….để tâm hồn chìm lắng trong bình yên, thư thả. Lúc nào cháu cũng xem Giáng sinh là một thời khắc tốt lành, không chỉ vì tên gọi và câu chuyện thiêng liêng của nó.
Đó là lúc mở lòng ra mà vui vẻ, mà từ tâm, mà tử tế và bao dung; là dịp duy nhất trong suốt cả năm dài để đàn ông và đàn bà mở rộng trái tim đóng kín của mình, xem những người thấp kém như anh em với mình chứ không phải là một sinh vật khác loài.
Vì thế, thưa bác, dù Giáng sinh chưa bao giờ cho cháu một mẩu vàng bạc châu báu nào, cháu vẫn tin nó đã mang lại cho cháu những điều tốt lành và mãi mãi vẫn như thế. Vậy nên cháu vẫn nói, cầu Chúa ban phước lành cho Giáng sinh!
(Charlie Dickens -Hồn ma đêm Giáng Sinh)
1.
Buổi sáng cuối tuần tháng mười hai tiết trời thật là đẹp. Qua mấy ngày có mưa nhỏ, cây cối xung quanh con phố có vẻ như được hồi xuân, những giọt nước vẫn còn đọng trên những bông hoa nguyệt quế trắng muốt, chẳng những không làm nhạt sắc hoa mà còn làm đậm đà hơn hương thơm nồng nàn của nó trong buổi sớm mai.
Căn nhà ba tầng bắt đầu xây từ hồi tháng tư, giờ đang hoàn tất công đoạn cuối cùng. Màu sơn nâu sậm trang nhã ở mặt tường ngoài của nó gây thiện cảm vì không làm lóa mắt người đi ngang.
Hai cây phượng trên mảnh đất cũ vẫn còn được giữ lại chứng tỏ chủ nhà, có thể, là một người khá yêu cây cối. Đúng vậy, bằng chứng là phía trong sân, đã thấy nhiều chậu hoa cây cảnh được xếp ngay ngắn sát bên bờ rào sắt với độ cao vừa phải – để không làm chắn tầm nhìn dù là đứng ở đâu.
Bước đi trên vỉa hè thoáng rộng sạch đẹp không một mẩu rác, tuy vậy thi thoảng bước chân mình bỗng ngập ngừng như được níu lại. Phải dừng lại một chút để cảm nhận cái đẹp của những cánh hoa rơi, những cánh hoa huỳnh liên vàng tươi rải rác khắp cả đoạn đường. Huỳnh liên nở quanh năm, nhưng thời điểm rực rỡ nhất của nó đang đến gần rồi, ấy là khi mùa Xuân gõ cửa. Chỉ còn hơn bốn mươi ngày thôi là một cái Tết nữa lại về!
Băng qua hai cái ngã ba, ngã tư, chỗ nào cũng rợp bóng cây, và đó cũng là điều mình thích nhất ở cái khu nhà mình đang sống, đến đoạn gần chợ nhỏ thân thương mà mình dự định mua vài thứ, thì thấy thấp thoáng một hình dáng quen thuộc:
-Chào cô Daisy, hôm nay cô đi chợ sớm thế ạ ?
Hóa ra là thi sĩ William, lâu lắm rồi mới lại thấy nó.
-Chào con William. Ừ, cô đi sớm tập thể dục luôn. Mà hôm nay ngày nghỉ không phải đi học sao con ra đường sớm vậy.
-Khổ quá, nào con có muốn thế. Chỉ tại cái thằng Leo rách việc, mới tờ mờ sáng mà nó đã phone cho con bắt phải ra hiện trường ngay, ngay và luôn, không sau này con có bị bệnh OTT nặng thì nó cóc thèm chữa cho con nữa, haizza, cô biết đấy, nó vốn cứ cậy mình làm bác sĩ.
-Là sao, con nói rõ cô nghe xem nào
-Thì đó, lý do nó đưa ra là do nhà con gần cái con đường khu nhà mình ấy cô. Chả biết qua hệ thống quan sát của AI sao đó mà nó nói cái đoạn đường này đang được đào lên lấp xuống, tơi tả hết cả nên nó phái con phải ra đây gấp xem tình hình chị Đá thế nào. Lỡ người ta có dỡ chị ấy lên thì nó yêu cầu con nhất quyết phải giữ lại chị nguyên vẹn để mai mốt chị còn có cơ hội gặp lại anh Đèn (chuyện tình chị Đá anh Đèn mời các bạn đọc lại trên blog :)), không nên để họ thất lạc nhau. Khổ lắm cô ạ, dù sao nó cũng là một chuyên gia tình yêu trong tập đoàn “Những người thích tiền” :)) (mặc cho vẫn phải ngồi ghế dự bị :))
Mình nhìn xuống đoạn đường mình đang đứng. Đúng là ngán ngẩm thật, đường sá gì chi chít vết gồ ghề ngang dọc, cái dài thuông thuổng, cái tròn như nong nia. Đó là những chỗ người ta xới lên và lấp lại. Xới lên, tất nhiên là dễ rồi nhưng lấp lại nghe chừng khó hay sao ấy mà những chỗ vá víu đó không sao bằng phẳng được so với nền đường cũ thành thử con đường ban đầu đẹp nhường ấy mà giờ đây khấp khểnh như hàm răng chín sáu ba không của nàng thơ nhà anh Chí Phèo.
-Có khi chút con phải tạt qua nhà thằng Skeleton báo cho nó yên tâm là từ giờ đi ngủ không phải khóa cửa hàng sách làm gì nữa. Những tên trộm không bao giờ dám bén mảng tới đây nữa đâu cô, đường xá thế này chúng mà chạy nhanh thì có mà té sấp mặt, sao thoát khỏi việc phải vào khám.
– Kể ra cũng khổ chị Đèn, nhưng cũng may mà chị ý ở trên vỉa hè nên vẫn được an toàn con ạ.
– Thì vẫn biết là thế nhưng cô bảo được bao lâu ? Haizza, lần sau thì con mặc kệ thằng Leo, nó là đương kim chủ tịch Hội cái gì vỉa hè đường phố gì gì ấy thì nó đi mà cứu chị ý, không phải cứ động tý là sai con được
– Chắc nó muốn con thực hành cho quen ấy mà, sau này con có làm kiến trúc sư thì cũng đã từng biết đến thực địa nó thế nào.
-Kiến trúc sư chứ không phải kỹ sư cầu đường đâu cô. Mà đường sá cứ cẩu thả thế này thì bao giờ chúng ta mới tiến lên thời đại 4.0 được đây. Bất quá mới phải đào đường lên, nhưng người ta nên ra điều kiện, ai mà đào lên thì sau khi hoàn thành phải trả về nguyên trạng mặt đường như cũ, chí ít cũng phải trong tình trạng chấp nhận được chứ cô nhìn cái mặt đường giờ mà xem.
-Con nói đúng đấy William. Có khi sau này con khởi nghiệp với một công ty chuyên tư vấn và thiết kế “vá đường đảm bảo lành lặn nhất có thể” lại ăn nên làm ra đấy con. Chết thôi, thi sĩ mà nhiều tài thế này sao lại phải ở mãi ở cái tập đoàn của những người tay gậy tay bị ấy chứ
-Cám ơn cô đã quá khen, người ta cứ bảo làm thơ được thì làm cái gì chả được :)) mà con vẫn thấy mình long đong lận đận lắm. Đấy, có mỗi cái tiệc “ra mắt” nho nhỏ thôi mà nịnh mãi “cụ xứ” có thèm xuống núi chủ trì cho con đâu
– Con cứ bình tĩnh, đâu khắc có đó. Mà tháng mười hai đã đi được một nửa chặng đường rồi. Chắc bọn con đang vất vả lắm nhỉ, thi học kỳ I đến nơi rồi còn gì
-Ồ, không cô, con vẫn cảm thấy chill lắm, chưa thấy gì cả. Có lẽ con là một anh chàng thư giãn :)).
-Thôi con phone lại cho thằng Leo đi để nó yên tâm. Giờ cô phải đi chợ rồi. Chào con nhé, chàng trai thư giãn, chúc con thi cử tốt nhá!
-Dạ con chào cô
Và thế là bóng thi sĩ của chúng ta nhanh chóng mất hút đoạn cuối con đường. Còn lại mình trên con đường khấp khểnh. Chà, không sao, con đường khấp khểnh thế chứ khấp khểnh nữa mình vẫn cứ phải nhảy chân sáo cho chill. Thật mà, vì mình là bà (cô) già thư giãn :)).
Cũng may là, vì đi chợ về những đồ mình mua chỉ phải xách chứ không phải kéo như là nhân vật dưới đây với cây thông Noel của ông ta! Nếu không thì…
….Thì tội cây thông lắm :)))
Oh, Tannenbaum
(Một truyền thống không giống bất kỳ truyền thống nào khác)
By Christopher Caldwell
Lần cuối cùng tôi suy nghĩ nghiêm túc về ý nghĩa của cây thông Noel vào cuối ngày thứ bảy tháng 12 cách đây một phần tư thế kỷ. Hoàng hôn buông xuống, gió tung bay và trời lạnh. Tôi đang kéo một cây linh sam Fraser dọc theo làn đường đang hỏng hóc của Xa lộ McGrath và O’Brien ở Somerville, Masssachusets, giữa chặng đường dài hai dặm từ lô đất trồng cây Giáng sinh đến căn hộ trên tầng ba của tôi.
