Cảm xúc Thu – Dạo bước trên Mây (15)

by Rose & Cactus

Có thể nói cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin thì toàn cầu hoá  là xu thế tất yếu không thể  tránh khỏi. Thomas Friedman tác giả cuốn “Chiếc Lexus và cây dầu ô liu” đã viết:

Toàn cầu hóa không phải là một sự lựa chọn. Đó là thực tế!

Chúng ta đang ở trong một hệ thống quốc tế mới. Hệ thống này có lôgic, có quy luật, có áp lực và có động lực riêng của nó – nó đáng được gọi bằng cái tên riêng – “toàn cầu hóa”. Toàn cầu hóa không chỉ là một thứ mốt kinh tế, không phải là một khuynh hướng nhất thời. Nó là một hệ thống quốc tế – một hệ thống chủ đạo, thay thế Chiến tranh Lạnh sau khi bức tường Berlin sụp đổ.

Chính vì thế, tôi định nghĩa toàn cầu hóa như sau: Nó là một sự hội nhập không thể đảo ngược giữa những thị trường, quốc gia và công nghệ, tới mức chưa từng có – theo phương cách tạo điều kiện cho các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước vươn quan hệ đến nhiều nơi trên thế giới xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết và cũng theo phương cách giúp thế giới tiếp cận các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết.

Toàn cầu hóa có công nghệ định hình riêng: vi tính hóa, thu nhỏ kích cỡ các loại thiết bị, số hóa, viễn thông vệ tinh, cáp quang và Internet, giúp cho việc vun đắp viễn cảnh hội nhập. Khi một nước nhảy vào dòng chảy toàn cầu hóa, giới tinh hoa của đất nước đó bắt đầu chuyển tải viễn cảnh hội nhập vào bên trong và cố tìm cho họ một chỗ đứng trong bối cảnh toàn cầu.

“Trước đây, khi nói về kinh tế vĩ mô, chúng tôi bắt đầu từ những thị trường địa phương, hệ thống tài chính khu vực và những quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau, rồi sau đó, như chợt nhớ ra, chúng tôi bàn đến nền kinh tế quốc tế.

Hồi đó có một cảm giác chung là những gì chúng tôi làm là việc riêng của chúng tôi, rồi sau đó thông qua một số kênh, chúng tôi bán hàng ra nước ngoài. Giờ đây, chúng tôi đảo ngược quá trình đó. Không có chuyện quyết định sản xuất trước rồi mới tìm thị trường xuất khẩu; mà trước hết hãy nghiên cứu khung cảnh toàn cầu, rồi quyết định sản xuất hàng gì. Quan điểm này thay đổi toàn cách nghĩ của mỗi chúng ta.”

Trong khi thước đo của thời Chiến tranh Lạnh là trọng lượng, đặc biệt là trọng lượng các loại tên lửa. Nay để đo đếm toàn cầu hóa, người ta dùng đơn vị tốc độ – tốc độ trong buôn bán, đi lại, liên lạc và sáng tạo.

Chiến tranh Lạnh là nói đến phương trình năng lượng và khối lượng của Einstein: e=mc^2. Toàn cầu hóa xoay quanh định luật Moore (Định luật Moore được xây dựng bởi Gordon Moore – một trong những sáng lập viên của tập đoàn sản xuất chip máy tính nổi tiếng Intel) rằng công suất tính toán của các con chip silicon sẽ tăng gấp đôi trong vòng 18 đến 24 tháng, trong khi giá giảm còn một nửa.

Trong thời Chiến tranh Lạnh, câu hỏi thường là “quý vị đứng về phe nào?” Trong toàn cầu hóa người ta hay hỏi, “bạn kết nối với người khác ở mức độ nào?”

Trong Chiến tranh Lạnh, người ta hay hỏi, “tên lửa của bạn lớn đến đâu?” Trong toàn cầu hóa người ta muốn biết, “modem của bạn nhanh đến mức nào?”

Văn kiện chủ đạo của Chiến tranh Lạnh là “Hiệp Ước.” Trong toàn cầu hóa, văn kiện tối hậu là “Giao Kèo.”

Hệ thống Chiến tranh Lạnh thậm chí có thời trang riêng của mình. Năm 1961, theo tạp chí Foreign Policy (Chính sách Đối ngoại), Chủ tịch Cu ba là Fidel Castro, trong bộ quân phục ka ki màu xanh ôliu đưa ra tuyên bố nổi tiếng – “Tôi nguyện là người Marxist-Leninist đến cuối đời.” Vào tháng Giêng năm 1999, ông Castro mặc một bộ complet thương gia đến dự một hội nghị toàn cầu hóa tại Thủ đô La Habana, nơi có nhà tài phiệt George Soros và nhà kinh tế chủ trương thị trường tự do, Milton Friedman, cùng được mời tham dự.

Vâng, và giờ các bạn có thể đọc một bức thư trong thời đại toàn cầu hoá

 Monday, Oct 23

From: Monster, Vietnam

To: Thầy Sōsaku Kobayashi

     Trường Tomoe , Japan 

Kính gửi thầy hiệu trưởng kính mến!

Lời đầu tiên cho con gửi lời chào đến thầy, người mà chúng con, những độc giả- học sinh Việt Nam rất ngưỡng mộ, thông qua câu chuyện về cô bé Tô tô chan bên cửa sổ của tác giả Tetsuko Kuroyanagi.

Con xin giới thiệu, con là Monster Pốp  Con :)), đúng ra phải ra là Monte Cờ rít sô, bá tước vùng nam nước Pháp danh giá, nhưng vì căm tức cái sự “Ghét đủ thứ” :))) của con mà cái cô Mây gió trên trời cô ấy kêu con là …Monster (tuy vậy, con cũng phải thành thực với thầy là cái tên này suy cho cùng còn may mắn chán, chứ mà con manh danh Dracula thì đúng là toi. Thất nghiệp dài, vì nghe đến cái tên này là con chiên họ đã hồn bay phách lạc rồi chứ ai đủ can đảm để nghe giảng kinh nữa phải không thầy?  

