1940, được Tiến sĩ Gahan chọn cho bộ sưu tập đời sống dân gian của bảo tàng về trang phục Aran. Trong số các mặt hàng có áo len dành cho trẻ nhỏ từ năm 1937 với những đường zig-zag, hình thoi và rêu được dệt thành vòng (tức là giống như một chiếc tất có nhiều kim), áo len đan màu đỏ của bé gái với họa tiết hình thoi và hình cầu và một chiếc áo len nam có nhiều chi tiết, màu xanh hải quân.
Có một số chiếc áo len lớn màu trắng kem với nhiều kiểu trang trí và cổ áo khác nhau từ những năm 1950 và một chiếc được dệt kim “theo kiểu cũ” với đường khâu rêu và tất theo hoa văn nằm ngang chỉ trên ách và trên cùng của tay áo, bằng len Donegal được dệt sợi mịn. Đôi tất có kiểu dáng đơn giản, có một dải trang trí nhỏ ở đầu mũi.
Qua nhiều năm, cho đến khi đóng cửa vào tháng 9 năm 1978, Country Shop vẫn tiếp tục khuyến khích những người thợ thủ công nhiệt tình của họ. Năm 1946, tổ chức này phát động một cuộc thi dành cho những người thợ đan trên tất cả các hòn đảo để tìm kiếm “chiếc áo đấu Aran theo kiểu truyền thống” được dệt bằng len trắng với cổ cao, hình dáng thông thường, cỡ nam giới”.
Ban giám khảo cho biết, hơn 50 chiếc áo thi đấu đã được nhận và “số lượng lớn bài dự thi, tiêu chuẩn tay nghề cao và vẻ đẹp của hoa văn đã khiến đây trở thành một cuộc thi có giá trị và sự quan tâm vượt trội”.
Trong số 6 chiếc được dệt theo kiểu cũ (giống như áo thi đấu thông thường của thủy thủ Anh với hoa văn chỉ xuống một nửa), người sản xuất cho biết một chiếc là thiết kế của 70 năm trước. Ba người chiến thắng, đều đến từ Inishmore, là bà Pat McDonagh, cô Barbara Hernon và bà Margaret Dirrane, tất cả đều đến từ các ngôi làng phía tây của hòn đảo. “Có hơn 50 mẫu”, một báo nhận xét, “bởi vì trong nhiều trường hợp, mặt sau hoàn toàn khác với mặt trước”.
Năm 1938, Padraig O Maille, người vừa mở một cửa hàng may đo ở Galway, đã nhìn thấy một số phụ nữ trên đảo đứng dưới giá lạnh ở phiên chợ mở sáng thứ bảy đang cố gắng bán hàng dệt kim của họ. Ông ta đến gặp họ, mua giày và tất của họ, từ đó bắt đầu mối quan hệ giữa O Maille với những người thợ dệt kim trên đảo và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.
Vào cuối những năm 1940, ông đã cung cấp cho Patons ở Anh mẫu đan Aran đầu tiên của họ. Một số doanh nghiệp nhỏ tương tự do gia đình điều hành bắt đầu cung cấp len và nguyên liệu cho thợ dệt kim và bán sản phẩm của họ, khởi đầu cho nền tảng thương mại của ngành công nghiệp nội địa ở Aran.
Một người khác đã gắn bó chặt chẽ với những người thợ đan tay Aran trong gần bốn mươi năm là Padraig O Siochain, tác giả và luật sư người Dublin, hiện đã ở tuổi tám mươi. O Siochain từng là Cố vấn cấp cao và là nhân vật hàng đầu trong Phong trào Ngôn ngữ Ireland khi ông có được một khách hàng tên là Norman Baillie Stewart, được biết đến một cách miệt thị trong Thế chiến thứ hai với cái tên Lord Haw Haw vì các chương trình phát thanh của ông từ Đức.
