Mình ngồi dưới gốc táo ngay bên cạnh hai cây dừa soi bóng xuống mặt ao phẳng lặng. Cái ao nhà ông ngoại mình được xem là rộng nhất trong xóm nhà ông. Ban đầu nó là hai ao riêng biệt của hai nhà. Sau đó nhà người hàng xóm cạnh nhà ông mình chuyển đi nên bán lại mảnh đất đó cho ông bà.
Nên ở giữa hai cái ao là một bờ đất nhỏ. Nhỏ tẹo, bề ngang chỉ khoảng 1m nhưng cũng chen chúc đủ cây ăn trái trên đó. Mình nhớ nhất là cây ổi đào (ruột màu hồng đào), quả nhỏ thôi nhưng sai trĩu trịt và cực kỳ thơm, đúng y như câu thơ mà các bạn đã được học trong chương trình Văn lớp 9 ấy: “Bỗng nhận ra hương ổi; Phả vào trong gió se.”
Mùa thu là mùa ổi chín, chim chào mào cứ là về hàng đàn, ríu rít suốt cả ngày trên cây. Chào mào là loài rất mê món ổi, quả nào chúng cũng phải đục khoét tí thì mới chịu. Ổi bị chim ăn, nhìn chẳng khác gì vầng trăng khuyết, và nhẹ bẫng. Nên nếu có cơn gió mạnh thổi qua là rào rào, chúng đua nhau rơi xuống nước.
Cây ổi này cành trùm cả ra mặt ao, mình leo trèo ở đó cũng nhiều và cũng vài lần tưởng uống no nê nước bên dưới vì đang bứt quả thì nghe cành kêu răng rắc. Cành ổi giòn lắm, dễ gãy. Thế nhưng chắc thần may mắn độ nên chưa bao giờ mình phải ngụp lặn dưới ao vì trèo cây hái quả cả. Ngày bé nghịch đúng thành thần các bạn ạ, không trò gì là trẻ con không thử và bây giờ mà bảo làm thì đố mà mình còn dám.
Khoái nhất là bứt quả xong và nằm luôn tại đó, vắt vẻo trên cành cây (dĩ nhiên phải chọn cành nào to và tương đối chắc chắn), vừa ăn vừa nheo mắt lại mà ngắm mây bay trên trời. Mây trắng, trời xanh. Mây động, bồng bềnh trôi trên nền trời tĩnh lặng. Tất cả những cảnh sắc đó đều in bóng xuống mặt nước. Đan xen và lồng vào nhau, mây trời và cây cỏ
Nhưng giờ đang là mùa Xuân, cây ổi mới chỉ đâm ra những nụ chồi xanh biếc. Dưới chân nó cỏ mọc tua tủa. Thứ cỏ dại lan rất nhanh trong tiết trời ẩm ướt, có cây cao lút đến đầu người, lá mảnh và sắc cứa vào da cũng đau phết chứ chả đùa đâu.
Tuy vậy, cỏ non dù cao đến mấy cũng không thể che khuất tầm nhìn từ bên này qua bên kia bờ ao. Ở đó, trên dẻo đất nhỏ lưng chừng dốc dẫn từ cổng vào nhà ông, hai cây mận và mơ đứng sát cạnh nhau đang bung nở những bông hoa đầu tiên của Mùa.
Những cánh hoa mận trắng muốt, mỏng manh làm sáng bừng cả một không gian nơi góc ao. Mận là loại hoa mà bạn không bao giờ thấy được vẻ đẹp tuyệt tác của nó nếu chỉ ngắm nhìn một cánh hoa riêng lẻ. Một cành hoa mận, đẹp. Một cây hoa mận, càng đẹp.
Và một rừng hoa mận, thì thôi, chúng ta không biết lựa chọn từ ngữ nào cho xứng với vẻ đẹp của nó.
THƠ MÙA XUÂN (HAIKU – NHẬT BẢN)
HOA MẬN
By Blyth, Reginald Horace
Dường như không
Háo hức nở hoa,
Là cây mận ở cổng này.
It doesn’t seem
Very anxious to bloom,
This plum-tree at the gate.
Issa
Trong bài này có sự kết hợp khó diễn tả giữa Issa và cây mận. Cái cây dường như không có mong muốn tha thiết nở hoa. Những ngày ấm áp đã đến nhưng nụ hoa vẫn không chịu nở. Issa cảm thấy một sự thờ ơ, một sự cố chấp thực vật và thiếu niềm tin vào nó. Không có gì đáng chú ý về bài này ngoài cách viết của nó; Issa là một nhà thơ vì ông viết ra những điều chúng ta thấy, thậm chí là nói, nhưng nghĩ rằng không đáng ghi lại.
2.
Ở các ngóc ngách
Cái lạnh còn sót lại:
Những bông hoa mận
In nooks and corners
Cold remains:
Flowers of the plum
Buson
Ở những nơi có nắng và ấm áp hơn của thung lũng, cây mận nở rộ, nhưng đây đó, trong bóng râm hay dưới những ngọn dốc, cây mận chỉ nở một vài bông hoa. Buson nhìn thấy cái lạnh trong sự khan hiếm hoa. Ông cảm nhận nó bằng mắt, hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ cảm giác ấm áp hay mát mẻ nào của cơ thể.
3.
Thêm một chùm hoa mận
Và số lượng hoa đó
Sự ấm áp tăng lên.
Another blossom of the plum
And that amount
More warmth.
