Con đi học về kể chuyện bạn cùng bàn nói vui nếu giờ này bạn học trường ở xa hơn thì có lẽ bạn đã có dịp ngắm …bò gặm cỏ. Ồ, tuyệt đấy chứ! Ở giữa thành phố chật chội, bí bách và ồn ào thế này mà vẫn có không gian cho những chú bò nhẩn nha thì còn gì bằng.
Kể mà trong không gian ấy, có chỗ cho một gốc sồi cổ thụ râm mát thì ta có thể nằm dài lim dim với quyển sách, vừa thả hồn với trời trăng mây gió vừa ngắm sáo diều trên trời hay …bò dưới đất :)). Thơ mộng đến nỗi có thể “Cuốn theo chiều gió” luôn :)).
Bạn đừng tưởng mình nói vui, mình thật lòng rằng nếu bạn có một tâm hồn văn chương thì bốn bức tường máy lạnh ngột ngạt trong trung tâm đô thị sẽ triệt tiêu đi một nửa niềm cảm hứng sáng tác của bạn. Trái lại, khung cảnh thiên nhiên khoáng đạt, rộng mở sẽ nhân đôi sự tò mò khám phá. I.Newton mà ngồi dưới chiếc Daikin, chứ không phải là dưới gốc táo sum suê trĩu trịt ở một mảnh vườn đồng quê nước Anh đẹp mê hồn nào đó, thì cụ sẽ không bao giờ bật ra được cái Định luật để đời.
Lũ học sinh quỷ ma con cháu cụ có thể vui vì đã bớt được một chương vật lý cơ bản :))), chứ các nhà khoa học kế cận thì khóc ra tiếng mán luôn, kiếm đâu ra ngừoi có đủ trình như cụ để tạo ra cái gọi là …hấp dẫn :))). Đến mấy trăm năm sau mới tòi ra được một người xứng tầm đẳng cấp Newton thì cụ này chỉ mải mê với trăng sao trên trời:))
Sự thanh bình, yên ả của chốn đồng quê hay nói rộng ra, nền hoà bình của quê hương đất nước luôn là một trong những điều có ý nghĩa nhất đối với mỗi người, bất kể màu da, sắc tộc hay tôn giáo
Vì, Chiến tranh – chỉ hai từ thôi cũng đủ gợi lên một điều gì đó khủng khiếp nhất trong đời sống con người. Nó gắn liền với chết chóc, tàn bạo, hoảng loạn, đói khổ, chia ly…. Nó ảm ảnh cả những người lính nơi tiền tuyến và những người thân của họ nơi hậu phương.
Chừng nào mà con người vẫn đam mê tìm kiếm sự thoả mãn lợi ích cá nhân, vẫn nuôi dưỡng trong mình sự hận thù (đôi khi khó có thể lý giải một cách thấu đáo rằng tại sao chỉ vì những mâu thuẫn ngớ ngẩn, cỏn con như thế mà lại thành ra những kẻ thù truyền kiếp), vẫn muốn chứng tỏ sự thượng đẳng của dân tộc mình với sắc tộc khác thì chừng đó chiến tranh chưa thể chấm dứt.
Nhà vật lý A. Einstein đã từng phải thốt lên : ‘Tôi không biết Thế chiến thứ ba sẽ diễn ra bằng vũ khí gì, nhưng Thế chiến thứ tư sẽ diễn ra bằng gậy và đá.” Tức nếu con người vẫn còn hăng máu với nhau thì số phận của họ sẽ sớm kết thúc, đưa họ quay ngược trở lại thời tiền sử, nơi những thành tựu hiện đại hoàn toàn bị xoá sổ: Chỉ còn lại “gậy gộc” và “sỏi đá”. Con người sẽ trở về Thời kỳ đồ đá, y như ông lão đánh cá, sau tất cả, chỉ còn lại cái máng lợn bên mình.
Nghịch lý thay, chiến tranh, một mặt thể hiện những thứ xấu xí nhất về bản chất của loài người, mặt khác, lại đem cho họ những mảng màu đối lập hoàn toàn khác, những khía cạnh không được nhìn thấy một cách trọn vẹn ở thời bình. Bạn có ngạc nhiên không khi ở thập niên 40, nhiều người Mỹ đã thốt lên, một cách rất thật lòng, rằng “Tôi yêu chiến tranh”.