Nhưng hôm nay con biên thư này không phải để nói xấu cổ, làm người ai làm thế, dù cho suốt mấy năm nay không có ngày nào mà cổ không bêu riếu con trên cái nền tảng mạng xã hội (tên gì thì vì con tu trên núi đã lâu, nên….. quên mất rồi :)). 

Mà chủ yếu là với tư cách là hàng xóm láng giềng với đất nước của thầy, đúng nghĩa hàng xóm luôn vì mỗi sáng khi gà còn chưa gáy, ngồi trên đỉnh núi nước Việt tu luyện con có thể trông thấy ngọn núi Phú Sĩ xa xa huyền ảo mây mờ bao phủ

Thì con cảm thấy lo cho cái đất nước mặt trời mọc mà con yêu quý quá. Chả là, con được thông tin do thằng bạn William của con nó đánh điện gấp lên, rằng thì là mà, trong xu thế toàn cầu hoá, cô Mây ở đất nước con  cổ cũng có ý định vi vu sang  đất nước của thầy để hành nghề “Gấp quần áo thuê”. , nghe đâu dựa vào mô hình hay xu hướng gì của giới trẻ bên Trung Quốc thầy ạ, rằng đến  thạc sĩ tiến sĩ gì đó giờ đây cũng chán nản với các công việc đầu óc mệt mỏi dễ căng thẳng đột quỵ  thế là họ chuyển sang làm nghề ..chân tay: Dọn dẹp phòng hay ….bỏ phố về rừng làm Lý Tử Thất verson thứ n.

Ôi dồi thầy ơi, con nghe mà suýt ngất, nhưng vì nghĩ đến 6 tỷ con đi thì không ai quản lý nên  hãm ngay lại được :))). Con đồ rằng cổ sang chỉ để nghiền hết mấy cái phố truyện manga ở bển thôi.

 Là một hiệu trưởng của một ngôi trường đặc biệt, con rất mong thầy cho ý kiến về vấn đề của bạn con đặng mong cổ phải sống thực tế hơn.  

Con chân thành cảm ơn thầy!

Gửi con Monster!

 Thầy rất cảm kích trước tấm lòng của con với bạn cũ. Nên không muốn làm mất nhiều thời gian của con, thầy muốn nói luôn là, ý nguyện của bạn con là hoàn toàn chính đáng, con không phải lo đâu, cứ yên tâm “luyện công” trên núi, chừng nào thằng William nó gửi thiệp mời đám cưới của…con nó, con xuống cũng không trễ, nha con! :))

 Để thầy giải thích cho con rõ hơn. Là qua nắm bắt sơ bộ thì tuy cô Mây gió cổ có vụng về thật đấy nhưng cổ vẫn có tài trong việc “gập đồ”. Đồ mà cổ gập là cứ phải vuông thành sát cạnh, sắp xếp cũng phải gọn gàng hình khối đâu ra đấy chứ không úi sùi bạ đâu vứt đó được. Tuy chưa phải đạt đến trình độ đỉnh cao hoàn hảo nhưng không hề gì, tay nghề qua đào tạo sẽ được nâng cao thêm nếu cổ sang đất nước của thầy :)). 

Bên đây, các thầy quan niệm đã làm cái gì, dù là lao động chân tay cũng phải cố gắng đạt đến trình độ tinh xảo. Con thấy đó, sushi chỉ là cơm chứ là gì, mà ở đây dân nước thầy cũng mày mò cải tiến để nâng cái món ăn đơn giản  này lên đến mức một tác phẩm cầu kỳ. Trà ở đâu chẳng có, vậy mà tổ tiên thầy cũng phải nghĩ cại thiện quy trình sao cho đạt đến mức độ “Đạo”, không phải uống trà mà là “Thưởng trà “

Rồi thì cắm hoa, rồi thì gấp giấy…. toàn công việc bằng tay đấy chứ, nhưng tất cả cũng phải đạt đến  tầm…đỉnh cao. Tức là phải sử dụng đến não bộ để biến một sản phẩm tầm thường thành một tác phẩm nghệ thuật để ngoài giá trị thưởng thức chúng còn mang lại giá trị thặng dư.

 Các con cứ nhìn sang hàng xóm của chúng ta đi, cái xứ sở kim chi ấy.  Cái món kim chi nào có hơn gì nhiều món muối đặc sặc của đất nước các con đâu, mà họ cũng phù phép đủ kiểu để biến nó thành thương hiệu quốc tế. Rồi thì mấy cô gì đen đỏ, đỏ đen đó, hát hò thì thật sự là thế hệ các thầy già rồi có thể hơi lãng tai nhưng mà đúng là có gì quá đặc sắc đâu. Các con cứ nghe kỹ đi sẽ thấy, chả có gì gọi là nghệ thuật cao siêu cả.  Nhưng cả thế giới vẫn phải chạy theo xin chữ ký của các cổ ấy. Giờ đây không chỉ các cổ hốt bạc mà đất nước quê hương các cổ cũng được hưởng lây. Ghê không các con, thương hiệu của một ban nhạc  nâng tầm thương hiệu của cả một quốc gia.

Đấy, thế nên đừng nghĩ đến những cái gì quá cao siêu. Một truyện ngắn hay một nền văn chương cũng có thể nâng tâm thương hiệu quốc gia. Một bài hát hay một nền công nghiệp âm nhạc cũng có thẻ nâng tầm thương hiệu quốc gia. Một bức hoạ hay một serie truyện tranh cũng có thể nâng tâm thương hiệu quốc gia. Miễn là những thứ đó phải ra gì và này nọ. 