Stewart đã bị kết án vì tội phản quốc ở Anh và bị trục xuất đến Ireland, nơi anh ta thành lập một công ty tên là Galway Bay Products để lấy đồ thủ công từ Quần đảo Aran và bán trong một cửa hàng ở Dublin. O Siochain đã tham gia vào công ty này và sau đó tiếp quản nó.
Đồng thời, Ủy ban Xuất khẩu Ireland mới thành lập, Coras Trachtala, đang nóng lòng phát triển và tiếp thị hàng hóa do Ireland sản xuất ở nước ngoài và đã tổ chức chuyến thăm cho người mua Hoa Kỳ tới Dublin. Galway Bay Products đã nhận được đơn hàng xuất khẩu đầu tiên khoảng 70 chiếc áo len từ Cleveland, Ohio. Đó là một thảm họa. O Siochain nhớ lại: “Chúng tôi không biết gì về kích thước vào thời điểm đó”.
“Nếu người thợ đan Aran có một người chồng nhỏ con thì bạn sẽ có một chiếc áo len ngắn. Nếu cô ấy có một người chồng cao thì bạn sẽ có một chiếc áo dài. Những chiếc áo liền quần đó cuối cùng được bán ở các cửa hàng giá rẻ ở tầng hầm và được bán với giá một đô la một chiếc.”
Được khuyến khích tiếp tục bởi John Ryan, một nhà quản lý trẻ trong hội đồng xuất khẩu, O Siochain cuối cùng đã nhận được một khoản trợ cấp nhỏ của chính phủ để cho phép một người hướng dẫn đi đến các hòn đảo và dạy những người thợ dệt kim cách may quần áo theo kích cỡ tiêu chuẩn quốc tế. Maeve Flanagan, người đã tự học đan lát và các nghề thủ công khác và là một kỹ thuật viên có năng lực, đã tham gia thực hiện nhiệm vụ này.
Vấn đề tiếp theo là làm thế nào để thanh toán cho các kích cỡ khác nhau, nhưng O Siochain cuối cùng đã tìm ra giải pháp, giải pháp này vẫn là tiêu chuẩn cho đến ngày nay. “Khi đó, một chiếc áo len của một người đàn ông được bán với giá 35 shilling và tôi nhận ra rằng cách duy nhất để trả thù lao cho người đan len là bằng trọng lượng.
Chúng tôi đã trả một shilling và sáu xu một ounce, gấp ba lần so với bất kỳ ai khác vào năm 1954.” Một giáo viên địa phương đã tổ chức một nhóm gồm 100 thợ đan ở Inishmore nhưng trong khi mọi người đều có thể đan, chỉ một phần nhỏ sẵn sàng đan theo đơn đặt hàng. “Nó sẽ giảm xuống còn 40 hoặc 50.
Galway Bay Products trả cho đại lý 20% hoa hồng và cung cấp kim cũng như len đan.” Dệt kim đã trở thành một phần của nền kinh tế tự cung tự cấp. Khi hoạt động kinh doanh phát đạt, O Siochain bắt đầu săn lùng thợ đan ở các hòn đảo khác. Ngày nay, công ty của ông vẫn xuất khẩu áo len dệt kim Aran đi khắp thế giới với Nhật Bản là khách hàng lớn và những người thợ dệt thủ công kiếm được từ 30 Bảng Anh đến 35 Bảng Anh một bộ quần áo.
Việc tuyển dụng thợ dệt trải rộng khắp cả nước. Theo Người đưa tin, một người phụ nữ ở Inisheer đã đan 41 chiếc áo len vào năm 1959. Một số người thích bán trực tiếp cho khách du lịch và có thể kiếm được tới 6 bảng Anh cho mỗi chiếc áo len vào thời điểm đó, nhưng họ phải tự mua len. Gaeltarra Eireann (Sản phẩm của Ireland) đã thay thế Hội đồng các quận tắc nghẽn và tiếp tục một số công việc của mình như khuyến khích đan tay và dệt vải, bắt đầu phân phát len và hoa văn cho những người thợ dệt kim tại nhà.