Với các thế hệ sinh ra trong thời bình, chưa từng trải qua cuộc sống dưới làn bom đạn, thì có lẽ sẽ hiểu câu nói trên với một ý khác. Sự thấm thía sâu sắc hơn sẽ thuộc về lớp người đã đi qua những trải nghiệm chiến tranh trong cuộc đời. Ở đó, họ nhìn thấy, trong gian nguy, con người như khác hẳn. Họ sẽ xích lại gần nhau, che chở cho nhau và đoàn kết với nhau hơn.
Chiến tranh là thứ sẽ đảo lộn mọi thời gian biểu thông thường, khiến người dân không thể yên ổn cho các hoạt động bình thường nhất. Nay họ phải trú ẩn chỗ này, mai có khi phải lại loạn sang nơi khác. Sự canh tranh ư? Hơn thua ư? Chúng là vô nghĩa, khi cái chết luôn lơ lửng trên đầu,
Chiến tranh làm cho con người trong một cộng đồng chả có gì để mà kèn cựa, ganh ghét nhau. Và oái oăm thay, chính lúc đó thì mỗi thành viên trong cộng đồng đó lại trở nên vô tư hồn nhiên hẳn, và ngây thơ, hơn bao giờ hết. Họ hừng hực khí thế tự nguyện cống hiến, đóng góp sức người sức của cho tổ chức của họ, với ước vọng chung là giành chiến thắng. Địa vị, bằng cấp, giàu nghèo chẳng còn là cái gì quá quan trọng nữa.
Khi xung quanh mình là những toà nhà đổ nát, hay xác chết đầy đường thì vàng bạc kim cương dầu có như núi phỏng có ích gì?
Đó có lẽ là ánh sáng dịu mát duy nhất mà các cuộc chiến đem lại cho con người, trong màn đêm nóng nực tăm tối. Như tác giả Kaledin Eugenia đã viết “Đó là lần cuối cùng hầu hết người Mỹ nghĩ rằng họ ngây thơ và tốt bụng mà không cần chứng chỉ”, rằng “cả thế giới dường như đều điên cuồng vì yêu chiến tranh.”
“THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC NHƯNG EM THÍCH CỦA CẢI HƠN!”
(A Walk in the Clouds)
Daily life in the United States, 1940-1959
By Kaledin, Eugenia
3.
Trong thời kỳ suy thoái, nhiều người đã học cách đóng hộp rau cũng như nấu rượu. Những người có vai vế ở một vùng ngoại ô giàu có thường lấy một phích rượu martini để uống khi họ đào khu vườn chiến thắng của mình, nhưng họ đã trồng được rau và chia sẻ sản phẩm của mình với bất kỳ ai cần. Sách dạy nấu ăn đặc biệt được ra mắt để dạy các bà nội trợ chuẩn bị những bữa ăn tiết kiệm tiền. Món súp trở nên phổ biến và mọi người học cách thưởng thức thạch.
Sổ khẩu phần tem phiếu thực phẩm được cấp cho từng cá nhân cho phép các gia đình mua một lượng thịt và đường nhất định. Vì quy mô gia đình quyết định số lượng nên ít người phàn nàn về việc không nhận được phần của mình. Việc phân phối xăng thường xuyên gây ra các cuộc biểu tình, nhưng ô tô vẫn là một thứ xa xỉ và những chiếc ô tô dùng để kinh doanh sẽ ngốn nhiều nhiên liệu hơn.
Đối với nhiều công nhân đang trong tình trạng “cứu trợ” – như cách gọi phúc lợi vào những năm 30 – việc thoát khỏi sự hỗ trợ của chính phủ để làm những công việc mang lại cảm giác có mục đích giúp giành chiến thắng trong chiến tranh đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Các hoạt động thời chiến sử dụng tất cả các loại kỹ năng thông thường cùng với các kỹ thuật sản xuất mới.