Vậy nên các con cũng thế. Không cần quá ôm đồm nhiều, mà nên tập trung vào cái mình có lợi thế nhất. Ít thôi nhưng phải “tinh”. Chịu khó tìm tòi và “sống chết” với nó. Giống như những đôi giầy da của những người thợ nước Ý hay những chiếc mũ cói Panama xứ Trung Mỹ ấy, để làm được những thứ tưởng đơn  giản mà họ phải luyện công nhiều năm trời chỉ để hoàn chỉnh một mũi kim. Rất công phu nhưng đổi lại họ bán một cái mũ bằng các con bán 1000 cái nón lá. Nếu là con, con sẽ chọn hình thức nào?

Có nghĩa là,

Trong thời đại toàn cầu hoá, để vươn rộng hơn thì các con phải đào sâu hơn.

Bất cứ cái gì mình giỏi bật lên cũng là một lợi thế,

sáng tác truyện, làm thơ, lập trình, sửa compa :))), vặn ốc vít, nấu ăn,

cắm hoa, đan lát, nhảy múa, vẽ vời,

ngắm trăng sao trên trời nghiên cứu về thuyết tương đối:)))

Nếu chưa giỏi được ngay thì hãy kiên trì miễn là có đam mê. Hãy học cách tự học và tự nghiên cứu. Đọc sách và quan sát từ thực tế cuộc sống. Bất chấp có phải là ở trường chuyên lớp chọn hay không. Bất chấp có cuộc thi hay có tham gia thi học sinh giỏi hay không. Bất chấp chương trình ở trường hay dở nhiều ít thế nào. 

Con đường đi đến thành công hoặc thành nhân là thứ không dễ để show ra như Ngọc Trinh show khả năng trình diễn motor.  Nó, như thường thấy, mang vẻ âm thầm, lặng lẽ, và đôi khi là sự cô đơn,  chỉ mình ta biết với ta. 

Khi có thể và có cơ hội hãy bước ra ngoài thế giới.

Và luôn nhớ, bản sắc văn hoá quốc gia chính là lợi thế  của mỗi người: Thầy không thể ca cải lương mùi mẫn bằng các con. Ngược lại thầy cho rằng, khó ai có thể may được một chiếc kimono hoàn hảo như người dân quê hương thầy.

Còn về truyện tranh thì thầy không lạ đâu. Nghe đâu mấy anh chị em họ của cổ khi sang đây cũng nổi tiếng mấy phố truyện bên này rồi. Họ đọc truyện bằng hình thức…ghi nợ mà. Chả biết họ ăn nói thế nào với mấy chủ tiệm sách bên này mà các ông các bà ấy cho ghi nợ xuyên quốc gia luôn, khi nào về nước kiếm đủ tiền thì trả dần. Thế mới hay chứ! :))

Vậy nha con! Có tin tức gì con hãy cho thầy biết!

Thầy Sōsaku Kobayashi

Toàn cầu hoá có thể khiến thế giới tốt đẹp lên? Một ví dụ

By Legrain, Philippe 

(Bài viết vào thời điểm những năm đầu của thế kỷ XXI)

Việt Nam là một ví dụ điển hình về cách người nghèo được hưởng lợi từ toàn cầu hóa. Tỷ lệ nghèo đói đã giảm một nửa trong 10 năm. Vào năm 1988, khi “Đổi mới” bắt đầu, 3/4 dân số sống với mức dưới 1 đô la một ngày. Đến năm 1998, tỷ lệ này là 37%. Trong số 5% hộ gia đình nghèo nhất năm 1992 – và hãy nghĩ xem 5% nghèo nhất ở một đất nước như Việt Nam năm 1992 đã nghèo đến mức nào – 98% đã khá giả hơn sáu năm sau đó.

Chín mươi tám phần trăm. Ai nói toàn cầu hóa không giúp được người nghèo? Sự cải thiện tuyệt vời này có được một phần là do xuất khẩu gạo của Việt Nam, chủ yếu do nông dân nghèo trồng, đã tăng vọt. Xuất khẩu cà phê, hải sản và dầu mỏ cũng tăng, cũng như xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như quần áo và giày dép.

Khi lái xe ra khỏi Thành phố Hồ Chí Minh, bạn sẽ đi qua những cánh đồng lúa trải dài vô tận. Những người nông dân trồng lúa đang cúi gập người dưới ruộng lúa, làm việc bằng đôi tay. Trâu cày xới đất. Những người phụ nữ đội nón lá với khuôn mặt góc cạnh nổi bật, gánh những chiếc giỏ bấp bênh trên vai.

Nhưng rồi sự đều đặn của những cánh đồng rộng mở nhường chỗ cho những ngôi làng mới nhộn nhịp với những khu chợ rực rỡ sắc màu và đủ các cửa hàng kinh doanh nhỏ. Đột nhiên, nó ở đó: một tòa nhà màu trắng lấp lánh trông giống như một nhà chứa máy bay. Một tấm biển lớn trên đó tuyên bố “CHÚNG TÔI CÓ THỂ LÀM NÓ” bằng chữ lớn màu xanh lam, bên trên là dấu swoosh (logo của hãng giày Nike) màu đỏ đặc trưng. Nơi từng là cánh đồng lúa, giờ đây là nhà máy Nike.

Nói chính xác thì Samyang là nhà máy gia công theo hợp đồng cho Nike. Bản thân Nike không thực sự sản xuất bất kỳ đôi giày hay bộ quần áo nào – chuyên môn của họ nằm ở thiết kế và tiếp thị. Nó ký hợp đồng sản xuất với các công ty Hàn Quốc và Đài Loan. Samyang thuộc sở hữu của Hàn Quốc cũng có nhà máy ở Hàn Quốc và Philippines.

Tọa lạc tại Trung An, một ngôi làng cách thành phố Hồ Chí Minh 32 km về phía Tây Bắc, nhà máy có 5.200 nhân công, chủ yếu là phụ nữ ở độ tuổi 20 và 30, hầu hết là người địa phương. Họ sản xuất 600.000 đôi giày mỗi tháng. Những đôi giày được sản xuất tại Samyang được vận chuyển đi khắp thế giới. Các thùng hàng chất đống trong nhà kho đều được dán nhãn gửi đến Stockport ở Anh, Junction City, Kansas, Pháp, Tokyo và Melbourne cùng các điểm đến khác.