Tạp chí Vogue đã in họa tiết Aran vào năm 1956, vào thời điểm đó chiếc áo liền quần dệt kim được điêu khắc tinh xảo đã tạo dựng được tên tuổi quốc tế và một huyền thoại nhất định, nhờ sự hỗ trợ liên tục của chính phủ cả trong và ngoài nước. Những người thợ dệt kim Donegal đã loại bỏ những chiếc kim Fair Isle tốt của họ và thay thế chúng bằng những chiếc kim dày hơn để có thể tạo ra kiểu Aran nhanh hơn và do đó sinh lợi nhiều hơn. Sợi dệt kim đôi và len dày thậm chí còn đẩy nhanh quá trình hơn nữa.
Vào đầu những năm 1960, áo len Aran, giờ đây là kiểu sắp xếp đơn giản hơn với các họa tiết quen thuộc, là tài sản của mọi thợ đan giỏi và từ “Aran” đã trở thành thuật ngữ chung dùng để mô tả bất kỳ chiếc áo len có hoa văn nào màu trắng với trang trí phù điêu. Không lâu sau, máy móc đã tái tạo lại nghề dệt thủ công.
Thợ dệt kim
Mairin O’Donnell ở Inishmaan, người lần đầu tiên bắt đầu đan len cho Padraig O Siochain vào cuối những năm 1950, vẫn là một trong những niềm tự hào của hòn đảo, một thợ dệt kim sáng tạo và thợ dệt crios thành đạt. Bà học cách đan len trên lông ngỗng vào những năm 1930 khi mới 6 tuổi “vì kim lúc đó không dồi dào”, làm dây buộc tóc và ghệt nhỏ cho tất.
Lailli de Buitleir có những kỷ niệm tương tự về những người phụ nữ đan len không chỉ trên lông ngỗng mà còn bằng nan hoa xe đạp trong những năm chiến tranh, và thậm chí bằng thanh sally (cây liễu) ở Connemara. Mẹ của Mairin đã dạy bà cách thực hiện các mũi khâu trơn và kim tuyến cơ bản trên hai chiếc kim và cô bạn hàng xóm đã dạy bà cách làm dây cáp, bao gồm việc xoắn các mũi khâu bằng chiếc kim thứ ba.
“Đan len là sở thích chính. Khi còn nhỏ, chúng tôi đã cùng nhau học cách làm những mũi khâu mới. Chúng tôi có cừu và gửi len đến Galway và sau khi nó được chải thô từ các nhà máy về, chúng tôi kéo sợi và nhuộm nó. Chúng tôi đã mua thuốc nhuộm khoảng nửa ounce từ Galway.”
Bà nhớ đã nhuộm len để làm tất bằng thứ mà người dân trên đảo gọi là pleurin, một loại thuốc nhuộm tạo ra màu chàm đậm và nhanh. Năm 1948, bà đan một chiếc áo len trắng có dây cáp và hình thoi cho anh trai mình. Bà chưa bao giờ theo một khuôn mẫu nào trong đời, nhưng một trong những chiếc áo len của bà đã được tặng cho Giáo hoàng John Paul II khi ông đến thăm Galway vào năm 1981 và bà làm việc với tốc độ nhanh đến mức có thể tạo ra một chiếc áo len trong ba ngày, một ống tay áo phức tạp chỉ trong một vài giờ.
Bà nói: “Chính từ hình thoi mà tôi đã tạo ra các mẫu khác như tổ ong. Mairin đã tổ chức khoảng 30 thợ đan cho O Siochain và vào năm 1957, họ kiếm được khoảng 2,10,0 Bảng Anh cho một bộ quần áo. “Rất nhiều phụ nữ phụ thuộc vào thu nhập đó, dù nó nhỏ đến đâu. Họ chẳng có gì cả.”
Một chiếc áo len thông thường có thể chứa tới tám mẫu khác nhau với dây cáp, hình thoi, bobailin (dâu đen), xương cá, đường quanh co (zig-zags), số tám lớn, nửa hình thoi, đường khâu nhỏ hoặc dây cáp đảo ngược (sáng tạo riêng của Mairin). Bà cũng đã dệt kim bằng các loại sợi khác như cashmere và alpaca và là người đầu tiên ở Inishmaan làm một chiếc khăn choàng móc với nhiều màu sắc khác nhau vào những năm 1940.