Ransetsu
Đây là một câu thơ nổi tiếng. Đầu tiên có một thực tế tầm thường đơn giản là lượng hơi ấm và sự nở hoa của hoa mận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Đặc tính có thể đo nhiệt độ của cây mận là một điểm thú vị. Ngoài ra còn có sự đảo ngược nhân quả, sự ấm áp và nở hoa, có phần giống với họa mi của Chaucer.
Điều đó làm sáng tỏ những điều mới mẻ;
Nhưng đâu đó trong tâm trí có một cảm giác bí ẩn về tính chân như của vạn vật.
That clepeth forth the grene leves newe;
But somewhere in the background of the mind there is a feeling of the mystery of the suchness of things.
Buson có một bài thơ có đối tượng tương tự, nhưng ở đây mối quan hệ khá là huyền ảo:
Trăng khuyết, trăng khuyết,
Trăng cũng đã tắt –
Đêm lạnh làm sao!
Waning, waning,
The moon also is gone,-
How cold the night!
Một bài khác của Rotsu có điểm tương đồng mờ nhạt hơn:
Trước xuân phân;
Cái lạnh sẽ kéo dài
Chỉ một hoặc hai đêm nữa thôi.
Before the spring equinox;
The cold will last
Only a night or two more.
4.
Cảnh mùa xuân
Gần như đã sẵn sàng:
Trăng và hoa mận
The spring scene
Is well-nigh prepared:
The moon and plum-blossoms
Basho
Làm cho mặt trăng và hoa mận trở thành niềm vui, vật trang trí cho cuộc sống, không khó lắm. Nhưng để biến những điều đó thành niềm vui chính của những ngày trôi qua, sống vì chúng, nhìn thấy chúng bây giờ, nhớ về chúng, hồi tưởng lại, với lòng khao khát, háo hức chờ đợi sự trở lại hàng năm của chúng, điều này chỉ dành cho một số ít người. Khi đọc những lời của Basho, biết đó là chính của ông, chúng ta cảm thấy rằng chính trong trái tim ông cảnh sắc mùa xuân đã được chuẩn bị sẵn cho chúng ta.
5.
Những bông hoa mận trắng;
Ở Korokan,
Mực Trung Quốc có mùi thơm.
The white plum-blossoms;
In the Korokan,
The Chinese ink is fragrant.
Buson
Korokan là Văn phòng Trung Quốc nơi tiếp đón các vị khách nước ngoài, đại sứ, v.v. Điều này sau đó, vào khoảng thế kỷ thứ 9, đã được mô phỏng ở Kyoto. ( Với cùng cách đọc như tiếng Hoa, là dạng thích hợp). Nó đã không còn được sử dụng vào thời Hoàng đế Murakami, 947-967.
Không rõ với Korokan là Buson đang đề cập đến điều gì. Trong cả hai trường hợp, đó là hương vị lịch sử mà ông muốn chúng ta hiểu rõ sự liên quan đến hoa mận. Tòa nhà chính thức của Korokan, với những người chuyên chép sách Trung Quốc và các đại sứ Nhật Bản và Hàn Quốc, ngay lập tức gợi nhớ đến những tài liệu và chữ viết bằng mực và bút lông Trung Quốc.
Mực thì đen, hoa mận thì trắng. Có một sự tương phản tinh tế và đơn giản một cách đặc biệt giữa những bông hoa trắng được nhìn thấy và mực đen được tưởng tượng. Thêm vào đó là những mối liên hệ lịch sử trong mối quan hệ của Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Buson không giống như nhiều nhà thơ haiku thời kỳ đầu, chỉ sử dụng chủ đề tiếng Trung để làm thơ haiku. Ông cũng đưa haiku trở về quá khứ và cho chúng ta thấy nó từ quan điểm của haiku, nhờ đó khiến nó sống động trong hiện tại. Đây là sức mạnh to lớn của ông.
Buson đặt mình vào cuộc sống của triều đại nhà Đường, cách đây đã sáu hoặc bảy trăm năm khi Buson còn sống, giống như cách mà Goethe và Keats bước vào cuộc sống của người Hy Lạp cổ đại. Thiền được cho là một thứ của nơi này và thời điểm này; Buson cho chúng ta thấy thế nào là sống trong một thế giới xa xôi và cổ xưa.
6.
Hai cây mận;
Tôi yêu sự nở hoa của chúng,
Một nở sớm, một muộn màng
The two plum-trees;
I love their blooming,
One early, one later
Buson
Bài thơ này dựa vào những dòng sau trong Wakan-roeishu; chúng được sáng tác bởi Yasutane, d.997:
Cây liễu mọc muộn và sớm không giống nhau trên bờ đông và bờ tây; cành cây phía nam và phía bắc khác nhau ở độ nở và rụng của hoa mận.
On the eastern and western banks the willows are late and early, not the same; the southern and northern boughs are different, in the blooming and falling of the plum blossoms.
Từ đó chúng ta thấy hai cây trong vườn của ông lần lượt ở những nơi có nắng và râm mát. Không phải Buson coi vấn đề này là sự cạnh tranh giữa chúng; đúng hơn là sức mạnh của tự nhiên tác động như nhau ở cả hai, nhưng ở nơi này nhanh, nơi kia chậm.
Cách diễn đạt “chậm-nhanh” của Trung Quốc, chisoku, thay vì hình thức tiếng Nhật. Buson xây dựng lý tưởng của mình về sự kết hợp hoàn toàn giữa nghệ thuật và văn học Nhật Bản và Trung Quốc cùng với việc tránh xa tinh thần thô tục và thấm nhuần tinh thần hòa hợp.