Các nhà máy gia công theo hợp đồng của Nike được coi là những nhà máy của quỷ dữ đen tối của thế kỷ XXI. Họ bị buộc tội về mọi tội ác: trả lương cho công nhân của họ – bao gồm cả trẻ em – một khoản tiền nhỏ để làm việc cực nhọc trong nhiều giờ mà không có bất kỳ quyền lợi nào trong điều kiện kinh khủng. Người ta khẳng định những “xưởng bóc lột sức lao động” này là ngõ cụt của sự phát triển chứ không phải là bước đệm để thoát nghèo.

Tôi đến Samyang với nỗi lo sợ điều tồi tệ nhất đó. Nhưng tôi rất ngạc nhiên. Sáu tòa nhà rộng lớn của nó nằm giữa những bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận và nhiều loại cây nhiệt đới. Nó trông giống Kew Gardens ở London hay vườn ươm ở California hơn là một nhà máy sản xuất giày. Nhiệt độ giữa trưa xuống dưới ba mươi độ C: Tôi đổ mồ hôi. Bên trong có quạt giúp công nhân mát hơn.

Họ chủ yếu là những phụ nữ trẻ, ăn mặc gọn gàng trong chiếc áo sơ mi ngắn tay màu ngọc lam và quần tối màu. Đeo kính bảo hộ, khẩu trang hoặc găng tay khi cần thiết, họ cắt, khâu, tạo khuôn và dán keo. Có lẽ đây không phải là công việc truyền cảm hứng nhất, nhưng họ rất vui khi có được nó. “Đây là công việc duy nhất tôi có. Tôi đã ở đây sáu năm. Tôi hạnh phúc ở đây”, cô Thi, một cô gái trẻ hai mươi bốn tuổi hiền lành nói.

Lê Thị Minh, cũng 24 tuổi, đã làm thợ cắt được hai năm, đồng tình: “Tôi thích ở đây. Tôi từng làm việc tại một nhà máy Việt Nam ở tỉnh Đông Nam. Nhưng ở đây tốt hơn. Tiền lương khá hơn. Và bầu không khí phù hợp với tính cách của tôi”. Phạm Thị Mai, 25 tuổi, nổi bật giữa đám đông với chiếc áo sơ mi đỏ tươi. Cô ấy từng làm công nhân may nhưng hiện tại là giám sát viên, giám sát 32 thợ may. “Đây là một nơi tốt để làm việc”, cô nói, “Mối quan hệ công việc rất tốt. Tôi đã ở đây hơn năm năm và tôi hạnh phúc.Trước đó tôi làm việc ở một nhà máy dệt may của Việt Nam. Ở đây tốt hơn, thuận tiện hơn. Khó khăn chính là vấn đề giao tiếp”.

Ngay cả ông Nguyễn Ngọc Tuấn, đại diện công đoàn cũng tỏ ra tích cực: “Đúng, đây là nơi làm việc tốt. Nhìn chung, chúng tôi không gặp nhiều vấn đề về quản lý, mặc dù có thể có vấn đề về giao tiếp. Điều chúng tôi thực sự mong muốn là các mệnh lệnh nhất quán, để người lao động có thể yên tâm làm việc”. Nếu tẩy chay Nike, việc làm của những lao động Việt này sẽ gặp nguy hiểm.

“Vấn đề giao tiếp” là nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà quản lý Hàn Quốc. Người Hàn Quốc nổi tiếng nóng nẩy; một số đôi khi ăn nói thô lỗ. Người Việt thường khiêm tốn. Sự xung đột văn hóa này có thể gây ra xích mích và hiểu lầm. Tuy nhiên, xét về nhiều mặt, Samyang là một nhà máy kiểu mẫu. Người lao động kiếm được trung bình 54 USD một tháng. Phải thừa nhận rằng đó là một khoản tiền nhỏ theo tiêu chuẩn của chúng tôi.

Nhưng không ít như nó có vẻ. Một đô la ở Việt Nam có giá trị hơn nhiều so với ở Mỹ – gấp 5 lần, theo Ngân hàng Thế giới – bởi vì chi phí sinh hoạt thấp hơn rất nhiều, nên 54 đô la ở Việt Nam mua được nhiều thứ như 270 đô la ở Mỹ. Quan trọng hơn, Samyang trả gấp đôi mức trung bình ở địa phương là 27 USD một tháng. Nó cũng trả nhiều hơn mức lương tối thiểu hợp pháp ở các nhà máy nước ngoài là 35 USD một tháng ở khu vực nông thôn, 40 USD ở vùng ngoại ô và 45 USD ở thành phố.

Ở các nhà máy thuộc sở hữu nhà nước, mức lương tối thiểu chỉ là 15 USD một tháng, trong khi các quan chức cấp trung có thể kiếm được 45 USD. Công nhân của Samyang hầu như không muốn rời đi: 2/3 trong số họ đã làm việc cho công ty hơn ba năm. Các nhà phê bình thường chỉ ra rằng chi phí lao động để làm ra một chiếc giày chỉ bằng một phần nhỏ so với giá cuối cùng của nó. Đây có thể là một sự hiểu lầm.

Chi phí lao động được xác định bởi số lượng lao động được sử dụng cũng như mức lương phổ biến ở địa phương – và như chúng ta đã thấy, Samyang trả gấp đôi mức trung bình của địa phương. Giá của một đôi giày được xác định dựa trên mức giá mà người tiêu dùng sẵn sàng trả cho nó. Nếu con số này vượt quá chi phí sản xuất thì việc làm đó sẽ mang lại lợi nhuận. Ý tưởng cho rằng khoảng cách giữa chi phí lao động và giá bán lẻ là lợi nhuận thuần túy đối với Nike là viển vông. Tổng lợi nhuận 590 triệu USD của Nike trong năm 2001 chỉ bằng 6,2% doanh thu 9,5 tỷ USD của hãng.