Người dân đảo Aran luôn tự hào về diện mạo của gia đình họ và luôn có niềm vui lớn khi được mặc một chiếc áo len mới. Aine de Inishmaan nói “Đối với bạn, một chiếc áo len quý giá đến mức bạn thực sự đánh giá cao nó. Nó thật độc đáo, nó được làm đặc biệt dành cho bạn và bạn cảm thấy đó là một tác phẩm nghệ thuật được thiết kế dành cho bạn.
Trẻ em không nhận được những đồ mới mẻ, chúng nhận được những thứ đã qua sử dụng. Chúng được gửi quần áo từ Mỹ. Khi khoác lên mình chiếc áo len mới, bạn cảm thấy tự hào về nó và luôn được hàng xóm ngưỡng mộ. “Go maire tu is go gcaithe tue” người ta nói với bạn, “chúc bạn sống và mặc nó thật đẹp.”
Pauline McDonagh ở Inishmore có lịch sử gia đình về nghề thủ công gia đình kể từ thời bà ngoại của bà, người qua đời ở tuổi 103 vào năm 1930 và là người làm nghề móc, ren và thêu tinh xảo. Mẹ của Pauline thường đan những chiếc áo len “giống như những chiếc tất” dài đến tận nách mặc dù bà chưa bao giờ thực hiện những mũi khâu “lạ mắt” hay “những chiếc áo len nhỏ” mà Pauline cho rằng đã bắt đầu ở phía tây hòn đảo vào đầu những năm 1930.
“Một số đàn ông mặc đồ màu xám hoặc nâu tự nhiên của cừu trơn, trong khi những người khác lại thích màu xanh nước biển. Dần dần, phụ nữ ngừng nhuộm len.” Pauline vẫn sản xuất tất với thiết kế ren hở và “một chút Fair Isle trên meirini (ngón chân)” và nhớ lại cảm giác phấn khích khi làm chủ các mẫu mới.
“Chúng tôi phải mất một thời gian mới có được chiếc blackberry nhưng chúng tôi đã có được nó. Chính sự xoắn của các mũi khâu đã đưa chúng lên. Bạn chỉ cần thử mọi thứ – đối với một họa sĩ cũng vậy. Có một niềm vui lớn trong đó. Tôi thích đan len hơn là xem tivi,” cô nói.
Ngày nay tên của các mẫu khâu đang được tiêu chuẩn hóa nhưng phụ nữ trên đảo có tiếng địa phương riêng của họ. Brid Joyce, một thợ đan lành nghề có mẹ thường đan những chiếc áo len màu xanh lam với sáu đến tám chiếc kim “trong vòng tròn”, thích nghĩ rằng những mẫu cô sử dụng có mối liên hệ với cuộc sống và nghề câu cá của người Aran.
Trên bất kỳ chiếc áo len nào của mình, cô ấy sẽ chỉ ra dây cáp, mỏ neo, mắt chim nhỏ, càng cua, tổ ong, hình thoi và quả dâu đen. Brid đã dệt kim cho Gaeltarra Eireann trong những năm 1950 và 1960 và nhớ lại rằng “họ đưa ra một mẫu, lúc nào nó cũng giống một mẫu và Maureen (đại lý địa phương) sẽ đưa len cho chúng tôi. Bạn có thể làm một cái trong khoảng một tuần và họ sẽ trả cho bạn 3 hoặc 4 bảng Anh cho nó. Lúc đó tiền rất khan hiếm và không có công việc nào khác.”
Mary O’Flaherty, được coi là một trong những thợ đan hàng đầu của Inishmore ngày nay và là người có thể đan một chiếc áo len phức tạp khi nhắm mắt, nói rằng cô ấy bắt đầu “bởi vì đó chỉ là việc bạn đã làm. Tôi từng đan len vì tiền giúp ích được nhưng bạn sẽ không bao giờ kiếm sống được bằng nghề đó.”