Cái cây thật khổng lồ. Nó cao khoảng 9 feet, cao hơn 2 feet so với căn phòng tôi định đặt nó trong đó. Sau nửa giờ đi bộ, tôi chợt nhận ra rằng việc giữ phần ngọn của cây và kéo phần gốc của nó dọc theo đường nhựa có thể làm hỏng và làm trầy xước cây khiến nó không thể đặt đúng vị trí trên giá đỡ cây thông Noel.
Tôi thả cây xuống một giây và nhìn. Rất tiếc! Sự mài mòn đã làm vát phần chân của nó, nên nó có hình dạng giống như một cái đục, đồng thời cũng làm mất đi cả tầng cành phía dưới. Nhưng tôi không phải lo lắng về việc lắp cây của mình vào giá đỡ cây thông Noel, tôi ngẫm nghĩ, vì tôi không có cái giá đó. Tôi cũng không có đồ trang trí hay đèn cho cây mới của mình. Hồi đó tôi không giỏi lập kế hoạch.
“Kế hoạch tồi,” nếu chúng ta có thể nói uyển chuyển, là lý do khiến tôi kết thúc ở vị trí của mình vào buổi tối hôm đó. Cuộc đời tôi tựa như một bản nhạc quê hương miền Tây. Tôi đã từng trẻ và đã kết hôn, giờ đây tôi lại sẽ trẻ và thành người chưa lập gia đình. Tôi thậm chí không thể theo dõi những thứ vô cùng quan trọng đối với mình, chẳng hạn như giờ cửa hàng rượu đóng cửa mỗi tối.
Người vợ cũ của tôi dường như đang tránh căn hộ tôi đang sống. Nhưng không phải là không có khả năng cô ấy sẽ ghé qua. Nếu cô ấy làm vậy, con gái nhỏ của chúng tôi có thể sẽ đi cùng cô ấy. Vì thế tôi đã quyết định rằng, dù có chuyện gì xảy ra, căn hộ vẫn sẽ có một cây thông Noel.
Làm thế nào để sắp xếp điều này là khó khăn. Tôi không sở hữu một chiếc xe hơi. Không ai trong số những người bạn của tôi, những người có xe hơi, có thể hiểu tại sao căn hộ của tôi, nơi chưa bao giờ có sữa, bánh mì, trứng hoặc quần áo sạch, giờ lại cần đến cây lá kim. Vì vậy, tôi đi bộ một quãng dài từ Winter Hill đến một bãi đậu xe lầy lội, nơi tôi biết có một người bán cây thông Noel, nơi đường cao tốc ngang qua Sông Mystic.
Con gái tôi đã không quay lại. Tôi chưa bao giờ có được một cái giá đỡ cây. Cái cây tựa vào góc phòng khách của tôi suốt kỳ nghỉ lễ. Nhưng tôi rất vui vì nó ở đó. Tôi cảm thấy điều đó đúng và nó mang lại cho tôi một niềm vui nhỏ, đó là loại niềm vui mà tôi chuyên có vào thời điểm đó. Có vẻ như tôi có một điều gì đó về cây thông Noel.
Nhưng hầu hết mọi người cũng vậy. Cây Giáng sinh đã thoát khỏi mọi cuộc tấn công nghiêm túc vào dịp Giáng sinh và mọi nỗ lực hoài nghi nhằm phá hủy ngày lễ. Không giống như các cuộc thi Giáng sinh, các bữa tiệc văn phòng Giáng sinh, các chương trình truyền hình đặc biệt về Giáng sinh và hầu như mọi thứ diễn ra giữa bữa tráng miệng Lễ Tạ ơn và Thánh lễ nửa đêm, Cây Giáng sinh không có lời gièm pha nào.
Nó được tôn sùng dưới mọi hình thức (ít nhất là tất cả các hình thức tự nhiên), từ những cây linh sam lớn, sáng rực trên bãi cỏ Nhà Trắng cho đến những cây bonsai cỡ cây bồ công anh đặt trên mặt bàn trong các căn hộ studio.
Người khổng lồ lấp đầy phòng khiêu vũ trong cuốn sách kinh điển dành cho trẻ em “Cây Giáng sinh của ông Willowby” là hiện thân của sự hoành tráng của ngày lễ. Nhưng theo cách của nó, cây thông trụi lủi rũ xuống cũng vậy, quá yếu để có thể đỡ được một vật trang trí Giáng sinh duy nhất, không cần lá nhưng cũng không hẳn là không cần thiết, trong chương trình đặc biệt Giáng sinh Charlie Brown.
Làm thế nào mà cây thông Noel lại có được uy thế gần như đồng nhất như vậy vẫn là chủ đề được nhiều người suy đoán. Các xu hướng ngoại đạo và Kitô giáo đều hướng vào cách chúng ta kỷ niệm sự ra đời vào mùa đông của Chúa Giêsu, và hầu hết các xu hướng này đều có liên quan đến thảm thực vật.
Người Druid tôn kính cây tầm gửi. Người La Mã trồng cây ở Kalends vào đầu mỗi tháng. Cây trạng nguyên lần đầu tiên được mang về bởi đại sứ Hoa Kỳ tại Mexico và sau đó là Bộ trưởng Chiến tranh Joel Poinsett, người đã sử dụng chúng để thắp sáng ngôi nhà ở Nam Carolina của mình trong những tháng mùa đông.
Ở Anh, Nhà thờ Glastonbury tuyên bố đã nhận được cây gậy của Thánh Joseph xứ Arimathea, người môn đệ “tốt lành và công chính”, người đã hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá “và bọc xác trong vải lanh, rồi đặt trong một ngôi mộ đã được đẽo sẵn trên đá, nơi chưa từng có con người được đặt vào đó.”
Người ta kể rằng Joseph đã cắm cây gậy này vào đất trong sân nhà thờ Glastonbury và nó đã biến thành một bụi gai nở hoa một cách kỳ diệu vào mỗi dịp Giáng sinh. Năm 1752, khi chính quyền Anh hủy bỏ 11 ngày trong năm để chuyển từ lịch Julian sang lịch Gregorian, hàng nghìn người theo đạo Cơ đốc đã có mặt tại Glastonbury vào dịp Giáng sinh để đảm bảo bụi cây sẽ nở hoa.
Nhưng nó không nở. Người Anh theo đạo Tin lành đã từ chối áp dụng sự sắp xếp hợp lý hơn của người Gregorian ngay từ đầu vì nó được các cường quốc Công giáo ở Châu Âu ưa chuộng. Vì thế khi bụi cây không nở hoa, nhiều người lấy đó làm bằng chứng cho thấy lịch mới không những bất tiện mà còn dị giáo.
Ông bà tôi hơi giống những người canh gác Glastonbury. Họ sẽ mua cây thông Noel vào chiều muộn ngày 24 tháng 12 và dành thời gian còn lại của buổi tối để cắt tỉa nó. Điều này phù hợp với truyền thống cũ của người Anglo-Saxon là đốt một khúc gỗ Yule trong lò sưởi vào đêm trước Giáng sinh, một truyền thống đã lụi tàn vào khoảng thế kỷ 19.
Ông bà tôi chưa bao giờ nói rằng họ mua cây muộn như vậy. Sự trì hoãn cũng có thể là một lời giải thích giống như truyền thống. Họ sẽ giữ nó trong suốt mười hai ngày của lễ Giáng sinh (đủ thích hợp, vì Ngày thứ mười hai, hay Lễ hiển linh, là một lễ kỷ niệm lâu đời hơn lễ Giáng sinh).
Sau đó, họ sẽ ném cái cây lên hiên nhà đầy tuyết và hút sạch tất cả những chiếc lá khô trên thảm phòng khách, để trong thời gian còn lại của năm, bất cứ khi nào bà tôi hút bụi, thậm chí là để chuẩn bị cho bữa tiệc cocktail ngày 4 tháng Bảy, chiếc Electrolux nóng hổi sẽ tràn ngập ngôi nhà với hương thơm Giáng sinh mạnh mẽ, thông thoáng.
Cha tôi yêu thích truyền thống Giáng sinh của cha mẹ ông, và thực sự, việc trang trí cây thông vào đêm Giáng sinh mang lại rất nhiều cảm giác lãng mạn, bầu không khí giáng sinh cao trào. Điều đó có nghĩa là vào buổi sáng Giáng sinh, lần đầu tiên bạn thức dậy và nhìn thấy cái cây của mình.
Nhưng việc mua một cái cây vào cuối mùa sẽ đi ngược lại tinh thần hám lợi hiện đại của người Mỹ. Nó làm giảm số giờ thưởng thức cây thông Noel.