Một bài báo của một thiếu niên trên tờ Chine Press năm 1942 mô tả những người Mỹ gốc Hoa ở San Francisco tham gia các khóa học sơ cứu, làm việc trong xưởng đóng tàu, thu thập lon và giấy thiếc, và học cách phòng thủ dân sự – chính xác là những gì người dân ở Trung Tây và miền Đông đang làm.
Trong những năm 1930, nhiều phụ nữ thuộc tầng lớp trung lưu đã tự may quần áo cho mình, mạng lại những lỗ thủng các đôi vớ của gia đình họ, lật lại cổ áo đã sờn của những chiếc áo sơ mi và nhận giặt đồ cho người khác. Một số kỹ năng nấu nướng và nướng bánh được trao đổi để lấy thức ăn thừa từ các trang trại hoặc cửa hàng tạp hóa địa phương.
Và nhiều người đàn ông đã tận dụng kiến thức về nghề mộc của mình và thích thú với thử thách sửa những “máy móc” mới, tên thường gọi là ô tô. Những ngôi nhà và xe ngựa, vẫn được sử dụng để vận chuyển bánh mì, sữa và nước đá trong những năm 30, dần dần biến mất. “Hãy tạo ra những thứ bạn cần – không mua” là điều phổ biến trong thời kỳ này khi mọi người có ít tiền mặt và hầu hết đều tin rằng lãng phí sẽ tạo ra sự thiếu thốn.
Bởi vì dù sao thì tất cả năng lượng sản xuất đều được dùng vào các mặt hàng quân sự nên người ta không tìm thấy nhiều thứ để mua. Phải sau chiến tranh, khi “không lãng phí, không muốn” chuyển thành “lãng phí hoặc bạn sẽ muốn” thì người Mỹ mới biến chủ nghĩa tiêu dùng thành một phong cách sống.
Khi chiến tranh tạo ra số lượng lớn công việc quốc phòng, trẻ em tầng lớp trung lưu cảm thấy tự hào khi có thể kiếm thêm tiền bằng cách giao báo, trông trẻ hoặc cắt cỏ – nhận những công việc dịch vụ không còn do người lớn làm, những người đang kiếm được nhiều tiền hơn trong các nhà máy phục vụ cho chiến tranh.
Trong thời gian này, thanh thiếu niên bắt đầu tự nhận mình là người lớn hữu ích và tạo ra một nền văn hóa thanh thiếu niên. Bít tất ngắn (bobby sox) và giày saddle– thoải mái để nhảy jitterbugging và đi bộ vào thời điểm không có tất lụa và vài chiếc xe hơi đổ đầy xăng – khiến giới trẻ dễ dàng nhận ra. (Nylon – khá hoàn hảo – đã được sử dụng làm dù.)
Âm nhạc chuyên biệt của những năm chiến tranh đã trở nên phổ biến để khiêu vũ trên đĩa 78 vòng/phút ngay cả khi các thủ lĩnh của “các ban nhạc lớn” – như Tommy Dorsey, Benny Goodman và Glenn Miller – đều mặc quân phục hoặc trong đoàn văn nghệ quân đội.
Thanh thiếu niên thuộc tầng lớp trung lưu thường tổ chức các buổi khiêu vũ cuối tuần với đĩa hát ở các nhà hàng xóm cũng như trong các phòng tập thể dục của trường trung học. Một số thị trấn ven biển ban hành lệnh giới nghiêm. Mặc dù không phải cộng đồng nào cũng bị “mất điện” hoàn toàn, nhưng việc đi bộ vào ban đêm trên những con phố có ánh đèn mờ là điều không khôn ngoan.
Những học sinh trung học lớn hơn, bắt chước nhiều ngôi sao điện ảnh và quân nhân, có thể hút một hoặc hai điếu thuốc trong những bữa tiệc thu âm như vậy. Thường thì cha mẹ họ đồng ý cho họ hút thuốc, nhưng uống rượu và ma túy không phải là mốt. Nước giải khát và rượu táo không cồn chiếm ưu thế. Khoai tây chiên, bánh quy xoắn và bỏng ngô là những đồ ăn vặt duy nhất hiện có.