Cô ấy rất tự hào về truyền thống của mình, truyền thống mà cô ấy coi là mối liên kết liên tục với một số thế hệ tài năng và trong cửa hàng nhỏ của cô ấy trên đảo đã treo một màn hình hiển thị tên của các mẫu bằng tiếng Ireland và tiếng Anh. Cuốn sách Toàn tập về nghề dệt kim Aran truyền thống (1982) của Sheila Hollingsworth liệt kê 71 kiểu dáng mũi khâu khác nhau.
Đồ đan Aran ngày nay
Áo len Aran vẫn tiếp tục thịnh hành trong giới nghệ thuật và văn học. Trong lĩnh vực kinh doanh âm nhạc, những chiếc áo len dệt kim tại nhà nổi tiếng của Clancy Brothers (sản xuất tại Roscommon) đã trở thành thương hiệu và là một phần hình ảnh của họ giống như những bản ballad “Fine Girl Ye Are”.
Nhà viết kịch người Ireland Sean O’Casey từng nhận được những chiếc áo len từ Ireland gửi đến cho ông ở Cornwall, và Paddy Moloney của nhóm Chieftains thường xuyên mặc những chiếc áo len có lông tại các buổi hòa nhạc. Lailli de Butleir, người tự dệt len, nhớ lại Maggie Dirrane ở Inishmore đan một chiếc áo len cho cha cô, họa sĩ Charles Lamb, vào năm 1947, “Nó cực kỳ đẹp với các họa tiết dọc xuống, được dệt tròn ở mặt sau. và mặt trước khác nhau. Cô ấy chỉ lắc lư ở phía sau vì bố nói rằng nếu không chúng sẽ cản trở chai bia của ông ấy.”
Những năm 1960 là những năm bùng nổ đối với du lịch Ireland, những năm bùng nổ đối với áo len Aran và đối với ngành dệt kim nói chung, với những chiếc máy dệt thủ công hiện đang hoạt động rộng rãi. Năm 1952 xuất khẩu hàng dệt kim từ Ireland trị giá 25.000 bảng Anh.
Mười năm sau con số đó là 551.000 bảng Anh và đến năm 1967 xuất khẩu hàng năm đạt 1,2 triệu bảng Anh và tiếp tục tăng trưởng đều đặn. Năm 1991, Ireland xuất khẩu hàng may mặc dệt kim trị giá 35 triệu bảng Anh, khiến hàng dệt kim trở thành một trong những ngành phát triển nhanh nhất của ngành quần áo.
Kể từ cuối những năm 1960, các nhà thiết kế thời trang đã thử nghiệm những hình ảnh rập khuôn về đan lát của Aran. Padraic O Siochain có những bức ảnh của con gái ông Orla, một người mẫu thời trang hàng đầu Paris vào thời điểm đó, mặc váy ngắn dệt kim kiểu Aran và thậm chí cả bộ bikini Aran.
Ở Pháp, le style irlandais đôi khi được biết đến, đã truyền cảm hứng cho những tên tuổi lớn trong làng thời trang quốc tế. Jean Paul Gaultier đã giới thiệu cho bộ sưu tập trang phục nam mùa thu năm 1985 của mình một bộ trang phục “Aran” hoàn chỉnh gồm quần bó sát, áo len và mũ lưỡi trai phù hợp bằng len trắng như tuyết, đồng thời cùng lúc đó, nhà thiết kế người Nhật Kenzo đã mang đến một cách tiếp cận đa chiều hơn cho cách diễn giải của mình.
Những chiếc áo len màu xanh lá cây sống động và màu hồng nổi bật của anh ấy – được sản xuất bằng máy ở Mayo – với các họa tiết nằm ngang thay vì dọc đã gây sốc cho những người đã quen với màu trắng quen thuộc, màu trắng nhạt hoặc màu xám của len tự nhiên không nhuộm. Về mặt thiết kế, Aran đã sẵn sàng.