Các chị gái tôi và tôi đã bị cuốn vào một cơn cuồng nhiệt của “tinh thần Giáng sinh” bởi nhiều quảng cáo sản phẩm truyền hình gimme-gimme-gimme (Cho tôi- Cho tôi, ABBA có một bài hát mang tên Gimme-Gimme-Gimme nghe khá hay) khác nhau, và lời cầu xin của chúng tôi để mùa diễn ra bắt đầu bằng buổi chiếu đầu tiên của phim hoạt hình sáng thứ Bảy sau Lễ Tạ ơn. Cha tôi không thể chịu nổi điều đó. Kết quả là chúng tôi đạt được thỏa thuận, theo đó chúng tôi sẽ nhận được cây thông đó một hoặc hai tuần trước lễ Giáng sinh.
Điều mà mọi người yêu thích nhất ở cây thông Noel – cảm giác mang cả một khu rừng vào nhà, sự dựng đứng, vòng hoa cầu kỳ – là sự đóng góp của nhóm dân tộc lớn nhất nước Mỹ, người Đức. “Sự đơn giản trẻ con, cởi mở đó,” một trong những phóng viên nhà văn học dân gian người Anh Clement Miles đã viết trong cuốn lịch sử về nghi lễ và truyền thống Giáng sinh năm 1912 của ông, “làm cho Lễ Giáng sinh về cơ bản là người Đức. Bản thân người Đức là những người giản dị, ấm áp, khiêm tốn với một điều gì đó ẩn sâu trong con người họ, theo nghĩa tốt nhất là giống trẻ con.” (Người ta cho rằng quan điểm đã được sửa đổi trong ấn bản năm 1914 của Miles.)
Truyền thống này của Đức đã được truyền đến Hoa Kỳ trước làn sóng người Đức nhập cư vào giữa thế kỷ 19, nhưng chỉ ngay trước đó, vào khoảng thời gian đăng quang của nữ hoàng gốc Đức đầu tiên của nước Anh, Victoria.
Được hỗ trợ nhiều bởi sự trang trí nhiệt tình của Công chúa Helena của Mecklenburg, cơn sốt cây cối đã lan rộng trong các hộ gia đình thượng lưu ở Pháp và Anh, và sau đó là ở Mỹ. Mặt khác, cây thông Noel là tín hiệu của chủ nghĩa quốc tế và mặt khác là rất nhiều niềm vui. Vì vậy, chúng lan truyền theo cách mà truyền thống trò chơi trick-or-treat hoặc Halloween của Mỹ đã lan rộng ở lục địa châu Âu kể từ đầu thế kỷ này.
Nguồn gốc phong cách trang trí Giáng sinh của chúng ta nằm ở thành phố Strasbourg của Alsatian và có từ thế kỷ XVII. Nhà văn học dân gian người Mỹ George William Douglas đã mô tả truyền thống ban đầu là vào đêm giao thừa, phụ nữ Alsatian sẽ dựng một cây linh sam bên cạnh đài phun nước, trang hoàng cho nó “bằng những dải ruy băng, vỏ trứng và những hình tượng nhỏ”, tượng trưng cho những người chăn cừu và nhiều kiểu hài hước khác nhau.
Ngay cả trong những năm 1970, một số truyền thống cắt tỉa cây ở Đức đã tồn tại và vẫn còn tồn tại. Người ta cho rằng người Đức thích treo những cây linh sam đã mua của họ bằng những sợi kim loại Engelshaar, sáng bóng, dài khoảng 1 foot. Đây là những gì bây giờ chúng ta gọi là “kim tuyến”.
Tuổi thơ của tôi trùng hợp với thời kỳ hoàng kim của kim tuyến, bởi vì các nhà sản xuất Mỹ, sau Thế chiến thứ hai, đã học được rằng bạn có thể sản xuất chúng hàng loạt với giá rẻ, từ những dải chì mỏng. Không có gì đẹp đẽ, thiên thần hay cổ tích hơn những thứ này.
Khu liên hợp công nghiệp trang trí đã đổi tên nó thành “giọt băng”. Nó có treo thẳng đứng như cột băng không? Đã từng như vậy! Chỉ cần vài sợi dây kim tuyến bằng chì này là có thể tạo thành một cành cây, từng hướng lên trên, chùng xuống dưới sức nặng.
Sau khi chúng tôi phủ một vài chiếc hộp lên cái cây của mình, nó trông giống như một thứ gì đó được làm bằng crom, có thể là một trong những mô-đun mặt trăng của tàu Apollo, với những món trang sức thò ra khỏi nó giống như đèn pha.
Than ôi, vào khoảng năm 1970, lệnh cấm liên bang đối với một số công dụng nhất định của chì đã đặt dấu chấm hết cho “giọt băng”, vì vậy chúng tôi phải thay thế phiên bản kim tuyến bằng polyurethane an toàn bằng cild, loại này không có vị tốt bằng loại chì.
Ngay từ thời thơ ấu của tôi, đã có một cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra về việc liệu người ta nên thắp sáng cái cây của mình bằng những bóng đèn lớn nhiều màu sắc hay những bóng đèn nhỏ màu trắng lấp lánh. Cái trước mang tính lễ hội hơn, cái sau phức tạp hơn. Chúng tôi là một gia đình lễ hội.
Trong những năm trước khi có lệnh cấm vận dầu mỏ của Ả Rập, bố mẹ tôi thường chở chúng tôi đi qua các khu dân cư Canada gốc Pháp ở các thị trấn xay xát gần đó, nơi những bóng đèn hình nón có màu cơ bản được treo dọc theo lan can hiên nhà, và những ông già Noel tràn ngập ánh sáng, những nhà trẻ tự chế và đèn chiếu sáng trong nhà. -những người tuyết bằng nhựa tối màu chen chúc trên bãi cỏ phía trước – những thứ có thể nhìn thấy được, nhưng không nhiều đến mức đó, trong khu vực sang trọng hơn một chút mà họ đã chuyển cả gia đình đến.
Viết cách đây một thế kỷ, Miles, nhà văn học dân gian người Anh gốc Đức đã đề cập ở trên, đã lưu ý rằng “ở Đức, lễ Giáng sinh không phải là một điều xa xỉ đối với những người khá giả như ở Anh, mà là một điều cần thiết”. Bên ngoài quê hương Đức, việc tổ chức lễ Giáng sinh đúng cách có nghĩa là phải nỗ lực và chi tiêu đáng kể.
Ở Mỹ cũng như ở Anh, lễ Giáng sinh sớm đã trở thành biểu tượng của địa vị. Nhà sử học Stephen Nissenbaum của Đại học Massachusetts đã lưu ý trong nghiên cứu “The Battle for Christmas” năm 1996 của ông rằng mốt cây Giáng sinh đầu tiên ở Mỹ đã tìm thấy những người quảng bá nhiệt tình nhất cho nó trong đội tiên phong giàu có và sành điệu – những người mà bạn có thể mô tả là “những người theo chủ nghĩa tự do xe limousine” hoặc “tinh hoa văn hóa” trong thời đại của họ.
Nhiều người dựng những cây thông Giáng sinh đầu tiên là tín đồ của Chủ nghĩa Nhất thể, một phe tự do của Chủ nghĩa Giáo đoàn ở New England lúc đó đang nổi lên, dưới sự lãnh đạo của những nhà thuyết giáo như William Ellery Channing và (một thời gian ngắn) Ralph Waldo Emerson, như một đức tin vào quyền riêng của mình . Những người này hoài nghi về những truyền thống lâu đời hơn, không loại trừ chính Cơ đốc giáo.
Nissenbaum cho thấy rằng những người theo chủ nghĩa Unitarians, một thế kỷ trước khi có người từng nghe nói đến trung tâm mua sắm hoặc quảng cáo trên truyền hình vào sáng thứ bảy, đã gặp rắc rối với chủ nghĩa duy vật của Mỹ. Họ cũng nằm trong số những người hâm mộ nhiệt tình nhất triết lý nuôi dạy trẻ của Johann Heinrich Pestalozzi, một kiểu Tiến sĩ Spock người Thụy Sĩ, người được cả thế giới theo dõi.
Vào những năm 1820, Pestalozzi đã công kích điều mà ông coi là lời dạy đạo đức truyền thống của Cơ đốc giáo rằng “sự cố ý” là mối nguy hiểm cho tâm hồn trẻ em.
Theo lý thuyết cũ, vì ý chí của đứa trẻ chỉ có thể cản trở hoạt động của ân sủng thiêng liêng, điều tốt nhất mà cha mẹ có thể làm là phá bỏ nó. Pestalozzi cho rằng điều này là sai. Ý chí không cần phải bị phá vỡ mà phải được rèn luyện.
Trên thực tế, những đứa trẻ không bị hư hỏng có thể có ý chí đáng tin cậy hơn người lớn và có thể đóng vai trò là hình mẫu; người lớn có thể bắt chước niềm vui ngây thơ của chúng.
Các học trò của Pestalozzi coi Giáng sinh hiện đại là một cách để sử dụng nhiều yếu tố kích thích cảm xúc khác nhau để lấp đầy ngôi nhà với niềm vui của tuổi thơ. Sự ngạc nhiên là quan trọng (như một dịp và sự khích lệ của niềm vui).