Trong câu hiện tại, ông minh họa câu trước bằng sự kết hợp giữa phương thức diễn đạt của Nhật Bản và Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là, việc nghiên cứu suốt đời thơ ca Trung Quốc của Buson, đặc biệt là thơ Đường, không chỉ làm tăng tính phong phú về thơ của ông mà còn giúp ông có thể tái tạo, ở mức độ có thể, các hình thức và ngôn ngữ trong đó tinh thần thơ Hán đã được chứa đựng.
Quả thực, đôi khi lòng nhiệt thành truyền giáo của ông đã khiến ông lạm dụng cách nói sau này, và chúng tôi cảm thấy rằng những cách diễn đạt bằng tiếng Trung Quốc được sử dụng mà không có đủ lý do biện minh, gây bất lợi cho cả bài thơ lẫn học thuyết mà ông tán thành. Thiền không phải là tinh thần của thơ ca đối lập với hình thức của nó, mà là một cái gì đó tinh tế hơn thế nhiều. Đó là sự cân bằng giữa nội dung và hình thức.
Bản dịch nêu trên không nhấn mạnh được một điểm. Nguyên văn câu này:
Tôi yêu
Sự muộn màng sớm
Của hai cây mận
I love
The early-lateness
Of the two plum-trees
Điều đó có nghĩa là, “Tôi thích cách mà một số chậm, một số nhanh, một số ngắn, một số dài; và điều này được thể hiện ở hai cây mận này.” Chính những khác biệt nhỏ nhặt này trong các sự vật lại khiến nhà thơ thích thú, đặc biệt khi cả hai đều giống nhau vì đều là cây mận.
Còn một điểm nữa cần lưu ý, đó là hình thức diễn đạt khá cứng của thể thơ kiểu Trung Quốc phù hợp với đặc điểm của cây mận với những cành non thẳng tắp mọc lên từ những cành già cong queo.
7.
Bên cạnh một cái giếng
Với nước hôi bẩn,
Những chùm hoa mận
Beside a well
Of foul water,
Flowers of the plum
Issa
Câu thơ này vừa là một câu thơ hình ảnh vừa là một câu thơ tư tưởng. Cái giếng đã cũ và đổ nát. Nó ở một góc vườn vắng, chưa bao giờ được dọn dẹp, chưa bao giờ được sử dụng. Trẻ em thỉnh thoảng nhìn vào đó một lúc và thấy hình ảnh phản chiếu của chúng ở phía dưới.
Dương xỉ và cỏ dại mọc giữa những tảng đá, và những vùng nước không thể uống được là nơi ẩn náu của ếch và bọ nước. Bên cạnh có một cây mận già. Từ những cành cây đen nhánh đang bung ra những bông hoa rực sáng tương phản với sự hoang tàn, hỗn loạn xung quanh.
Không còn nghi ngờ gì nữa, trong tâm trí Issa có ý nghĩ về sự thờ ơ tích cực của Tự nhiên. Hoa sen không những mọc trong bùn mà còn được bùn biến hóa. Cây mận thích nước hôi, và nhà thơ ngắm hoa cũng phải như vậy; giống như yêu tôi thì yêu cả con chó của tôi.
8.
Sức mạnh thất bại;
Ngay cả khi làm gãy cành hoa này,
Một cái miệng nhăn nhó.
Failing strength;
Even in breaking off this flowering spray,
A grimacing mouth.
Issa
Không gì có thể trốn khỏi thơ ca. Mỗi khoảnh khắc trong mỗi phần của cuộc đời chúng ta, cho đến lúc chết, có thể, nên có, sẽ được làm thành thơ, làm sống động. Giá trị được nhận từ nó, giá trị được trao cho nó. Trong điểm mạnh, điểm yếu, trong việc chúng ta làm, trong việc chúng ta không làm; mọi nơi đều là nơi chốn nào đó, mọi khoảnh khắc đều là vĩnh cửu.
9.
Đột nhiên mặt trời nhô lên,
Với hương thơm của hoa mận
Dọc theo đường núi.
Suddenly the sun rose,
To the scent of the plum-blossoms
Along the mountain path.
Basho
“Notto”, “đột nhiên” tượng trưng cho sự “giật mình” trong tâm trí nhà thơ về sự ấn tượng của mình, hơn là sự bất ngờ của mặt trời mọc. Hai khứu giác và thính giác bị ảnh hưởng đồng thời đến nỗi Basho cảm thấy như thể ông đã ngửi thấy mùi nắng, đã nhìn thấy mùi hương của hoa mận.
10.
Mặt trăng trên núi
Vui lòng soi rọi
Lên kẻ trộm hoa!
The moon over the mountains
Kindly shines
On the flower-thief!
Issa
Mặt trời chiếu sáng, mưa rơi trên người công chính và kẻ bất chính. Trăng cũng chiếu sáng một cách vô tư lên mọi người. Mặt trăng trên núi là biểu tượng chung của Chân lý hoàn hảo, và có thể có sự liên tưởng như vậy ở đây. Nhưng coi chính Issa là kẻ trộm hoa, cảm giác tội lỗi khiến tâm trí ông dễ tiếp thu những tia sáng rực rỡ của vầng trăng đang nhô lên từ dãy núi xa.