Sự phát triển thực sự trong những năm gần đây là về sợi và máy móc mới. Các nhà thiết kế hàng đầu Ireland tiếp tục sử dụng nét chữ viết tay đặc biệt của người Aran ban đầu, nhưng giờ đây, những người thợ dệt kim sử dụng alpaca, lụa, cashmere, viscose, chenille và lanh cho quần áo siêu nhẹ tìm được thị trường ở các cửa hàng hàng đầu trên thế giới.
Mặc dù thực tế là công nghệ hiện đại có thể tạo ra các mẫu chỉ trong vài phút mà một người thợ đan tay phải mất một tuần mới hoàn thành, nhưng vẫn có nhu cầu đáng kể về các sản phẩm chất lượng, dù là bằng máy hay thủ công.
Ngày nay trên Quần đảo Aran, người dân sống bằng nghề du lịch và đánh cá, đồng thời cũng như các chuyến phà thường xuyên, có dịch vụ hàng không hàng ngày của Aer Arann nối cả ba hòn đảo với đất liền. Nghề đan tay vẫn tiếp tục, nhưng những năm 1970 chứng kiến sự ra đời của một công ty nhỏ, dưới tầm nhìn tiên phong của người sáng lập, Tarch de Blacam, một sinh viên tốt nghiệp ngành nghiên cứu Celtic kết hôn với một người dân đảo, đã mang lại hy vọng mới cho tương lai.
Hai mươi năm trước, Inishmaan, hòn đảo khó tiếp cận nhất trong ba hòn đảo, không có điện và nước sinh hoạt. Dịch vụ điện thoại còn thô sơ, dịch vụ phà thất thường và hàng hóa, theo kiểu truyền thống, phải ra vào bằng thuyền currach, những chiếc thuyền đánh cá của đảo bản địa. Inish Meain Knitwear bắt đầu với sáu người và một vài máy dệt kim gia dụng trong một nhà kho cũ để sản xuất những chiếc áo len dày dặn cho khách du lịch.
Công ty nhỏ nằm trên một hòn đảo nhỏ lộng gió ở bờ biển phía tây Ireland này hiện đang sản xuất một số loại hàng dệt kim tinh xảo và đẹp mắt nhất trên thế giới, sử dụng máy móc mới nhất của Nhật Bản và các loại sợi sang trọng được nhập khẩu từ Nam Mỹ.
Được xuất khẩu sang các thủ đô thời trang New York, Tokyo, Milan và Paris, những kiểu làm lại đầy phong cách của các đường khâu và hoa văn truyền thống này khai thác các kỹ năng bản địa cùng với công nghệ máy tính hiện đại để sản xuất “áo len ngư dân mới từ nơi tận cùng thế giới”. Trang phục dệt kim Inis Meain không chỉ thành công về mặt thương mại mà còn là lời tuyên bố về niềm tin vào tương lai của hòn đảo.
Vì vậy, câu chuyện về chiếc áo len Aran vẫn còn tiếp tục. Nó đã tồn tại, không giống như những chiếc khăn trải giường và váy lót màu đỏ, để trở thành đồng tiền chung, một ví dụ điển hình về thiết kế tốt mà Oscar Wilde đã từng nói “không chỉ đến từ đôi tay mà còn từ khối óc và trái tim nữa”.
Các nguyên mẫu ban đầu hầu như không phải là những món đồ đan tay được những người phụ nữ trên đảo làm bên lò sưởi để tô điểm và bảo vệ con trai và chồng của họ, những người mà họ rất tự hào. Chính thế giới bên ngoài đã đánh giá cao điều này và biến nó thành một mặt hàng có uy tín quốc tế.
Chiếc áo len Aran tiếp tục truyền cảm hứng cho các thế hệ thợ dệt kim và nhà thiết kế mới và ngày nay biểu tượng màu trắng này không chỉ là biểu tượng trường tồn của phong cách Ireland mà còn là biểu tượng bất khả chiến bại của chính Ireland.