Điều bí ẩn về ông già Noel tặng quà cũng vậy (để trẻ không cố gắng thao túng người tặng quà thực sự là cha mẹ, từ đó làm mất đi sự hồn nhiên của niềm vui đó). Cây thông Noel cũng vậy (làm phông nền kỳ diệu cho niềm vui).
Khi đó, lễ Giáng sinh điển hình của Mỹ là phát minh của giới tinh hoa văn hóa thế tục hóa. Nhưng nền văn hóa yeoman của đất nước này quá mạnh nên không thể để nó tồn tại độc quyền. Sự hấp dẫn hợm hĩnh của Lễ Giáng sinh đã bị những người ngoan đạo quan tâm nhiệt thành nhất đến lễ Giáng sinh làm suy yếu.
Giáo sư Tristram P. Coffin của Đại học Pennsylvania đã viết trong Sách Văn hóa dân gian Giáng sinh năm 1973: “Phần lớn sự nhấn mạnh vào sự thờ phượng sâu sắc hiện đang thể hiện trong Lễ Giáng sinh ở Mỹ là do sức sống của nó không phải do nguồn gốc Anh chính thống mà là do những người nhập cư sau này”.
Với những kim tự tháp nến, những bức tượng, cây trạng nguyên và cây thông, họ đã mang trở lại vào lễ tưởng niệm một kỳ quan gần như đã biến mất.” Lễ Giáng sinh hôm nay là kết quả. Nó có các yếu tố của cả một kỳ nghỉ cao cấp (từ Nutcracker Suite đến hội chợ thủ công Dickensian) và một kỳ nghỉ bình dân (từ “Grandma Got Run Over by a Reindeer” đến đợt giảm giá “Door – Buster” Black Friday tại khu mua sắm trung tâm thương mại).
Đặc biệt, cây thông Noel kết hợp hai thứ tưởng chừng như không thể dung hòa được. Nó là một trong những kho lưu trữ cuối cùng của nền văn hóa cao cấp thế kỷ 19 được sử dụng phổ biến, nhưng nó cũng mang tính dân chủ, dễ tiếp cận và chứa đựng tình yêu thương đồng loại.
Điều này làm cho cây thông Noel trở thành niềm vui cho mọi người. Thật đáng để ra ngoài vào một ngày tuyết rơi để mua một cái cây, ngay cả khi bạn không chắc mình sẽ có ai để chia sẻ nó.
Tôi nhớ mình đã mang theo cái cây cao 9 foot trước cửa ngôi nhà ba tầng mà tôi đã sống cách đây 25 năm. Vai tôi thắt lại vì đau. Tôi kiệt sức đến nỗi không nghĩ rằng để mang thứ đó lên cầu thang lên tầng ba, tôi phải vác nó lên. Thay vào đó tôi kéo nó đi, với những cành cây vướng vào lan can và thân cây đập vào cầu thang.
Cánh cửa căn hộ trên tầng hai mở tung, căn hộ do bà chủ nhà người Albania của tôi ở, người mà tôi chưa bao giờ nói một lời thân thiện nào. Tôi chỉ nói chuyện với bà vào ngày đầu tiên hàng tháng, khi bà đập cửa nhà tôi lúc bảy giờ sáng và hét lên: “Thanh toán tiền nhà! Thanh toán tiền nhà” và vào một số đêm muộn – không thể đoán trước được là đêm nào – khi bà sẽ đáp lại tiếng bước chân loảng xoảng của tôi lên cầu thang bằng cách mở cửa và nói, “Bây giờ thì có chuyện gì vậy?”
Tối hôm đó, bà lảo đảo, lẩm bẩm, đi ra hành lang, trừng mắt nhìn tôi một lúc như mọi khi, rồi nhìn qua tôi đến cây linh sam lớn mà tôi đang vật lộn. “Ồ,” bà lạnh lùng nói. “Giáng sinh vui vẻ.” Sau đó bà đóng cửa lại và quay vào trong.
2.
Cuối tuần hai mẹ con rủ nhau đi xem phim. Một bộ phim nhạc kịch được chuyển thể từ tác phẩm “Phù thủy xứ Oz” của Frank Baum, nhà văn nổi tiếng người Mỹ chuyên viết truyện thần thoại cho trẻ em.
Trước khi được biết đến với loạt truyện về xứ Oz, Frank Baum đã từng làm rất nhiều nghề.
Hai mươi tuổi ông bắt tay vào việc nuôi gà Hamburg trong cơn sốt chăn nuôi gia cầm trên toàn nước Mỹ. Kết quả của nghề nghiệp này là đến năm 30 tuổi ông ra một cuốn sách nói về việc giao phối, nuôi dưỡng và quản lý đàn gia cầm.
Ông còn làm thêm công việc bán pháo hoa. Việc bán pháo hoa của ông đã khiến ngày 4 tháng 7 trở nên đáng nhớ. Pháo hoa, nến La Mã mà ông bán tràn ngập bầu trời, trong khi nhiều người xung quanh khu phố sẽ tụ tập trước nhà để xem màn trình diễn.
Giáng sinh thậm chí còn vui hơn. Baum hóa trang thành ông già Noel cho gia đình. Cha ông sẽ đặt cây thông Noel sau tấm rèm ở phòng khách phía trước để Baum có thể nói chuyện với mọi người trong khi ông trang trí cây thông mà không ai có thể nhìn thấy ông. Ông đã duy trì truyền thống này suốt cuộc đời mình.
Baum có tài trở thành tâm điểm vui chơi trong gia đình, kể cả những lúc khó khăn về tài chính.
Ấy là khi Baum bắt đầu đam mê cả đời mình—và không đạt được thành công về mặt tài chính—với rạp hát. Một công ty sân khấu địa phương đã lừa ông rằng nếu ông cung cấp thêm trang phục cho họ thì họ hứa sẽ giao cho ông những vai chính.
Vỡ mộng, Baum rời rạp hát — tạm thời — và đến làm nhân viên bán hàng trong công ty hàng khô của anh rể ở Syracuse. Trải nghiệm này có thể đã ảnh hưởng đến câu chuyện “Vụ tự sát của Kiaros” của ông, được xuất bản lần đầu trên tạp chí văn học The White Elephant. Một ngày nọ, người ta tìm thấy một nhân viên bán hàng bị nhốt trong phòng kho đã chết, có thể là do tự sát.
Baum không bao giờ có thể rời xa sân khấu lâu. Ông biểu diễn trong các vở kịch dưới nghệ danh Louis F. Baum và George Brooks. Năm 1880, cha ông xây cho ông một nhà hát ở Richburg, New York, và Baum bắt đầu viết kịch và thành lập một công ty để diễn xuất trong đó.
Năm 1882, Baum kết hôn với Maud Gage, con gái của Matilda Joslyn Gage, một nhà hoạt động nữ quyền và quyền bầu cử nổi tiếng của phụ nữ. Một tờ báo địa phương đưa tin rằng buổi lễ của họ là “một trong những sự bình đẳng” và lời thề hôn nhân của họ “hoàn toàn giống nhau”.
Vào tháng 7 năm 1888, Baum và vợ chuyển đến Aberdeen, Dakota, nơi ông mở một cửa hàng tên là “Baum’s Bazaar”. Thói quen tặng hàng chịu thuế của ông đã dẫn đến việc cửa hàng cuối cùng bị phá sản, vì vậy Baum chuyển sang biên tập tờ báo địa phương “The Aberdeen Saturday Pioneer”, nơi ông viết chuyên mục Bà chủ nhà của chúng tôi.
Tờ báo của Baum thất bại vào năm 1891, và ông, Maud cùng bốn con trai của họ chuyển đến khu Công viên Humboldt của Chicago, nơi Baum nhận công việc đưa tin cho tờ Evening Post.
Bắt đầu từ năm 1897, ông thành lập và biên tập một tạp chí tên là “The Show Window”, sau này được gọi là “Merchants Record and Show Window”, tập trung vào việc trưng bày cửa sổ cửa hàng, chiến lược bán lẻ và bán hàng trực quan.
Các cửa hàng bách hóa lớn vào thời điểm đó đã tạo ra những tưởng tượng phức tạp về thời gian Giáng sinh, sử dụng cơ chế hoạt động đồng hồ khiến con người và động vật dường như chuyển động. Tạp chí Show Window trước đây hiện vẫn đang hoạt động, và được gọi là tạp chí VMSD (bán hàng trực quan + thiết kế cửa hàng), có trụ sở tại Cincinnati.
Năm 1900, Baum xuất bản một cuốn sách về trưng bày qua cửa sổ, trong đó ông nhấn mạnh tầm quan trọng của ma-nơ-canh (mannequin) trong việc thu hút khách hàng. Ông còn phải làm cả với tư cách một nhân viên bán hàng lưu động.