Mặc dù bản gốc không nói rằng hoa mận được đề cập đến trong câu thơ này, nhưng có lẽ tốt hơn nên coi nó là hoa mận, vì Issa bị ảnh hưởng bởi những điều này nhiều hơn so với hoa anh đào. Người ta kể rằng ông đã viết khoảng ba trăm năm mươi bài thơ haiku về hoa mận.
11.
Trăng, hoa mận,
Giấm và konnyake,-
Và hôm nay cũng vậy!
The moon, the plum-blossoms,
Vinegar and konnyake,-
And there goes today too!
Issa
Trăng và hoa mận được kết nối trong nghệ thuật và văn học phương Đông, giống như hổ và tre, liễu và én, trăng và ngỗng trời, sư tử và hoa mẫu đơn. Su, một loại dấm, có vị chua như quả mận (ở Nhật Bản).
Konnyaku, một loại bột nhão làm từ tinh bột sợi của rễ lưỡi quỷ (devil’s tongue hay còn gọi là Konjac là một loài thực vật có hoa) , được dùng với “giấm” trong một câu tục ngữ. Vì vậy, tất cả những điều tưởng chừng như không liên kết nhưng thực sự có liên quan với nhau này sẽ tạo nên một ngày trong cuộc đời của Issa.
Điều này nhắc nhở chúng ta về câu chuyện của Darwin, trong cuốn “Nguồn gốc các loài”, về mối quan hệ giữa số lượng “những người giúp việc cũ” và số lượng những con ong nghệ. Điểm không thể bỏ qua là giấm và “konnyaku” cùng mặt trăng và hoa là những thứ cần thiết cho cuộc sống. Có một suy nghĩ tương tự ở đầu mục Hekiganroku thứ 87:
Unmon bảo đại chúng: “Bệnh và thuốc chữa lẫn nhau. Vũ trụ là liều thuốc: chính bạn là gì?”
Phật giáo được dùng để chữa trị tình trạng tội lỗi của chúng ta nhưng lại trở thành thuốc độc cho cuộc sống. Tương tự như vậy, thơ ca và nghệ thuật, được sử dụng như một phương pháp chữa trị những tệ nạn trong cuộc sống, lại đưa tâm trí ra khỏi thực tế, thứ mà giấm và konnyaku gọi chúng ta trở lại. Có một bài thơ của Basho tương tự thế này:
Dưới gốc cây,
Trong súp, trong món salad cá,-
Những bông hoa anh đào!
Beneath the tree,
In soup, in fish-salad,-
Cherry -blossoms!
Có thể nói, Issa đã giải phóng mình khỏi chủ nghĩa thẩm mỹ của Basho, nhưng vẫn giữ được tính trần thế và sự gần gũi với thực tế, đồng thời mang đến cho nó một ứng dụng phổ quát hơn.
12.
Nó có mùi như thế nào,
Cây mận nhà bên,-
Nhưng tôi không thể nhìn thấy nó!
How it smells,
The plum-tree next door,-
But I cannot see it!
Chora
Thế giới chúng ta đang sống là thế giới ánh sáng. Các giác quan thính giác, khứu giác và xúc giác kém tinh tế hơn so với ở các động vật bậc thấp. Có một khao khát tự nhiên là chuyển mùi hương ngọt ngào nồng nàn của hoa mận thành hình ảnh. Một mùi không có hình dạng, không có chi tiết, không có phương hướng. Nhà thơ ước ao được nhìn thấy những cành mận vươn cao lên bầu trời, được nhìn thấy những bông hoa nhạt màu trên nền cành đen, được nhìn thấy sự sống tĩnh lặng của nó.
13.
Chủ nhân của cây mận
Đánh vào một cục đất
Bằng cây gậy của mình.
The master of the plum-tree
Strikes a clod
With his stick.
Buson
Ý nghĩa của điều này không nằm ở sự vô nghĩa của hành động đập vào cục đất khô, mà nằm ở mối quan hệ giữa hành động vô nghĩa của cú đập và sự vô nghĩa ngang bằng của những bông hoa mận nở trên đầu. Goethe yêu cầu chúng ta đừng tìm kiếm bất cứ điều gì đằng sau hiện tượng:
Tôi tự chọn và chết ở Lehre.
Sie selbst sind die Lehre.
Đây cũng là điều chúng tôi tìm thấy trong phần sau:
Trong khung cảnh mùa xuân, không có gì tốt hơn, không có gì tệ hơn;
Các cành hoa là chính chúng, có cành ngắn, có cành dài.
In the scenery of spring, nothing is better, nothing worse;
The flowering branches are of themselves, some short, some long.
14.
Cành hoa mận
Tỏa hương
Gửi tới người đã làm gãy nó.
The flowering branch of the plum
Gives its scent
To him who broke it off.
Chiyo-ni
Câu này có quy tắc, “Về việc lấy ác báo thiện.”
15.
Dưới ánh trăng,
Cây mận trắng lại trở thành
Một cái cây của mùa đông.
In the moonlight,
The white plum-tree becomes again
A tree of winter.
Buson
Shiki, người rất ngưỡng mộ Buson, nghĩ một chút đến câu thơ này. Đó là sự thông minh hơn là tự phát, đó là sự thật. Ánh trăng khiến những bông hoa trắng gần như vô hình, chỉ còn thấy những cành đen, trông trơ trụi và cằn cỗi. Bản gốc nói “trở lại thành một cây khô” Shiki tán thành một câu thơ tương tự, cũng của Buson:
Đèn lồng thắp sáng,
Những bông hoa cúc vàng
Mất màu sắc của chúng.