Mọi người có thể hát theo những bài hát yêu thích thời chiến như “Đừng ngồi dưới gốc Táo với bất kỳ ai khác ngoài Anh”, và bài hát giật gân của chị em nhà Andrew “Boogie Woogie Bugle Boy from Company B.” “Rosie Riveter” đã trở thành một trò chơi đu dây đặc biệt được yêu thích ở sân nhà. Những người trẻ – bản thân thường cô đơn ở nhà – thích thú với nỗi khao khát trong những ca khúc buồn chia ly như “Tôi sẽ bước đi một mình” và “Đêm thứ bảy là đêm cô đơn nhất trong tuần”.
Nếu họ đi hẹn hò xem phim – thường là hai cuộc hẹn hò chung đôi – đôi khi sau đó họ tự thưởng cho mình những ly soda kem và bánh mì kẹp thịt 20 xu. Phim về chiến tranh chiếu khắp nơi. “Ba mươi giây vượt qua Tokyo” (1944), “Nhật ký Guadalcanal “(1943) và “Dạo bước dưới ánh Mặt trời” (1945) là những ví dụ về loại hình giải trí cho phép khán giả – già và trẻ – giả vờ như họ đang tham gia vào các phiên bản trải nghiệm quân sự khác nhau của Hollywood.
Trước chiến tranh, nhiều người đã hiểu về cuộc suy thoái từ một tác phẩm văn học lâu đời, The Grapes of Wrath (1939) của John Steinbeck. Miêu tả hành trình đau thương về phía Tây của những người nông dân Oklahome bị mất đất vì bão bụi, phiên bản điện ảnh những năm 1940 với tên gọi “Thiên truyện của những người di cư” với sự tôn trọng năng lực thích ứng để tồn tại của con người. Một số người Mỹ đã sống sót sau những thử thách khốc liệt không chỉ vì chính sách nhà ở của chính phủ mà còn vì mức lương đủ sống mà hợp đồng phục vụ chiến tranh năm 1940 bắt đầu tạo ra.
Các cuộc phỏng vấn của Studs Terkel với các nữ công nhân phục vụ chiến tranh đặc biệt cảm động. Đối với nhiều phụ nữ, chiến tranh mang lại cơ hội đầu tiên để kiếm tiền bên ngoài gia đình.
Một người phụ nữ nhớ lại một người khác nói rằng cô ấy hy vọng chiến tranh sẽ kéo dài cho đến khi cô ấy nhận được tiền trả cho chiếc tủ lạnh của mình. Mua theo hình thức trả góp đã trở thành một lựa chọn dành cho những người làm việc toàn thời gian. Một người khác nhớ lại cảm giác phấn khích khi rời ngôi nhà ở vùng hẻo lánh Kentucky của mình vào năm 18 tuổi để đến làm việc ở Chicago.
Cô ấy thích gặp “tất cả những người Ba Lan tuyệt vời [sic]… những người đầu tiên tôi từng biết không hề giống tôi chút nào. Một thế giới hoàn toàn mới vừa mở ra. Tiếp xúc với hóa chất tetryl khiến con người có màu cam trong quá trình tham gia chiến tranh, Peggy Terry lúc đó rất biết ơn vì được tìm hiểu thêm về nhân quyền.
Cô nhận ra rằng chiến tranh “đã dạy mọi người kỳ vọng nhiều hơn những gì họ có trước đây” – không chỉ về mặt tài chính mà còn về mặt tinh thần. Tuy nhiên, khác xa với việc lãng mạn hóa trải nghiệm này, cô nhận ra rằng chồng cô – một người lính nhảy dù ở tuổi 19 – đã phải chịu đựng suốt cuộc đời mình nỗi đau tinh thần do “mệt mỏi vì chiến đấu”. Cô nói, chiến tranh đã “nhấn chìm anh ấy” và khiến cô mất niềm tin.
Từ góc độ thống kê, khó có thể khái quát rằng chiến tranh đã làm cho cuộc sống của người dân tốt hơn. Văn bản quan trọng của Susan Hartmann về phụ nữ trong thời kỳ này, “The Home Front and Beyond: American Women in the 1940, sử dụng nhiều con số chính xác để làm rõ cuộc sống của phụ nữ phức tạp hơn nhiều so với những gợi ý ký ức mang tính giai thoại.