Năm 1897, ông viết và xuất bản “Mother Goose in Prose”, một tuyển tập các vần điệu của Mother Goose được viết dưới dạng truyện văn xuôi và được minh họa bởi Maxfield Parrish. Mother Goose thành công ở mức độ vừa phải và đã cho phép Baum từ bỏ công việc bán hàng (điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của ông).
Năm 1899, Baum hợp tác với họa sĩ minh họa W. W. Denslow để xuất bản Father Goose, His Book, một tuyển tập thơ vô nghĩa. Cuốn sách đã thành công và trở thành cuốn sách dành cho trẻ em bán chạy nhất trong năm.
Năm 1900, Baum và Denslow (người cùng sở hữu bản quyền) xuất bản cuốn “The Wonderful Wizard of Oz” (Phù thủy xứ OZ) và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình cũng như thành công về mặt tài chính. Cuốn sách là cuốn sách dành cho trẻ em bán chạy nhất trong hai năm sau khi xuất bản lần đầu. Baum tiếp tục viết thêm 13 cuốn tiểu thuyết dựa trên địa điểm và con người của Xứ Oz.
Lúc này ông đã qua tuổi bốn mươi, sau nhiều lần thất bại ở đủ thứ nghề thì cuối cùng ông đã tìm thấy thành công trong nghề viết, với thể loại truyện dân gian kỳ ảo.
Baum là người Mỹ gốc Đức và Scotland, những người rất yêu thích những giá trị truyền thống, đề cao và trân trọng các mối quan hệ gia đình. Họ yêu văn chương nghệ thuật, và có khiếu kinh doanh. Có thể kể đến hai tên tuổi hiện đang rất nổi tiếng là ca sĩ Taylor Swift và tổng thống thứ 47 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Donald Trump.
Ông Trump cũng vừa, lần thứ hai, được tạp chí Time bầu chọn là nhân vật của năm 2024. Trong khi năm ngoái, 2023, Swift trở thành nghệ sĩ đầu tiên được trao danh hiệu này, sau thành công ngoài sức tưởng tượng với doanh thu đạt mức kỷ lục 2 tỷ USD của tour diễn “The Era Tour.”
Như nhiều bộ phim của Disney thời gian gần đây, “Wicked” mang thông điệp về một thế giới không còn sự phân biệt đối xử và định kiến xã hội, về chủ nghĩa nữ quyền và tinh thần đấu tranh cho công lý. Hơn thế, Wicked còn cho thấy một tình bạn gắn bó dựa trên nền tảng chấp nhận những sự khác nhau của mỗi người, rằng những người tuy không có cùng địa vị , không có cùng kiểu tính cách hay thậm chí là quan điểm sống vẫn có thể có một tình bạn đáng trân trọng.
Với vai diễn đầy ấn tượng Glinda trong “Wicked”, liệu cây gậy thần kỳ của cô phù thủy xinh đẹp này có thể giúp Adriana Grande giành được một tượng vàng Oscar vào đầu năm sau ? Chúng ta hãy cùng chờ xem!
Những câu chuyện Chúa giáng sinh
(Những bộ phim Giáng sinh hay nhất (và tệ nhất) từ trước đến nay)
By Sonny Bunch
Bộ phim Giáng sinh hay nhất mọi thời đại là bộ phim nào? Chà, trước khi giải quyết câu hỏi đó, chúng ta phải lùi lại một bước và hỏi điều gì khiến một bộ phim trở thành “bộ phim Giáng sinh” ngay từ đầu. Đó là một vấn đề phức tạp hơn bạn nghĩ. Lấy bối cảnh vào mùa Giáng sinh là yếu tố cần nhưng chưa đủ.
Nếu tất cả những gì bạn cần là tiếng chuông leng keng làm nền, thì Shane Black – bộ óc đằng sau “Lethal Weapon”, “Kiss Kiss Bang Bang” và “Iron Man 3”, tất cả đều diễn ra vào dịp Giáng sinh sẽ là nhà vô địch không thể tranh cãi của điện ảnh Giáng sinh, tác giả của Noel. Nhưng không có bộ phim nào thực sự là phim Giáng sinh. Vì vậy, anh ấy chắc là không phải rồi.
Còn “Die Hard”, bộ phim hành động kinh điển năm 1988 của Bruce Willis thì sao? Nó được phát hành trong mùa phim bom tấn mùa hè, nhưng kể về những kẻ khủng bố chiếm giữ một tòa nhà văn phòng trong bữa tiệc Giáng sinh. Rất nhiều ngôi sao hippie trong trường điện ảnh đã tuyên bố đây là một bộ phim Giáng sinh mà BuzzFeed – BuzzFeed! – cảm thấy cần phải xuất bản một tác phẩm tuyên bố rằng tác phẩm này không còn hot nữa.
Nhưng “Die Hard” rõ ràng không phải là một bộ phim Giáng sinh, bởi vì Giáng sinh không phải là nội dung cốt truyện. Câu chuyện có thể dễ dàng diễn ra vào ngày 4 tháng Bảy chẳng hạn. Tất cả những gì quan trọng đối với cơ chế của “Die Hard” là mọi người tập trung tại Nakatomi Plaza để Alan Rickman có thể trở thành một ngôi sao quốc tế bằng cách giảng cho các con tin của mình về những điểm tinh tế hơn của trang phục nam đặt riêng.
Để được coi là một bộ phim Giáng sinh, kỳ nghỉ lễ phải gắn liền với các hành động của bộ phim và thể hiện chủ đề của nó. Lấy ví dụ bộ phim “Ở nhà một mình” (Home Alone), bộ phim năm 1990 của Chris Columbus kể về một cậu bé tên Kevin có gia đình đi nghỉ mà không có cậu.
Cốt truyện liên quan đến một cặp tội phạm đang cướp những ngôi nhà (a) chứa đầy chiến lợi phẩm mới, dưới dạng quà Giáng sinh, và (b) không có người đi du lịch trong kỳ nghỉ lễ. Thực tế chủ đề chính của bộ phim là sự đoàn kết và sự tha thứ của gia đình, và sự phân loại đã được giải quyết: Ở nhà một mình chắc chắn là một bộ phim Giáng sinh.
Tuy nhiên, đây có phải là một bộ phim Giáng sinh tuyệt vời không? Có lẽ là không: Như Barack Obama đã nói về Hillary Clinton, điều đó cũng đủ dễ thương rồi. Nhà biên kịch John Hughes đã khéo léo pha trộn tình cảm và hài kịch, đưa ra một kết luận cảm động bên trên những gì về cơ bản chỉ là sự kết hợp ngớ ngẩn giữa sự hài hước cơ thể và những thứ trẻ con khó chịu.
“Ở Nhà Một Mình” không hài hước như những bộ phim Giáng sinh vui nhộn nhất, tuy nhiên tính tình cảm ủy mị của nó còn chán ngấy hơn cả những bộ phim ngớ ngẩn nhất.
Nhưng ít nhất bây giờ chúng ta đang đi đến một nơi nào đó. Giống như “Ở nhà một mình”, các bộ phim tuyệt vời cho lễ Giáng sinh có xu hướng kết hợp tình cảm với sự hài hước. Tuy nhiên, chúng ta thường phân loại chúng theo ngành này hay ngành khác.
Và khi nói đến những loài đa cảm – những loài khiến bạn phấn chấn, dù bạn biết cuối cùng mọi chuyện cũng sẽ ổn thỏa và dù bạn đã xem bộ phim cả trăm lần – chỉ có một vài lựa chọn chính đáng cho GOAT (Greatest Of All Time – đó là điều tuyệt vời nhất mọi thời đối với các bạn).
Ông tổ của thể loại này là “Miracle on 34th Street” (Phép màu trên phố 34). Tác phẩm kinh điển năm 1947 của George Seaton nói về việc chứng minh rằng ông già Noel, nhân vật Giáng sinh vui vẻ nhất trong xã hội ngày càng thế tục của chúng ta, là có thật.
Câu chuyện về một cô bé hay nghi ngờ bị người mẹ lao động của mình lôi kéo hết niềm tin, “Phép màu trên đường 34” kể về việc giành lại điều kỳ diệu khỏi sự hoài nghi và tầm quan trọng của việc mở lòng đón nhận tình yêu.
Đây cũng có thể là sự chứng thực lớn nhất từ trước đến nay của Bưu điện Hoa Kỳ, với cảnh cao trào của bộ phim xoay quanh những túi thư khổng lồ được chuyển đến phòng xử án. (Thật buồn cười là trong một bộ phim đã hơn 10 năm tuổi, điều lỗi thời lớn nhất lại là niềm tin sắt đá vào năng lực của Bưu điện).
Nhưng vua của thể loại này là “It’s a Wonderful life” (Cuộc sống tươi đẹp) của Frank Capra, tượng đài về Americana năm 1946. Capra theo đuổi một loại chủ nghĩa cá nhân cộng đồng từ lâu đã trở thành nền tảng của xã hội Mỹ: George Bailey của Jimmy Steward là một anh hùng đã cứu anh trai mình, dược sĩ thị trấn và ngân hàng gia đình thông qua sự kết hợp giữa lòng dũng cảm mù quáng và lòng vị tha tận tụy.