Theo Nike, họ trả cho các đối tác của mình trung bình 18 USD một chiếc giày, trong đó nguyên liệu chiếm 11 USD, nhân công 2 USD, chi phí khác là 4 USD và lợi nhuận 1 USD. Sau đó, họ tăng giá đôi giày lên 100% và bán chúng cho các nhà bán lẻ với giá 36 USD.Giá này bao gồm giá thành sản phẩm, chi phí thiết kế, nghiên cứu và phát triển, tiếp thị, quảng cáo, vận chuyển, quản lý sản xuất, chi phí bán hàng và kinh doanh khác, thuế, cộng với lợi nhuận. Nhà bán lẻ tăng giá đôi giày thêm 100% và bán chúng cho người tiêu dùng với giá 72 USD. Chi phí bán lẻ bao gồm giá thành sản phẩm, tiền thuê, lương nhân viên, hao hụt, bảo hiểm, quảng cáo, vật tư và dịch vụ, khấu hao, thuế và lợi nhuận.

Những đôi giày cao cấp hơn (trên 100 USD) chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng doanh thu. Việc công nhân của Samyang không thể dễ dàng mua được những đôi giày họ làm ra cũng là một vấn đề không đáng có. Những người Ý làm ​​việc trong nhà máy Ferrari khó có thể mua được một trong những chiếc xe thể thao mà họ sản xuất. Các cô hầu phòng ở Waldorf Astoria cũng không đủ khả năng để qua đêm ở đó. Mọi người không làm việc để tiêu thụ những gì họ sản xuất. Họ làm như vậy để kiếm tiền chi tiêu vào những việc khác.

Những lợi ích của khả năng chi tiêu đó có thể được cảm nhận cách xa hàng dặm. Kể từ khi Samyang mở cửa vào tháng 11 năm 1995, tỷ lệ người dân địa phương kiếm được dưới 10 USD một tháng đã giảm từ 20% xuống 8%. Hiện nay, cứ năm người dân địa phương thì có một người kiếm được hơn 30 USD, gấp đôi so với năm 1995. Hơn ba phần tư hiện nay có tivi, so với chỉ một phần ba vào năm 1995.

Tám phần trăm có điện thoại, gấp bốn lần so với trước đây. Hai phần ba có xe máy, tăng từ một phần ba. Công nhân của Samyang và hàng xóm của họ không còn chỉ tồn tại mà còn có thêm một chút để chi tiêu. Các cửa hàng sửa chữa xe đạp, chợ nhỏ và cửa hàng thực phẩm mới là minh chứng cho điều đó. Giống như tất cả nhân viên hợp đồng của Nike tại Việt Nam, nhân viên Samyang cũng được thưởng hàng năm ít nhất một tháng lương; Nghỉ phép hàng năm từ 12 đến 16 ngày cộng với 8 ngày nghỉ lễ trong nước và quốc tế; nghỉ phép đặc biệt vì lý do cá nhân; và bốn tháng nghỉ thai sản có lương. Luật lao động của Việt Nam – vốn nghiêm ngặt hơn nhiều so với hầu hết các nước nghèo: xét cho cùng thì đây được coi là thiên đường của người lao động – được thực thi một cách nghiêm ngặt.

Trẻ em dưới 15 tuổi không được phép làm việc: Nike không tuyển dụng bất kỳ ai dưới 16 tuổi trong các nhà máy quần áo hoặc dưới 18 tuổi trong các nhà máy giày của mình. Công nhân làm việc 48 giờ một tuần: tám giờ một ngày, sáu ngày một tuần, với một giờ nghỉ trưa để ăn trưa, được cung cấp miễn phí trong căng tin sạch sẽ lấp lánh của công ty.

Họ chỉ được phép làm thêm 200 giờ trong ngày làm việc, được trả lương gấp đôi vào những ngày nghỉ và ngày lễ và được trả thêm 30% vào ban đêm. Các nhà máy của Nike đóng cửa vào Chủ nhật, trừ khi bảo trì định kỳ. Gần một phần ba nhân viên của Samyang là thành viên công đoàn. Một ủy ban thực hành lao động cũng được thành lập vào tháng 2 năm 2000 để cải thiện mối quan hệ giữa ông chủ và người lao động và bảo vệ phúc lợi của người lao động. Quản lý người Hàn Quốc được dạy về văn hóa Việt Nam; người Việt nói về Hàn Quốc.

Người lao động được đào tạo  luật lao động hàng quý. Các áp phích nêu rõ quyền và lợi ích của họ được dán nổi bật trên tường. Những công nhân đề xuất những cải tiến có giá trị có thể nhận được tiền thưởng 200 USD: 18.000 USD được trả mỗi năm. Người dân địa phương ngày càng được đào tạo để trở thành nhà quản lý: 22 người Việt Nam đã được thăng chức trợ lý giám đốc từ tháng 1 năm 2001; mục tiêu là có 70% người quản lý là người địa phương vào năm 2002. Samyang cung cấp các lớp học và tài liệu buổi tối miễn phí cho người lao động chưa học hết cấp 3. Nó cũng đã quyên góp 37.000 USD cho các tổ chức từ thiện địa phương kể từ năm 1996.

Chi phí cho tất cả hoạt động thiện nguyện này của công ty khá thấp: khoảng 100.000 USD một năm, cộng với chi phí lao động là 4,8 triệu USD một năm. Điều đó tốt cho công ty cũng như cho nhân viên. Sai sót đã giảm 2/3, hàng tồn kho cũng như năng suất tăng 1/3. Nhà xưởng sáng sủa, thoáng mát, sạch sẽ, an toàn. Với rất nhiều vật liệu dễ cháy xung quanh, việc chữa cháy tốt và an toàn là điều cần thiết.