Chắc chắn là có nhiều phụ nữ hơn đang làm việc ở thời điểm đó. 16 triệu nam giới nhập ngũ – bao gồm cả những ông bố trẻ sau năm 1943 – đã để lại thêm nhiều phụ nữ ở các vị trí trách nhiệm và quyền lực ở cả nơi làm việc và gia đình. Thu nhập chung của tất cả mọi người đều tăng từ 754 đô la một năm vào năm 1940 lên 1.289 đô la vào năm 1944, vào thời điểm đó số người sống dưới mức nghèo giảm từ hơn 50% xuống chỉ còn hơn 33%.
Đến năm 1945, khi nữ công nhân đã chiếm 50% lực lượng lao động thì 3/4 cũng đã kết hôn. Các biện pháp trừng phạt xã hội đối với phụ nữ đã kết hôn đi làm – mạnh mẽ trong thời kỳ Suy thoái – đã được nới lỏng vì phụ nữ không còn được coi là đảm nhận công việc lâu dài. Trong các nhà máy, số lượng lao động nữ tăng 460%.
Và phụ nữ được chấp nhận làm công nhân trong những lĩnh vực gần gũi với họ: âm nhạc, thể thao, khoa học và giảng dạy đại học. Khả năng kiếm tiền của họ tăng lên không chỉ vì công việc thời chiến được trả lương cao hơn công việc phục vụ mà còn vì họ được tiếp cận với những nghề vốn luôn trả lương cho nam giới nhiều hơn.
Những phụ nữ thuộc tầng lớp trung lưu làm tình nguyện viên cho Hội Chữ thập đỏ của Văn phòng Phòng vệ Dân sự hoặc làm trợ lý điều dưỡng trong bệnh viện cũng phát triển cảm giác tự hào về những khả năng mới được tìm thấy bên ngoài gia đình.
Hệ thống pháp luật tương tự đã tạo ra đạo luật nhằm ngăn cản phụ nữ đã kết hôn cạnh tranh với nam giới trong một số công việc nhất định trong chính phủ và bổ nhiệm giảng dạy trong thời kỳ Suy thoái, thậm chí còn đề cập đến ý tưởng bảo vệ phụ nữ khỏi sự phân biệt đối xử trong việc làm trong chiến tranh.
Lần đầu tiên Quốc hội xem xét nghiêm túc dự luật trả lương bình đẳng và sửa đổi Hiến pháp về quyền bình đẳng như một sự thừa nhận đóng góp của phụ nữ cho cuộc chiến. Những khoảnh khắc trân trọng như vậy – tất cả đều nhanh chóng phai mờ – dù sao cũng là sự thật.
Để để lại ấn tượng rằng Thế chiến thứ hai đã nâng tầm phụ nữ hoặc nâng cao địa vị xã hội của họ sẽ bỏ qua những con số phải chịu những tổn thất khủng khiếp. Không chỉ nhiều phụ nữ bị tổn thương tinh thần vĩnh viễn trước cái chết của các thành viên trong gia đình – anh em và con trai – mà nhiều cô dâu trẻ sau đó cũng nhận thấy mình phải gánh trách nhiệm chăm sóc những gia đình không có cha.
Trong số 671.000 binh sĩ bị thương trở về, nhiều người đã kết hôn trong trạng thái hưng phấn thời chiến. Những cô dâu trẻ mới của họ có ít kinh nghiệm về những hy sinh liên quan đến việc đối phó với những khuyết tật thể chất trầm trọng hoặc “sự mệt mỏi vì chiến đấu” (sau này gọi là hội chứng căng thẳng sau chấn thương).
Không có phần nào của lịch sử bị bỏ qua nhiều hơn câu chuyện về những người vợ của các cựu chiến binh – có lẽ bởi vì các nhà sử học quân sự và các nhà lập pháp thậm chí rất khó nhìn thấy những người phụ nữ như vậy. Quân đoàn nữ và y tá quân đội vẫn thực tế hơn vì quyền lực chuyên môn rõ ràng hơn của họ.