Xin lưu ý bạn, khi bạn nhìn nó dưới một khía cạnh nhất định, tình hàng xóm này có thể tiến gần đến chủ nghĩa xã hội một chút. Và sự thật mà nói, Potterville có một bản rap tệ. Ồ, chắc chắn rồi, nó chứa đầy các sòng bạc và những trò chơi rẻ tiền. Nhưng mặt khác, hãy nghĩ đến tất cả các sòng bạc và những trò chơi khăm rẻ tiền! Đó chẳng phải là điều khiến nước Mỹ vĩ đại sao?
Tuy nhiên, hãy cho tôi thấy một người đàn ông không nghẹn ngào khi chúng ta quay lại Thác Bedford, nơi George và gia đình anh ấy bị bao quanh bởi những người dân thị trấn biết hát vừa cứu anh ấy ra, và tôi sẽ cho bạn thấy một con quái vật nhẫn tâm không phù hợp với xã hội loài người. “It’s a Wonderful life” là một tác phẩm kinh điển về Giáng sinh mặc dù – hoặc, Chúa giúp chúng ta, thậm chí có thể vì – sự đồng cảm của cộng đồng.
Bạn sẽ nghĩ rằng “A Christmas Carol” (Hồn ma đêm Giáng sinh) cũng sẽ được xếp vào loại phim hay này, nhưng vấn đề với tác phẩm kinh điển của Dickens là có quá nhiều phiên bản phim cạnh tranh để bạn lựa chọn. Bản chuyển thể thẳng thắn được yêu thích nhất có lẽ là “Scrooge” năm 1951, với sự tham gia của Alastair Sim trong vai kẻ keo kiệt.
Một lần nữa, một số người thích phiên bản cổ điển năm 1938 với sự tham gia của Reginald Owen. Và ai có thể quên bản chuyển thể âm nhạc năm 1970 với sự tham gia của Albert Finney? Hay phiên bản năm 1984 với sự tham gia của George C. Scott? Hay bộ phim truyền hình năm 1999 với sự tham gia của Jean-Luc Picard? Hay phiên bản ghi hình chuyển động năm 2009 do Robert Zemeckis đạo diễn và Jim Carrey đóng vai chính không chỉ Scrooge mà còn cả những bóng ma của Giáng sinh Quá khứ, Hiện tại và Tương lai? (Trên thực tế, bạn có thể quên điều đó đi.
Nó không chỉ khủng khiếp đến mức kinh khủng như một màn hành quyết kịch tính, mà hoạt hình ghi lại chuyển động được Zemeckis sử dụng cũng nằm trong Thung lũng kỳ lạ nơi bộ phim Giáng sinh trước đó của anh ấy, “The Polar Express”, đã bị mắc kẹt. Thay vì cảm thấy đồng cảm với Tiny Tim, bạn sẽ có cảm giác ghê tởm trong tiềm thức vì anh ta trông giống như một bản sao phim hoạt hình.
Thực sự thì tôi không thực sự thích bất kỳ phim nào trong số chúng. Tuy nhiên, cuốn sách của Dickens mang đậm chất Shakespeare một cách hữu ích ở chỗ cốt lõi, cấu trúc và chính ngôn ngữ của nó đã được sử dụng cho đủ loại chuyển thể. Nhiều, có lẽ là hầu hết, trong số này đều khủng khiếp (An American Carol, Ghosts of Girlfriends Past), nhưng rồi ai cũng sẽ có được một tác phẩm kinh điển.
Cá nhân tôi yêu thích nhất là “Scrooge” của Bill Murray, bộ phim được coi là một bộ phim Giáng sinh hấp dẫn và là bài bình luận hay nhất về sự vô hồn của ngành truyền hình và những nhà điều hành hèn nhát đã điều hành nó kể từ Network.
“Scrooged” cố gắng khơi dậy lại “A Christmas Carol” theo những cách mà đôi khi rất cảm động. Cuộc phiêu lưu của Frank (Murray) với Bóng ma Giáng sinh quá khứ có thể khiến các màn khóc sướt mướt diễn ra: Khi chúng ta thấy anh ta đã mất Karen Black như thế nào và mẹ anh đã yêu anh đến nhường nào, như Bóng ma nói, “Thác Niagara, Frankie Angel. ” Những giọt nước mắt, chúng cháy bỏng!
May mắn thay cho những người đã chết về mặt cảm xúc (như tôi) không có quá nhiều khoảnh khắc như thế này, và “Scrooge” rất vui nhộn, đen tối. Việc tái hiện Jacob Marley như một kiểu Lee Iacocca thích chơi gôn, đầy sâu bọ là tuyệt vời, trong khi Bobcat Goldthwait, con khỉ bị sa thải, lảng vảng, cầm súng ngắn, say xỉn trong phòng làm tăng thêm nét hoàn hảo của sự phi lý thực tế.
Trong một trong những thủ thuật kỳ lạ của thuật giả kim theo đúng nghĩa đen. “Scrooge” lấy nguồn tư liệu tình cảm và biến nó thành một bộ phim không chỉ là một bộ phim hài mà còn là một bộ phim hay.
Nhiều bộ phim hài Giáng sinh kể từ đầu những năm 1980 đã sống trong bóng tối. Trước “Scrooged” đã có “Gremlins”, một bộ phim hài/kinh dị kể về một nhóm quái vật nhỏ bé chiếm giữ một thị trấn nhỏ sau khi một chàng trai trẻ không tuân theo các quy tắc chăm sóc chúng.
Bạn có thể không nghĩ “Gremlins” là một bộ phim Giáng sinh, nhưng hãy nhớ: Nó không chỉ diễn ra trong dịp Giáng sinh mà một phần quan trọng của bộ phim liên quan đến việc bạn gái của nhân vật chính phải đối mặt với cái chết của cha cô ấy nhiều năm trước. Trong khi anh ấy ăn mặc như ông già Noel. Và cố gắng trèo xuống ống khói.
Đen tối theo một cách khác là “The Nightmare before Christmas” (Đêm kinh hoàng trước Giáng sinh) của Tim Burton, bộ phim duy nhất phù hợp cho cả Giáng sinh và Halloween. Nó có thiết kế bối cảnh tuyệt vời và tiền đề hấp dẫn kết hợp với những giai điệu hấp dẫn. Tuy nhiên, hoạt hình dừng chuyển động không có gì giống với thể loại truyền thống hơn, và có lý do khiến “How the Grinch Stole Christmas!” (Đánh cắp Giáng sinh) của Boris Karloff đã luân phiên liên tục trong năm thập kỷ qua.
Nhưng The Grinch bị hạ cấp trong cuốn sách của tôi vì đã truyền cảm hứng cho bộ phim Giáng sinh tệ nhất trong lịch sử: bản chuyển thể live-action ( live-action là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả những tác phẩm điện ảnh, truyền hình hoặc trò chơi điện tử mà các nhân vật và cảnh quay được thực hiện bằng con người thật và cảnh vật thật, trái ngược với hoạt hình hay đồ họa máy tính) cùng tên của Jim Carrey.
Điều khá đáng chú ý là Carrey đã cố gắng đóng vai chính trong không phải một mà là hai trong số những bộ phim chuyển thể không cần thiết nhất từ những bộ phim Giáng sinh được yêu thích. Nếu bạn muốn ai đó say sưa với một tác phẩm kinh điển Giáng sinh, thì Carrey chính là chàng trai của bạn. Và bạn có thể muốn chú ý: Vì Grinch của anh ấy ra mắt vào năm 2000 và Scrooge của anh ấy đã ra mắt vào năm 2009, chúng ta sắp sửa ra mắt Bộ phim Giáng sinh Jim Carrey rác khác.
Theo như phân loại hoạt hình trong phân loại lĩnh vực nhỏ của chúng ta, theo ý kiến của tôi, đứng đầu là “A Charlie Brown Christmas” (Lễ Giáng Sinh Của Charlie Brown). Ai có thể quên cây thông Noel nhỏ bé đáng yêu cúi đầu trên đỉnh? Bộ phim kinh điển năm 1965 cũng làm được điều mà rất ít phim Giáng sinh lúc đó hoặc bây giờ dám làm: Phim có đoạn trích từ Kinh thánh và lời nhắc nhở về ý nghĩa thực sự của ngày đó.
Vì ngày 25 tháng 12 bây giờ cạnh tranh với cuối tuần ngày Bốn tháng Bảy như một ngày phát hành đình đám, tôi đoán không có gì đáng ngạc nhiên khi có rất ít phim Giáng sinh mang bản chất tôn giáo.
Nếu bạn đang cố nhồi nhét mọi người vào thánh đường IMAX 3D với âm thanh được điều chỉnh bằng tia laser và thuyết phục họ rằng bỏng ngô và Diet Coke là những vật thay thế xứng đáng cho Mình và Máu Chúa Kitô, có lẽ bạn không muốn nhắc họ về sự thật rằng chúng đang trốn tránh việc tỏ lòng thành kính với người đã chết vì tội lỗi của họ.