Lighting the lantern,
The yellow chrysanthemums
Lose their colour.
16.
Nhà sư bị bệnh
Đang quét vườn,
Những cây mận nở đầy hoa.
The sick monk
Is sweeping the garden,
The plum-trees in full bloom.
Sora
Chủ đề thực sự của câu thơ này là hơi ấm mới của mùa xuân được thể hiện qua vẻ đẹp của hoa mận nhưng cũng qua khuôn mặt nhợt nhạt và những động tác yếu ớt của nhà sư. So sánh một bài thơ trên giường bệnh của Shiki:
Một trong những cành
Hoa mận
Trong lọ thuốc.
One of the sprays
Of plum-blossom
In the medicine bottle.
17.
Cây mận rải rác,
Lúa mạch gầy guộc và lưa thưa:
Một cánh đồng trong lùm cây.
The plum-tree straggling,
The barley thin and sparse:
A field in the groves.
Shiki
Cánh đồng này bị che khuất bởi những lùm cây nên ít nhận được ánh nắng. Ngay cả cây mận cũng cằn cỗi, yếu đuối, chỉ có ít hoa.
18.
Mỗi đêm kể từ bây giờ
Sẽ bình minh
Từ cây mận trắng
Every night from now
Will dawn
From the white plum-tree
Buson
Không có gì xa hơn, không có ý nghĩa thầm kín nào ngoài sự thật đơn giản là ngày nay, bình minh đến từ hướng của những bông hoa mận trắng. Nhưng điểm nhấn về đêm mới phát huy được sức mạnh của những bông hoa trắng lấp lánh; dù bóng tối bao phủ trái đất và bóng tối dày đặc bao trùm con người, chúng vẫn có sức mạnh để mang bình minh trở lại. Điều này được gợi ý bởi “sự kế tiếp” của câu thơ, âm thanh của tiếng Bahari đến nari ni keri. Có một số điểm tương đồng giữa câu này và Bình minh mùa hè của Morris:
Đêm hè tàn, ánh bình minh vụt tắt,
Màu xám nhạt và xám xịt của những chiếc lá dương.
The summer night waneth, the morning light slips,
Faint and gray “twixt the leaves of the aspen.
Câu thơ này của Buson được cho là câu thơ về cái chết của ông. Nó cho thấy một giai đoạn giác ngộ mà ngay cả từ “vô ngã” cũng không thích hợp. Ông chết trong sự thanh thản của vẻ đẹp thiên nhiên nơi ông đã sống. Điều này là không thể đối với Basho hay Issa, những người đã sống và chết trong vẻ đẹp của cuộc sống con người, một vẻ đẹp không trưởng thành mà đang lớn lên, liên tục sinh ra và tái sinh trong cơn lao nhọc của tinh thần.
19.
Âm thanh của ai đó
Xì mũi bằng tay;
Hoa mận nở đẹp nhất.
The sound of someone
Blowing his nose with his hand;
The plum-blossoms at their best.
Basho
Âm thanh ngắn gọn và dứt khoát đó đã mài nhọn khứu giác của Bashô trong giây lát, khiến ông chợt nhận ra việc mình đã làm bấy lâu nay, ngửi mùi hương hoa mận và hấp thụ màu trắng nhạt nhưng đậm. Nghĩ đi nghĩ lại, điều khiến Basho bế tắc là việc xì mũi bằng tay đối với ông không phải là một việc bẩn thỉu hay thiếu lịch sự mà thực chất nó được coi là một hành động, một âm thanh, một hiện tượng tự nhiên, về bản chất không tách rời khỏi hình ảnh và mùi thơm của hoa mận.
Có một bài thơ của Issa vượt xa những câu trên của Basho:
Cày ruộng,
Anh lau bàn tay đầy nước mũi của mình
Lên hoa mận
Tilling the field,
He wipes his snotty hand
On the plum-flowers
Làm điều này bằng một chiếc khăn tay bằng vải lanh mịn thì được, nhưng không phải bằng những cành hoa chìa ra. Thực sự Wordsworth nói,
Và thói quen nằm trong bạn với một trọng lượng
Nặng nề như phía trước, và sâu thẳm gần như cuộc đời.
And custom lie upon thee with a weight
Heavy as front, and deep almost as life.
20.
“Hãy lấy cái này đi.”-
Ánh trăng dường như muốn nói,-
Cành mận đang nở hoa này!”
“Steal this one.”-
The moonlight seems to say,-
This branch of flowering plum-tree!”
Tất nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa, trong dịp đặc biệt này, Issa đã không bẻ cành mà ánh trăng đã làm việc đó cho ông.
21.
Hoa mận đỏ
Mặt trời lặn tấn công
Cây thông và cây sồi.
Red plum-blossoms
The setting sun assails
Pines and oak trees.
Buson
Những tia nắng bình yên chiếu lên những cây sồi và cây thông phía trên cây mận và làm chúng tràn ngập sức mạnh và độ sâu của màu sắc vượt xa những bông hoa màu đỏ mờ ảo. Ở đây, nhà thơ không hề cố gắng hòa mình với thiên nhiên, sống cuộc đời của chính mình với thiên nhiên.