Các lối thoát hiểm được đánh dấu rõ ràng, các lối thoát hiểm không bị lộn xộn. Một kế hoạch sơ tán hỏa hoạn lớn được ghim trên tường và các cuộc diễn tập chữa cháy được tổ chức thường xuyên. Để ngăn ngừa thương tích, tất cả công nhân đều được đào tạo về an toàn.

Dấu hiệu cảnh báo có ở khắp mọi nơi. Khi máy móc có các bộ phận chuyển động lộ ra nguy hiểm, lưới sắt sẽ bảo vệ ngón tay của người lao động. Rủi ro về sức khỏe cũng được giảm thiểu. Chất kết dính gốc dung môi, có mùi khó chịu và có thể khiến bạn đau đầu hoặc tệ hơn, đã được thay thế bằng keo gốc nước hoặc chất tẩy rửa.

Chất lượng không khí trong nhà máy được các công ty Hoa Kỳ kiểm tra, mức độ phơi nhiễm với các hóa chất độc hại được đo lường theo giới hạn cho phép do Cơ quan Quản lý An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp Hoa Kỳ đặt ra.Nhân viên được chăm sóc sức khỏe miễn phí và thuốc giá rẻ. Phạm Chí Tánh, bác sĩ phòng khám của nhà máy, cho biết mỗi ngày có khoảng 150 công nhân đến khám với ông, chủ yếu là vì đau đầu, ho và cảm lạnh. Họ trả 1/5 chi phí cho bất kỳ loại thuốc nào họ cần. Samyang cũng đặt mục tiêu thân thiện với môi trường.

Chất thải được phân loại: một số được tái chế, một số được tái sử dụng. Vải và da đã qua sử dụng trước đây được đốt, nay được dùng để bọc ghế sofa và ghế xe máy. Một nhà máy xử lý nước thải đang được xây dựng.Đây có phải là hình thức? Samyang có phải là nhà máy Potemkin, một trò giả tạo để giới thiệu với người nước ngoài? Hoặc có lẽ là một xưởng bóc lột sức lao động, nơi mà ngay khi người ngoài rời đi, mọi hoạt động bất hợp pháp sẽ diễn ra?

Tôi không có lý do gì để nghĩ như vậy. Mọi người tôi nói chuyện đều có vẻ thành thật. Trải nghiệm của tôi trùng khớp với những báo cáo từ những người nước ngoài khác – nhà báo, học giả, chính trị gia – những người đã đến thăm các nhà máy Nike ở Việt Nam. Các tiêu chuẩn nơi làm việc tại tất cả các nhà máy của Nike cũng được PricewaterhouseCoopers cũng như CESAIS, Đại học Khoa học và Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra độc lập.  

Tình trạng ở Samyang có được cải thiện kể từ khi nó trở thành mục tiêu trong các chiến dịch của các nhà hoạt động không? Gần như chắc chắn. Trong những sự cố riêng biệt tại các nhà máy hợp đồng khác của Nike ở Việt Nam vào năm 1996 và 1997, công nhân bị buộc phải chạy bộ quanh nhà máy và bị các bộ phận của giày va vào. Năm 1999, một giám sát viên người Hàn Quốc tại một nhà máy bị buộc tội giật dây áo ngực của nhân viên.

Các nhà hoạt động nhân quyền đã phản đối điều này một cách đúng đắn. Nike lúc đầu cố gắng phủ nhận các cáo buộc nhưng cuối cùng phản ứng bằng cách làm rõ hành vi của mình (người giám sát đã bị sa thải). Khi tôi hỏi chủ tịch Samyang, Jack Lee, một ông già  đeo kính và mặc áo kẻ sọc, liệu Nike có buộc ông phải cải thiện điều kiện ở nhà máy hay không, ông trả lời: Không. Đó là sáng kiến ​​của chúng tôi, dưới sự hướng dẫn của Nike.

Đó không phải là điều kiện trong hợp đồng của chúng tôi với Nike. Nhưng điều đó có ý nghĩa đối với chúng tôi: những người lao động khỏe mạnh hơn và hạnh phúc hơn là những người lao động tốt hơn. Điều đó không hoàn toàn đúng: Nike yêu cầu những người liên hệ của mình phải tuân thủ luật lao động địa phương và tôn trọng quy tắc ứng xử của công ty. Nike đã có mặt tại Việt Nam từ năm 1995. Đây là một trong những công ty Mỹ đầu tiên bắt đầu kinh doanh tại Việt Nam sau khi Bill Clinton tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại của Mỹ vào ngày 3 tháng 2 năm 1994.

Việc dàn trải sản xuất giữa nhiều nước làm giảm nguy cơ công ty sẽ bị ảnh hưởng bởi bất ổn chính trị, biến động kinh tế hoặc thay đổi quy tắc nhập khẩu. Nike nhập gần 2/5 thiết bị từ Trung Quốc, hơn 1/4 từ Indonesia và khoảng 15% từ cả Việt Nam và Thái Lan. Sự ổn định chính trị của Việt Nam là một điểm cộng lớn: Dân số trẻ và có trình độ học vấn cao cũng vậy: gần 3/5 trong số 78 triệu người Việt Nam dưới 25 tuổi; 95% nam giới và 91% phụ nữ trên 15 tuổi có thể đọc và viết. Cũng như mức lương thấp: thu nhập trung bình mỗi người là 290 USD vào năm 1996 (nó đã tăng lên 390 USD vào năm 2000). Samyang cũng nhận được viện trợ của nhà nước.

Ông Lee nói: “Chính phủ rất khuyến khích”. “Nó giúp chúng tôi được giảm thuế: chúng tôi không phải trả bất kỳ khoản thuế doanh nghiệp nào trong bốn năm đầu tiên và hiện tại chúng tôi chỉ phải trả một nửa mức thông thường trong bốn năm tiếp theo. Chúng tôi cũng không phải trả bất kỳ khoản thuế nào khi nhập khẩu nguyên liệu cần thiết để xây dựng nhà máy. Hợp đồng thuê địa điểm của chúng tôi có thời hạn ba mươi năm, nhưng có thể gia hạn. Mặt khác, đường sá ở Việt Nam nghèo nàn, hẹp và nguồn điện thất thường: Samyang có máy phát điện dự phòng.