Bộ phim Giáng sinh duy nhất mà tôi có thể nghĩ đến trong những năm gần đây với thông điệp rõ ràng về nhà thờ là “The Nativity Story” (Câu chuyện về ngày Chúa giáng sinh) năm 2006. Đây cũng là bộ phim duy nhất ra mắt tại Vatican chứ không phải tại rạp hát Mann Chinese.
Tất cả những điều đó nhằm nói lên rằng ông già Noel ít nhiều đã thay thế Chúa Giêsu trở thành gương mặt điện ảnh của mùa. Vì vậy, bạn sẽ nghĩ rằng ông sẽ được đối xử tôn trọng hơn một chút. Bất chấp “Miracle on 34th Street” (Phép màu trên phố 34), ngày nay ông già Noel thường xuyên bị báng bổ hơn là được tôn kính. Bạn có biết có bao nhiêu bộ phim Giáng sinh kinh dị, rẻ tiền, kinh khủng không?
Trong số (nhiều) phim khác, có “Silent Night, Deadly Night” (1984), “Santa’s Slay” (2005) và “Santa Claws” (1996). Nếu tôi buộc phải chọn một “phimyêu thích”, tôi đoán tôi sẽ chọn “Santa’s Slay” (Cuộc tàn sát của Ông già Noel), không chỉ là cách chơi chữ đáng chết (bạn hiểu chứ?), nó còn có sự tham gia của cựu đô vật chuyên nghiệp Bill Goldberg trong vai một con quỷ Mr.Claus.
Việc miêu tả Ol’ Saint Nick như một kẻ sát nhân ma quỷ là một chuyện; đó là một trò đùa hay. Nhưng không có bộ phim nào trong số đó báng bổ như “Bad Santa” năm 2003. Billy Bob Thornton đóng vai một gã say rượu phá két có thói quen đi nghỉ là nhận công việc làm ông già Noel ở cửa hàng bách hóa để thâm nhập vào các trung tâm mua sắm cao cấp và kiếm tiền với một bao tải đầy quà tặng vào đêm Giáng sinh.
Tuy nhiên, ngay cả một bộ phim như thế này – gây sốc cho khán giả với cảnh kẻ gian của Thornton hóa trang thành ông già Noel và thực hiện mọi hành vi hỗn loạn – cuối cùng cũng bị biến đổi bởi ý tưởng về Giáng sinh. Theo thời gian, nhân vật dâm đãng, quỷ quyệt của Thornton học cách quan tâm đến người khác và bản thân.
Nó vô cùng hài hước và theo cách nghịch ngợm của riêng nó, vô cùng ngọt ngào. Mặc dù nó được chiếu để gây sốc, nhưng sự thật là bộ phim sẽ không thành công nếu không có Giáng sinh. Thật không may, nó đã trở thành một tác phẩm kinh điển về Giáng sinh trên truyền hình. Nhưng đó không phải là truyền hình Giáng sinh cổ điển.
Năm 1997, TNT bắt đầu chiếu đi chiếu lại một bộ phim trong 24 giờ liên tục kéo dài từ Đêm Giáng sinh đến Ngày Giáng sinh. Bộ phim này đã giành được một vị trí trong nền văn hóa, trong trái tim và trong gia đình của chúng ta như một trụ cột của mùa Giáng sinh. Tất nhiên, tôi đang nói về “A Christmas Story” (Câu chuyện Giáng sinh).
Bộ phim năm 1983 đã thành công về mặt thương mại vững chắc, nếu không có gì nổi bật, trong lần chiếu rạp đầu tiên. Nhưng hành trình tìm kiếm một khẩu súng Red Ryder BB cho dịp Giáng sinh của một kẻ lang thang tên là Ralphie đã gây được tiếng vang với mọi người trong một thời gian dài.
Một phần, điều này là do Ralphie cố gắng điều hướng những nỗi phẫn nộ hàng ngày thời thơ ấu mà hầu hết chúng ta đều nhớ đến, nếu không phải là sự yêu thích thì cũng là một số tình cảm: hương vị của xà phòng sau một khoảng đất khôn ngoan thiếu sáng suốt; mối đe dọa luôn rình rập của những kẻ bắt nạt đang rình mò; niềm khao khát mãnh liệt, đầy xúc cảm được sở hữu một vũ khí tinh tế, nam tính đã bị thất vọng – hết lần này đến lần khác.
Sự nổi tiếng lâu dài của bộ phim nói lên khả năng của người viết truyện ký và biên kịch Jean Shepherd trong việc nắm bắt một kiểu Giáng sinh Mỹ lý tưởng hóa, tạo ra một cái bóng hài hước cho tất cả các trang bị thế tục của mùa này. Ai mà không nhớ mình đã từng đi đến một khu đất râm mát đầy rẫy những kẻ bán hàng rong đang tìm cách để cầm cố những cây thông đã thưa, chỉ còn màu nâu nhạt?
Hoặc đếm ngược từng ngày cho đến khi món ngỗng Giáng sinh (hoặc giăm bông hoặc thịt quay) nấu tại nhà đã sẵn sàng để ăn? Hay mặc một bộ quần áo lố bịch do người thân gửi đến, chụp một bức ảnh của mình trong bộ trang phục rồi cất vào tủ, không bao giờ nhìn thấy nữa? Và ẩn giấu bên dưới tất cả là bóng ma ngày càng lờ mờ về sự dư thừa và sự ngớ ngẩn của người tiêu dùng, được thể hiện bằng đống giấy đã qua sử dụng và đồ trang trí dưới gốc cây mà em trai của Ralphie đang ngủ gật, món đồ chơi mới ôm chặt bên hông.
Theo một cách nào đó, toàn bộ sự tự phụ trong “Câu chuyện Giáng sinh 24 giờ” của TNT chỉ là một biểu hiện khác của chủ nghĩa thương mại thô bỉ đó. Nhưng đó là một điều hoàn toàn được hoan nghênh, theo như tôi nghĩ. Bởi vì truyền thống hàng năm này đã tạo ra một nghi lễ gia đình và tấm bia tiêu biểu kéo dài qua nhiều thế hệ.
Điều khiến Câu chuyện Giáng sinh trở thành bộ phim Giáng sinh tinh túy không chỉ nằm ở bản thân bộ phim. Đó là cách bộ phim được truyền tải đến chúng ta – điều đã biến nó thành một truyền thống.
Sẽ không thành vấn đề nếu bạn đang xem “It’s a Wonderful Life” hay “Scrooged” hay “A Christmas story”. Điều quan trọng là bạn có xem nó cùng gia đình mình năm này qua năm khác hay không. Khi các bạn lớn lên cùng nhau. Khi các bạn già đi cùng nhau.
Vì vậy, đừng lo lắng về việc bộ phim Giáng sinh nào là “hay nhất”. Chỉ cần chọn một – không thiếu để lựa chọn – và bắt đầu một truyền thống. Và phim hay nhất sẽ là phim của bạn.
3.
Xóm vắng
(2)
Giặt xong chậu quần áo nàng cảm thấy mắt mình díp lại. Cơn buồn ngủ bỗng ập đến đúng lúc nàng mong chờ nó nhất. Xuân, cái tên mà mẹ đã đặt cho nàng vì nàng được sinh ra vào một buổi sáng mùa xuân mát mẻ , luôn thèm ngủ.
Ngủ, không phải để có những giấc mơ đẹp. Nàng ít khi mơ, và những người như thế thường được cho là vì họ có giấc ngủ sâu đủ để đảm bảo tái tạo lại sức lao động vào ngày hôm sau. Cũng có thể thế thật, vì từ nhỏ sức khỏe nàng đã rất tốt, ít khi ốm vặt, dai sức và có thể làm việc với cường độ cao.
Cũng có đôi khi nàng tự hỏi, giá kể mà nàng thuộc tuýp ngủ mơ thì có gì chứa đựng, điều gì mà nàng mong ước nhất trong những giấc mơ ấy. Một chàng bạch mã hoàng tử chăng ? Chắc chắn là không. Nàng không thuộc tuýp người mơ mộng hão huyền. Nàng biết mình là ai, vị trí của mình ở đâu và cái gì phù hợp với mình.
Gia đình nàng quá nghèo, bố mẹ nàng đều không được ăn học đến nơi đến chốn. Họ lại không đủ cái nhanh nhạy, khôn ngoan cần thiết để có thể làm giàu từ kinh doanh buôn bán ngoài xã hội. Họ chỉ đủ năng lực đem bán sức lao động thuần cơ bắp để kiếm sống.
Họ không có chút tài sản thừa kế nào từ cha mẹ nhưng lại đông vui về đường con cái. Nhà Xuân có năm chị em cả thảy. Việc sinh nở năm đứa trẻ chỉ trong vòng có tám năm đã rút đi phần lớn sinh lực của người đàn bà vốn luôn xanh xao ốm yếu là mẹ nàng. Bà không còn khả năng lao động nặng nhọc nữa mà chỉ loanh quanh những việc nhẹ nhàng gần nhà. Đã nhiều năm, mọi gánh nặng kinh tế đều đổ lên đôi vai gày guộc của cha nàng khiến ông trông già hơn hẳn so với tuổi thật của mình.