Buson tự biến mình thành một “tabula rasa” để khắc họa khung cảnh mà bằng cách này hay cách khác khiến ông băn khoăn. Đúng là ở đây chúng ta có thể tìm thấy những yếu tố chủ quan, cũng như ở khắp mọi nơi, sự tương phản giữa cây thông, cây sồi nam tính với cây mận nữ tính, cách dùng từ “tấn công” thực sự thể hiện cảm giác choáng ngợp của chính nhà thơ trước màu sắc rực rỡ của những tia nắng chiều.
22.
Tâm trí bên trong của Akokuso
Tôi không biết,-
Mà là những bông hoa mận này
Basho
The inner mind of Akokuso
I do not know,-
But these plum-flowers
Basho
Ở đây Basho đang nghĩ tới một bài thơ của Tsurayuli (883-946), có tên thời thơ ấu là Akokuso;
Lòng người tôi không biết;
Nhưng hoa anh đào
Của quê hương tôi, –
Mùi hương của chúng là thứ đã cách lâu lắm rồi
The hearts of people I know not;
But the cherry -blossoms
Of my native place,-
Their scent is that of long ago.
Tâm trí và trái tim của con người luôn biến đổi. Bạn bè dần lạnh nhạt và rời bỏ chúng ta; con người hay thay đổi và không chắc chắn. Nhưng cảm giác của Basho không phải là cảm giác có phần khinh miệt con người. Ông nói rằng ông không biết và không quan tâm muốn biết, cái mà trong tâm trí của Tsurayuli khi ông thốt ra những lời như trong bài thơ của mình. Tất cả những gì Basho biết và tất cả những gì ông cần biết là hoa mận có vẻ đẹp về hình dáng, màu sắc và hương thơm mà chúng luôn có.
23.
Người đưa thư;
Anh trao gửi cành hoa mận
Sau đó là lá thư.
The messenger;
He offers the branch of plum-blossom
Then the letter.
Kikaku
Thông thường thứ tự quan trọng (giảm dần) của ba yếu tố này sẽ là lá thư, cành hoa, người đưa thư. Tuy nhiên, ở đây chúng ta có người đưa thư, cành hoa, lá thư. Vẻ đẹp của hoa lớn hơn tầm quan trọng của lá thư, nhưng tâm trí của người đưa thư còn quyến rũ hơn cả những bông hoa mà người đó tặng.
24.
Hoa mận đã rụng,
Thật cô đơn
Cây liễu
The plum-blossoms having fallen,
How lonely
The willow-tree
Buson
Khi hoa mận nở, cây liễu dường như được chia sẻ sự sống và màu sắc, nhưng giờ đây hoa đã rụng, cây liễu đứng buồn bã cô độc.
25.
Hoa mận trắng;
Bên ngoài và bên trong hàng rào,
Chúng rơi và tràn ra.
White plum-blossoms;
Outside and inside the hedge,
They fall and spill.
Chora
So sánh những dòng của Browning trong Home Thoughts from Abroad:
Cây lê nở hoa của tôi bên hàng rào
Sà xuống cánh đồng và rơi rắc trong cỏ ba lá
Những bông hoa và những giọt sương.
My blossomed pear-tree in the hedge
Learns to the field and scatters in the clover
Blossoms and dewdrops.
26.
Với mỗi cánh hoa rơi,
Những cành mận
Trưởng thành hơn.
With every falling petal,
The plum branches
Grow older.
Buson
Khi hoa nở, cây mận có vẻ trẻ trung che giấu tuổi tác của nó, nhưng khi mỗi cánh hoa rơi, cành cây màu đen hiện rõ hơn và năm tháng được thấy rõ trên cành của cây. Tại mỗi thời điểm, khi mỗi cánh hoa rơi xuống đất mãi mãi, một khoảng thời gian rộng lớn và không thể thay đổi được sẽ trôi qua. Mỗi khoảnh khắc được cảm nhận như một thời đại.
27.
Đi thắp nến
Trong ngôi chùa lợp tranh,
Hoa mận rơi.
Going to light the candles
In the thatched temple,
Plum-blossoms falling.
Gyodai
Ở đây chúng ta có sự hài hòa của ánh sáng yếu ớt trong khung cảnh, những đường nét mềm mại của Sảnh lợp rơm, sự rơi lặng lẽ của những cánh hoa trắng.
28.
Trăng chiều;
Hoa mận rơi
Trên đàn luýt.
The moon of evening;
Plum-blossoms fall
On the lute.
Shiki
Trong bài này Shiki đã chịu ảnh hưởng của thơ Trung Quốc, -hoặc đó có thể là một bức tranh hoặc một khung hình mà ông đang xem. Trong mọi trường hợp, nó không phải là bài thơ về trải nghiệm trực tiếp, nhưng trải nghiệm gián tiếp có thể sâu sắc hơn trải nghiệm trực tiếp, chẳng hạn như chúng ta thấy trong những câu chuyện đau đớn trong tiểu thuyết của Hardy.
29.
Những bông hoa mận đỏ rơi
Dường như đang cháy
Trên phân ngựa.
The fallen flowers of the red plum
Seem to be burning
On the horse manure.
Buson
Phân ngựa mới rơi nằm trên mặt đất, và trên đó những cánh hoa màu đỏ đậm rơi xuống dường như bốc cháy khi phân ngựa bốc hơi trong không khí lạnh giá của buổi sáng. Điều nổi bật ở đây là màu đỏ rực của những bông hoa rụng đã xóa tan mọi cảm giác ghê tởm của chúng ta trước phân ngựa. Sự thờ ơ của những bông hoa, sự thờ ơ cháy bỏng của chúng, gây ra cảm giác tương tự trong chúng ta.