Hơn nữa, cho đến khi hiệp định thương mại Mỹ – Việt được phê chuẩn vào cuối tháng 11 năm 2001, Mỹ đã áp thuế hải quan cao hơn đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam so với hầu hết các nước khác. Nike không sản xuất giày bóng rổ Air Jordan ở Việt Nam vì cho đến gần đây họ phải trả thuế nhập khẩu vào Mỹ cao hơn từ 30 đến 40% so với thuế nhập khẩu từ Indonesia. Giày chạy bộ Cortez bán chạy ở châu Âu lại được sản xuất tại Việt Nam vì EU không phân biệt đối xử với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Samyang là một trong 5 nhà máy hợp đồng của Nike tại Việt Nam.

Tổng cộng, họ tuyển dụng hơn 46.000 người – nhiều hơn bất kỳ công ty tư nhân nào khác ở Việt Nam (Một số trong số họ còn sản xuất giày cho các công ty phương Tây khác, như Adidas). Hơn 22 triệu đôi giày Nike được sản xuất tại Việt Nam vào năm 2000. Tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này lên tới 400 triệu USD. Xuất khẩu quần áo trị giá thêm 50 triệu USD. Các nhà máy hợp đồng của Nike là nhà xuất khẩu lớn thứ hai tại Việt Nam sau Fujitsu của Nhật Bản. Chúng chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu sản xuất và gần 4% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Chín phần mười nguyên liệu thô cần thiết để sản xuất giày Nike đều được nhập khẩu. Ngay cả hộp đựng giày cũng được vận chuyển từ Mỹ vì Việt Nam không sản xuất bìa cứng tái chế. Chỉ cao su là hàng địa phương. Vì vậy, lợi ích chính mà Việt Nam thu được từ sự hiện diện của Nike là việc làm tốt và chuyển giao công nghệ cũng như kỹ năng quản lý.

Để so sánh rõ hơn, tôi cũng đến thăm một xưởng giày “không có thương hiệu” do người dân địa phương làm chủ tên là Husan, ở quận Tân Bình, TP.HCM. Xe của tôi len lỏi qua những con đường chật hẹp trong thành phố đầy rẫy những chiếc “xe ôm”, nghĩa đen là “xe ôm”, những chiếc xe máy đã thay thế xe đạp. (Chiếc xe được lựa chọn là Honda, nhưng một công ty Trung Quốc vừa bắt đầu bán xe nhái Honda rẻ hơn nhiều. Điểm dừng chân đầu tiên của bất kỳ chủ sở hữu mới nào là lấy một huy hiệu Honda để dán lên đó: các thương hiệu nước ngoài khiến chúng nổi bật.) .

Tuy nhiên, cảnh nghèo khó xung quanh Husan – những đứa trẻ nhặt rác, mùi hôi thối – là lời nhắc nhở rằng hầu hết người Việt Nam vẫn nghèo đến mức nào. Tòa nhà của nhà máy trông có vẻ cũ kỹ nhưng nó chỉ mới được ba năm. Nó bị thiêu rụi vào năm 1998 – nhưng tạ ơn Chúa là không ai chết – và nó đã được xây dựng lại.

Trong vai sinh viên để được vào nhà máy, tôi hỏi Trần Trung Kiên, giám đốc kinh doanh xuất khẩu, về Husan. Công ty bắt đầu kinh doanh từ năm 1992 và hiện sản xuất 1,8 triệu đôi giày mỗi năm, tất cả đều để xuất khẩu, chủ yếu sang Bỉ, Hà Lan và Đức. Tôi nhìn thấy đôi giày có nhãn GAT – CAT nhái.

ó cũng bán dép sang Đức. Hầu hết doanh số bán hàng của nó đều thông qua người trung gian ở Hồng Kông, vì vậy anh ấy không thể cho tôi biết đôi giày thực sự sẽ được bán ở đâu. Nhưng anh ấy nói rằng một trong những khách hàng chính của nó ở Reno, một nhà bán lẻ quần áo của Đức. Husan bán đôi giày với giá từ 3,5 đến 5,5 USD một chiếc và đôi dép lê với giá 1,5 USD. Công ty nhập khẩu 60% nguyên liệu thô và 40% lấy từ địa phương. Không giống như Samyang, nó phải trả thuế 45%.

Nhà máy có tổ chức công đoàn, sử dụng 700 công nhân. Ông Trần tuyên bố rằng công nhân được trả 60 USD một tháng, nhưng bảng lương treo trên tường cho thấy họ thực sự kiếm được từ 37 đến 52 USD một tháng. Họ làm việc theo ca 12 tiếng, kể cả làm thêm giờ.

Ông Trần cho biết Husan cung cấp huấn luyện về sức khỏe và an toàn, nhưng không có lối thoát hiểm. Các lối đi ngổn ngang những mảnh vụn; máy móc đã cũ; và những công nhân không đeo găng tay hoặc khẩu trang bảo hộ, trông có vẻ mệt mỏi

Công nhân tại Nike có đặc quyền được so sánh. Quả thực, những người làm việc cho các công ty đa quốc gia thường là người chiến thắng. Edward Graham của Viện Kinh tế Quốc tế, một tổ chức tư vấn ở Washington DC, nhận thấy rằng người dân ở các nước nghèo làm việc cho các chi nhánh nước ngoài của các công ty Hoa Kỳ kiếm được trung bình gấp đôi mức lương sản xuất trong nước.