Lịch sử tương lai xem xét cuộc sống của người Mỹ ngoài các khía cạnh quân sự và chính trị có thể mở rộng những câu hỏi mà mọi người đặt ra về những lựa chọn trong cuộc sống của họ. Những câu chuyện về những phụ nữ trẻ đồng thời chấp nhận những huyền thoại về nghĩa vụ yêu nước và gia đình đang bắt đầu xuất hiện trong lịch sử truyền miệng như những câu chuyện mà Studs Terkel đã sưu tầm.
Và các cuộc phỏng vấn cá nhân đã bổ sung nhiều vào lịch sử người Mỹ gốc Á, “Những Người lạ đến từ một bờ biển khác” của Ronald Takaki, khiến người đọc nhận thức được những quan điểm văn hóa khác nhau cũng làm phong phú thêm kiến thức ngoài những con số thống kê.
Đọc đến đoạn này, đoạn nói về đời sống xã hội Mỹ thập niên 40, lại cho mình nhiều cảm xúc về sự liên tưởng. Mình nhớ đến bộ phim tuyệt đẹp “The Notebook” cũng có bối cảnh lịch sử ở những năm tháng diễn ra thế chiến thứ hai này. Nếu như ở ngoài mặt trận, Paul, người lính của “Dạo bước trên mây” mỗi ngày đều viết thư cho bạn gái thì Noah của “Nhật ký tính yêu” cũng có đến 365 bức trong một năm gởi Allie. Anh chỉ ngừng viết vì không hề nhận được sự phản hồi nào từ Allie, trước khi gia nhập quân đội.
Chiến tranh dù khốc liệt tàn bạo đến đâu cũng không bao giờ hoàn toàn duỷ diệt được những ước vọng và nhiệt thành tuổi trẻ. Bom đạn có thể giết chết người lính về mặt thể xác, nhưng tâm hồn họ, trái tim họ không bao giờ ngưng đập. Những nhịp đập tình yêu tuổi trẻ.
Khi đọc “Mãi mãi tuổi hai mươi” chúng ta không chỉ thấy một Nguyễn Văn Thạc can trường, dũng cảm nơi chiến trường khói lửa mà còn nhận ra một người lính – sinh viên hết sức lãng mạn, tràn đầy lòng yêu đời và yêu người.
Trên nẻo đường ra trận, cái mà người lính ấy luôn mang theo bên mình là hình ảnh và những kỷ niệm về cô bạn gái Hà Nội, của những ngày dưới mải trường nơi quê nhà Thủ đô. Thật ra, nói một cách công bằng, trong nhiều trường hợp, cái giữ cho con người- đặc biệt là con người trẻ có động lực sống, học tập hay vượt qua nghích cảnh không phải là những thứ to tát mà những người thuộc thế hệ già cứ hay rao giảng cho họ, nào là tình yêu quê hương, tình yêu Tổ quốc hay thậm chí cả tình mẫu tử phụ tử.
Không hoàn toàn như vậy đâu. Có những khi, Tình yêu nam nữ tuổi trẻ mới chính là thứ có sức mạnh tinh thần lớn nhất, thứ cho những người trẻ niềm hy vọng lớn lao nhất về một tương lai tốt đẹp đang chờ đợi họ ở phía trước, miễn là họ cố gằng vượt qua khó khăn ở thời điểm hiện tại.
Chính những thứ lãng mạn đẹp đẽ ấy mới là chất xúc tác cứu vớt tinh thần của những người lính trẻ, giúp họ vững vàng hơn trước những thử thách tàn khốc của mỗi trận đánh. Mới giúp họ nhận ra họ đang “trẻ”, đang ở vào giai đoạn đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Và vì vậy họ mới có đủ dũng khí và niềm lạc quan để băng qua mưa bom lửa đạn, cho một ngày mai không xa bình yên trở về quê nhà.
Giống như mỗi trang viết của “Mãi mãi tuổi hai mươi” đều thấm đẫm những hình ảnh đẹp đẽ ấy, dù cho người lính Nguyễn Văn Thạc đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường ở tuổi hai mươi.
Nhưng, chắc chắn, anh vẫn sống mãi trong trái tim của người bạn gái, người mà mỗi bước chân, mỗi chặng đường hành quân, mỗi dòng chữ trong cuốn sổ nhỏ anh đều gửi gắm vào đó cả tình yêu và nỗi nhớ của mình.