Buson không cố gắng đi vào bên trong của cái gọi là những thứ xấu xí và làm nổi bật vẻ đẹp bản chất thực sự của chúng. Ở đây, vẻ đẹp của những bông hoa đã xóa đi sự ghê tởm của phân, và chúng ta chỉ còn lại mình để sống trong cuộc đời của cả hai.
HOA MẬN
Hoa mận có nguồn gốc từ châu Á, vùng núi phía Tây Nam Trung Quốc gần sông Dương Tử, nơi chúng đã phát triển từ thời cổ đại. Cây được trồng đầu tiên ở Trung Quốc và sau đó được lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam và Đài Loan. Bằng chứng về giống cây này ở châu Âu cũng đã được tìm thấy ở vùng núi Kavkaz và gần biển Caspian. Mận khô đã được tìm thấy trong các ngôi mộ và địa điểm khai quật của người Ai Cập cổ đại.
Theo thời gian, mận châu Âu đã lan rộng khắp Địa Trung Hải và một số vùng của châu Âu. Năm 1841, nhà thực vật học người Đức Philipp Franz Von Siebold đã mang cây từ Nhật Bản đến Hà Lan. Vào đầu thế kỷ 20, cây được du nhập vào Hoa Kỳ, chiếm lĩnh California và một phần miền nam. Hoa mận có thể được tìm thấy ở các chợ nông sản và từ những người trồng đặc sản vào cuối mùa đông và đầu mùa xuân.
Hoa mận có ý nghĩa văn hóa sâu sắc ở Trung Quốc. Rải rác các trang trong tác phẩm kinh điển “Hồng Lâu Mộng” đều có mô tả những cây mà hoa của nó có cánh màu hồng. Mặc dù những cái cây được mô tả trong các bức ảnh này có thể là hoa đào do có nhiều loại cây khác đang nở hoa, nhưng hoa mận trông cũng rất giống đào và có thể được minh họa theo cách tương tự. Cây thường được trồng cùng với các loại cây khác và nhanh chóng làm sống động cảnh quan cũng như tô điểm thêm màu sắc cho cánh đồng, đặc biệt là vào mùa đông.
Cây mận thường cao từ bốn đến mười mét. Vỏ của chúng có màu xám và bản thân cây khá gầy. Những bông hoa mọc ra từ cành có màu trắng hoặc hồng và quả cũng mọc ra từ cành. Cây hoa mận có tầm quan trọng trong xã hội Trung Quốc thông qua ý nghĩa văn hóa của nó.
Quả mận Trung Quốc đã được phát hiện trong một số ngôi mộ ở Kiangsu, Hupei, Kuangtung và Kuangsi. Phát hiện này cho thấy chúng là một loại cây lương thực cổ xưa quan trọng vì chúng đã được sử dụng từ rất lâu và cách chúng được đưa vào các ngôi mộ.
Những bông hoa xinh đẹp nở rộ vào mùa xuân, và hành động thách thức thời tiết khắc nghiệt này đã khiến những bông hoa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Trong lịch truyền thống của Trung Quốc, hoa mận là loài hoa của tháng giêng và năm cánh hoa tượng trưng cho sự giàu có, hạnh phúc, thành công, hòa bình và trường thọ.
Trong phong thủy, hoa tượng trưng cho sự thịnh vượng và sinh sôi nảy nở. Năm cánh hoa tròn tượng trưng cho năm yếu tố và cung cấp năng lượng cân bằng, đồng thời khi xuất hiện cùng với những cành gầy guộc, những bông hoa mỏng manh tượng trưng cho sự kiên trì và hy vọng.
Trong phong cách trang trí của người Trung Quốc, người ta thường thấy hoa mận được in trên đồ treo tường, bát đĩa, vải và các vật trưng bày khác trong nhà. Những bông hoa quý được sử dụng trong lễ cúng tại các ngôi chùa Phật giáo trên khắp châu Á. Những bông hoa này cũng có thể được tìm thấy trong trang trí lễ đón Tết Nguyên đán và là một món quà phổ biến trong mùa hoa nở để tăng cường khí lực hoặc sinh lực của ai đó.
Nhật ký Mountain,
Feb 18
Chính xác là tôi đang lạc trong một rừng hoa mận. Thứ hoa đặc trưng của mùa Xuân vùng cao xứ Bắc. Đẹp quá! Lần đầu tiên trong đời tôi phải thốt lên như vậy trước một khung cảnh thiên nhiên mê hoặc đến nhường ấy.
Nơi tôi đang đứng đây có phải là vườn Hoa Quả Sơn hùng vĩ nơi Tề Thiên Đại Thánh của Tây Du Ký đã chào đời? Với những núi đá dựng đứng ? Không, tất nhiên là không phải rồi.
Có phải là vườn hoa đào (hay mận?) nơi Bảo Ngọc đã chứng kiến nàng Đại Ngọc thương hoa, khóc hoa và chôn hoa, một phân cảnh kinh điển của một tác phẩm kinh điển
Dĩ nhiên cũng không phải rồi!
Dù cảnh vật ở đây thì không kém gì những nơi tiên cảnh trong các tác phẩm văn học kiệt tác như thế! Chỉ là, chúng nằm trên địa phận của một tỉnh địa đầu cực Bắc của Tổ quốc thân yêu của tôi.
Hà Giang!