Suốt thời thơ ấu, điều nàng nhớ nhất là những lần chạy đi mua thuốc cho mẹ ở nhà ông y sĩ đã nghỉ hưu trong làng. Ông ta có một cửa hàng thuốc tây rất to và bà vợ là người đứng bán. Không hiểu sao, dù những lúc như thế thật tình mà nói một đứa trẻ như nàng trong lòng còn đang bấn loạn vì lo lắng cho bệnh tình của mẹ, thì nàng vẫn không sao xua được cảm giác thích thú nhìn những viên thuốc tròn tròn được dốc ra từ cái hộp nhựa, chúng rơi đánh keng xuống một cái khay inox nhỏ sáng bóng rồi trôi tuột vào cái bịch túi nilong xinh xinh.
Mùi thuốc ngai ngái cộng với cái không khí sạch sẽ trong cửa hàng khiến nàng càng ngày càng nuôi ước mơ trở thành một người bán thuốc. Có lẽ chính nàng cũng không biết rằng có thể nguyên nhân một phần cũng là do trong những viên thuốc bé nhỏ kia chứa đựng cả những niềm hy vọng rất lớn về việ chữa trị bệnh tật của những người đi mua chúng. Như nàng.
Để sở hữu một tiệm thuốc như thế nàng phải có bằng Dược. Thế nhưng hai lần nàng đâm đơn vào trường Dược thì cả hai lần nàng đều trượt. Số điểm còn cách quá xa so với điểm chuẩn đủ để nàng hiểu rằng ước mơ của nàng quá xa vời. Tựa như ngôi sao xa tít tắp trên bầu trời quang mây đêm tháng Tám, không bao giờ nàng có thể chạm đến được.
Thế nên nàng quyết định đăng ký học cao đẳng ngành dệt may của một trường ở địa phương, vừa học vừa làm, ai thuê gì làm nấy miễn sao có tiền trang trải việc học. Dù không khỏi hoang mang khi nghe người ta nói giờ bằng đại học chính quy tốt nghiệp ra trường còn thất nghiệp đầy ra, thì với cái bằng nghề của nàng sao mà cạnh tranh nổi.
Quả thật không sai, mấy năm ăn học của nàng dù đã tằn tiện lắm vẫn đủ để tóc của cha nàng bạc thêm nhiều, mà rốt cuộc nàng vẫn không sao xin được việc dù đã gõ cửa khắp nơi. Trong lúc chán nản đến tuyệt vọng, nàng được một chị gái cùng quê giới thiệu ra thành phố làm công nhân cho một hãng giầy của Hàn Quốc. Không một chút do dự, nàng đi ngay, tấm bằng cao đẳng như một vật kỉ niệm được cất giữ trong ngăn cái tủ đứng xập xệ nơi góc phòng của mấy chị em nàng ở nhà.
Năm năm đã trôi qua với biết bao nhiêu biến động, giờ đây nàng lại thầm cảm ơn cái sự ít có những giấc mơ trong giấc ngủ của mình. Nàng chỉ muốn đặt lưng xuống là ngủ ngay, một giấc thật say, để khi mở mắt ra đã là một ngày mai với những ánh bình minh tươi sáng.
Nhưng giờ thì vẫn đang là buổi tối. Âm thanh ngoài sân cho nàng biết đã đến giờ mọi người đi làm về. Tiếng phanh kít của xe đạp, tiếng tắt ga xe máy, tiếng cút kít, lạch cạch của những chiếc xe đẩy hàng khiến Xóm Vắng trở nên sống động hơn hẳn. Với nhiều người trong xóm trọ này, tươi vui nhất là lúc này đây, khi mọi người kết thúc một ngày làm việc và cùng trở về nhà đoàn tụ với mọi người trong gia đình.
Nàng đặt cái chậu nhựa chứa vài bộ quần áo xuống hè và đi tìm cái sào tre để móc chúng lên dây phơi dưới mái hiên. Chợt nàng nhớ ra hôm kia cái Vân, người sống ở phòng cuối dãy trọ, đã sang mượn nàng. Ngó xuống nhà Vân thấy cửa sổ mở, nàng lững thững đi xuống.
Vân kém nàng đến chục tuổi. Nó mới mười lăm nhưng trông nhỏ bé chẳng khác gì một đứa trẻ lên mười. Da nó ngăm đen, mái tóc xoăn tít lại loe hoe vẻ của một đứa trẻ dầm mưa dãi nắng. Chân tay nó chắc nịch kiểu của người quen lao động từ nhỏ. Nhà Vân có đến bảy anh chị em. Nó là con út trong bốn đứa con của người vợ đầu của cha nó. Mẹ nó đã chết sau khi sinh nó do hậu sản. Cha nó đi bước nữa ngay sau đó không lâu và người vợ thứ hai của ông sinh thêm ba đứa trẻ.
Công việc ở nhà của Vân chẳng khác gì một vú em, từ nhỏ nó đã phải lãnh nhiệm vụ trông coi, bế ẵm ba đứa em của nó. Vân xác định chỉ học hết cấp hai nhưng đến lớp bảy thì nghỉ ngang. Đi học hay nghỉ học thì đâu có quan trọng gì. Không ai trong nhà, ngay cả cha nó, quan tâm đến chuyện học hành của con cái cả. Ngày có đủ ba bữa cơm cho từng ấy con người đã là may mắn lắm rồi.
Ba chị của Vân đều rời nhà ra đi làm công nhân ở thành phố khi họ đủ mười lăm tuổi. Đến lượt Vân cũng thế. Ngày Vân được thoát ra khỏi nhà, nó mừng như chưa bao giờ mừng vui đến thế. Đã bao lâu rồi lúc nào nó cũng chỉ mong nó lớn mau để được đi làm như các chị, để không phải trông em và tránh những lời nhiếc móc lúc nóng giận của người mẹ kế. Với những đứa trẻ ở vào hoàn cảnh như Vân, dẫu có phải sống trong những căn nhà trọ tăm tối xập xệ, thì chúng vẫn xem như mình đang được ở chốn thiên đường.
Thế nhưng, đêm đầu tiên được ngủ cùng với các chị ở một nơi hoàn toàn xa lạ, chẳng hiểu sao Vân lại khóc như mưa. Nó thấy nhớ da diết những khuôn mặt ngây thơ của những đứa em của nó ở nhà!
Nàng ngó vào phòng Vân qua khung cửa. Vân đang bế đứa cháu nhỏ, con của chị gái nó. Đứa nhóc sáu tháng tuổi mếu máo không chịu ngậm bình sữa. Dì nó càng cố gắng đưa cái núm bình vào miệng thì nó lại càng cố gắng đẩy ra
-Phương chưa đi làm về hả Vân?
Nàng bỏ dép bước vào phòng và nhỏ nhẹ hỏi con bé
-Chị Xuân à? Chưa chị ạ. Bình thường đáng lẽ giờ này chị ấy đã về rồi mà sao hôm nay muộn thế không biết
Vân vào thành phố đi làm thợ may cho một xưởng may tư nhân được hai tháng thì nghỉ ở nhà trông con gái cho chị đầu của nó. Thế là dù ở đâu, thì vú em lại hoàn vú em. Cái Phương cũng rất thương đứa em chịu nhiều thiệt thòi nhưng không còn cách nào khác, con nó còn quá nhỏ, không thể đem đi gửi được mà công việc của nó đã ổn định rồi, mức lương đủ để nuôi Vân và cho con bé mỗi tháng một ít tiền. Nó không thể đánh mất việc để ở nhà trông con. Vân được chị động viên, cố gắng ở nhà thêm vài tháng nữa cho đến khi đứa bé cứng cáp hơn thì chị nó sẽ gửi con cho một nhà trẻ tư. Lúc đó con bé có thể đi làm như ý muốn
-Em bé có vẻ chưa quen với sữa bột rồi
-Chị Phương đang cho cháu tập uống sữa ngoài vì chị ít sữa lắm nhưng con bé không thích sữa bột chị ạ
Vân nói xong thì đặt cái bình sữa lên mặt chiếc bàn gỗ nhỏ để ngay đầu giường. Đứa bé khóc ré lên không biết vì đói hay vì gắt ngủ. Căn phòng bé tí tẹo lại càng như hẹp lại
-Vân đưa chị bế em cho
Nàng tiến lại gần Vân và đỡ đứa nhỏ đang ngặt nghẽo khóc từ tay cô bé. Thân hình nóng hổi của đứa trẻ bỗng sưởi ấm trái tim của một người mẹ. Nàng tưởng như đang bế chính đứa con của mình.
Bản năng người mẹ trỗi dậy. Đã nhiều ngày nàng phải xa con thơ, nỗi nhớ bỗng ập đến và một cách vô thức nàng lật vạt áo và đưa đứa nhỏ gần hơn vào ngực mình.
Dòng sữa ngọt ngào dần đưa nó vào giấc ngủ, mắt nó nhắm lại sau khi đã có một bữa tối ngon lành.