Ở các quốc gia có thu nhập trung bình như Mexico, nhân viên của các công ty Mỹ kiếm được nhiều hơn 80% so với mức tiêu chuẩn trong nước. Ngay cả ở các nước giàu, các công ty Mỹ phải trả nhiều hơn 40% so với các công ty địa phương. (Tất cả những tính toán này không bao gồm tiền lương của người nước ngoài). Các nghiên cứu khác về Mexico, Venezuela, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ cũng đưa ra kết quả tương tự. Làm việc cho một công ty quốc tế là một điều có lợi.  

Tuy nhiên, ngay cả những nhà máy như Husan cũng là một bước tiến so với làm việc trên đồng ruộng hoặc doanh nghiệp nhà nước. Nhìn chung, mọi người chọn làm việc ở đó hơn là ở nơi khác. Thật sai lầm khi đánh giá điều kiện ở một nhà máy Việt Nam theo tiêu chuẩn của chúng ta. Ví dụ, một người phương Tây có thể lập luận rằng tất cả các nhà máy đều phải có máy điều hòa.

Đúng, sẽ dễ chịu hơn nếu như vậy. Nhưng do giá thành của máy điều hòa không khí cực kỳ đắt và tiêu tốn rất nhiều điện năng nên việc yêu cầu tất cả các nhà máy ở Việt Nam lắp đặt nó sẽ khiến nhiều công ty phải phá sản. Nhiều công nhân cuối cùng sẽ thất nghiệp hoặc gãy lưng trên đồng ruộng dưới nắng nóng. Liệu họ có khá hơn không? Rõ ràng không.Tương tự, lệnh cấm lao động trẻ em có thể phản tác dụng.

Nếu cha mẹ không đủ khả năng cho con đi học thì việc ngăn cản chúng đi làm chỉ khiến cuộc sống của chúng trở nên khốn khổ hơn – và có thể đẩy chúng vào các hoạt động phi pháp như mại dâm. Hãy so sánh điều này với Châu Âu và Bắc Mỹ, nơi có nhiều sinh viên đại học có việc làm. Có thể cho rằng, điều này làm cản trở việc học của họ, vì vậy có thể sẽ có trường hợp cấm sinh viên đi làm khi còn đang đi học. Bạn nói vậy, nhưng chính phủ có thể cấp cho họ những khoản trợ cấp lớn hơn để bù đắp. Đúng là ở các nước giàu.

Nhưng đó thường không phải là một lựa chọn ở một nước rất nghèo. Chính phủ không đủ khả năng trang trải chi phí sinh hoạt cho trẻ em khi chúng còn đi học. Sẽ là sai lầm khi quy định rằng các tiêu chuẩn lao động phải giống nhau ở mọi nơi. Chúng có xu hướng cải thiện theo thời gian khi các quốc gia trở nên giàu có hơn. Một nghiên cứu của Viện Brookings ở Washington DC cho thấy rằng trong khi ở các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người dưới 500 USD, 30 đến 60% trẻ em trong độ tuổi từ 10 đến 14 có việc làm, thì 10 đến 30% làm việc đó ở các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp. từ $500 đến $1000.

Mặc dù vậy, rõ ràng hiện nay có một mức tối thiểu cơ bản nên được áp dụng ở mọi nơi; Ví dụ, chế độ nô lệ là bất hợp pháp và các điều kiện kinh khủng và lạm dụng khác cũng nên bị cấm.

Tất nhiên,  như Thomas Friedman cho rằng ý tưởng làm động lực cho toàn cầu hóa là chủ nghĩa tư bản dựa trên kinh tế thị trường – nếu bạn để cho thị trường tự điều tiết, nếu bạn mở cửa nền kinh tế cho phép thông thương và cạnh tranh tự do, thì nền kinh tế của bạn sẽ càng hữu hiệu và tăng trưởng nhanh hơn.

Toàn cầu hóa có nghĩa là chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường lan vào hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Do đó, toàn cầu hóa hình thành cho riêng nó một hệ thống luật lệ kinh tế – luật lệ xoay quanh việc mở cửa, thả nổi và tư nhân hóa nền kinh tế của bạn, để nó có tính cạnh tranh cao hơn và thu hút được nhiều hơn đầu tư nước ngoài.

Không như Chiến tranh Lạnh, hệ thống toàn cầu hóa mang một sắc thái văn hóa riêng, bao trùm và có xu hướng đồng hóa các quốc gia và cá nhân tới một mức độ nhất định. Trước đây sự đồng hóa như vậy chỉ diễn ra ở quy mô khu vực – ví dụ sự đồng hóa văn hóa La Mã đối với miền Tây châu Âu và vùng Địa Trung Hải, sự đồng hóa của giá trị đạo Hồi ở vùng Trung Á, Bắc Phi, một phần châu Âu và Trung Đông, do người Ả Rập và sau đó là đế quốc Ottoman tiến hành, hay sự Nga hóa vùng Đông và Trung Âu và nhiều phần vùng giáp giới châu Âu và châu Á dưới thời Xô Viết.

Đứng về mặt văn hóa, toàn cầu hóa hiện nay bao gồm một quá trình Mỹ hóa (dù tốt hay xấu) – từ hiện tượng Mc Donald’s đến Macs rồi đến chuột Mickey.

Ở vào thời điểm những năm 40 khi khái niệm toàn cầu hoá chưa hình thành, nhưng những thay đổi muôn mặt của đời sống xã hội Mỹ  cũng đã càn quét qua con thung lũng nhỏ Napa của dòng họ Aragon. Nơi họ vẫn luôn giữ những nghi lễ truyền thống cổ xưa.

Từ việc người bà vẫn nấu món ăn dân tộc “Canh hoa bí ngô” mà đã có trong thực đơn của gia đình trước cả  Bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ  đến việc trồng và thu hoạch cả vườn nho.

Vườn nho bắt nguồn từ gốc nho mà tổ tiên họ đã mang theo từ tận bên kia bờ Đại Tây Dương sang đến Tân thế giới.

You may also like

Để lại bình luận