Vùng đất với những cao nguyên đá, những dãy núi phủ đá xám ngắt như một “thiên đường xám”. Ở đây, đá hiện diện khắp nơi. Đá được dựng làm tường nhà, tường rào. Những phiến đá gồ ghề, góc cạnh đã được bàn tay tài hoa của những con người “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh” sắp xếp thành những bức tường vững chắc mà không cần đến bất cứ thứ xi măng kết dính nào.
Những bức tường đá độc đáo và vững chãi như tinh thần của những người dân kiên cường quyết giữ lấy từng tấc đất quê hương ở nơi mà chỉ cần giơ tay lên là ta đã có thể chạm được vào những đám mây trôi bồng bềnh.
Có những mảnh vườn canh tác của người dân chỉ thấy lổn nhổn đá là đá. Có hề gì, với đôi bàn tay xù xì và sự cần cù chăm chỉ họ đã dần dần biến đá thành đất để gieo vào đó những hạt mầm đầu tiên: Của lúa nương, hay ngô sắn.
Không chỉ có con người đâu mà muôn loài ở đây đều có ý chí thích nghi với hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Tôi đã mất rất nhiều giờ chỉ để ngắm nhìn những cây cải vàng hay cây hoa tam giác mạch, mọc len lên từ một khe đá. Những cây thân thảo, gầy guộc chồi ra dưới những hòn đá tảng.
Sức nặng ngàn cân không làm nhụt đi niềm khao sát sống của chúng. Rễ của chúng choãi ra, thân cây cong lại uốn lượn để rồi khi tìm được không gian thích hợp chúng sẽ vươn thẳng theo hướng mặt trời. Và mặc dù sống trong môi trường cằn cỗi như thế thì lá của chúng vẫn xanh ngắt và những nụ hoa, bông hoa vẫn rạng rỡ, mơn mởn như đôi má của người con gái vùng cao.
Và với sức sống mãnh liệt như thế, bạn không ngạc nhiên chút nào đâu, khi ở trên độ cao cả ngàn mét so với mực nước biển, lâu lâu bạn lại bắt gặp cả một rừng hoa: Vàng hoa cải, Hồng hoa tam giác mạch, Trắng hoa Mận, hoa Mơ.
Những rừng hoa rực rỡ hay e ấp nằm lọt thỏm giữa những cột đá sừng sững khiến tôi nhớ đến cái tên rất hình tượng của một bộ phim xưa cũ: “Ngọc trong đá”.
Với tôi Hoa cỏ ở đây, Con người ở đây chính là những hạt ngọc. Ngọc trong Đá!
Cứ thế, hết buổi sáng rồi xuyên trưa, trong tiết Xuân ấm áp tôi đi mà như trôi, qua những cung đường đèo hiểm trở và kỳ vĩ, qua những ngôi nhà đá với những cây đào, cây mận nép bên hiên, qua những thung ngô, thung lúa rập rờn như sóng, qua cả những con vực sâu thăm thẳm với dòng sông nhỏ xanh biếc uốn cong.
Để rồi cuối cùng, khi ánh hoàng hôn dần buông, tôi đã đến được nơi tôi mong đến nhất. Cột cờ Tổ quốc Lũng Cú nằm trên đỉnh ngọn núi Rồng cao gần 1.500m so với mực nước biển. Đây là đỉnh cao nhất của cực Bắc, là biểu tượng chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc tôi:
Nếu có một nơi nào cho ta cảm xúc nhất để cất lên hai tiếng “Tổ quốc” thì hẳn đây đúng là nơi đó rồi: Hùng vĩ mà lại nên thơ, hoang sơ nhưng rất gần gũi.
Đứng ở đây, dưới là cờ phần phật tung bay trong gió, tôi thấy mình như ôm trọn được chiều dài của mảnh đất quê hương; như con chim tự do sải cánh, tôi bay qua đồng bằng, qua vùng biển, qua cao nguyên và lại qua đồng bằng và kết thúc tại điểm cực Nam Đất Mũi.
Đứng ở đây, nơi địa đầu biên cương, nơi biết bao người con đã nằm xuống để bảo vệ từng tấc đất quê hương tôi mới cảm nhận được hơn bao giờ hết cái gọi là “Tình yêu Tổ Quốc”:
Tôi yêu Tổ quốc – một mối tình kỳ lạ
Không nghe theo lý trí nơi tôi
Bao vinh quang từng đổi máu xương rơiVà thanh bình đầy tự hào tin cẩn
Và tập tục tự ngàn xưa thăm thẳm
Không khuấy lên niềm ước vọng trong tôi.
Sự bồi hồi và xúc động nhắc tôi nhớ đến những vần thơ của nhà thơ Nga Mikhail Lermontov và giai điệu piano thánh thót cung đàn mùa Xuân của nhạc sĩ thiên tài Chopin. Một người con Ba Lan vì nhiều lý do đã phải sống ở nước ngoài từ khi còn trẻ .
Nhưng ngần ấy thời gian không làm phai nhòa trong trái tim của người nhạc sĩ tình yêu với Quê hương xứ sở, để rồi trước khi trút hơi thở cuối cùng ông đã khẩn cầu: “Hãy mang trái tim tôi trở về với Tổ quốc! Và hãy rải lên nắp áo quan nắm đất của đất nước Ba Lan mà tôi đã giữ gìn như bảo vật suốt 20 năm trời xa xứ…”
Trong ánh chiều tà biên giới, chắc cũng như tôi, ai đó đã cảm khái mà khe khẽ
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào xanh hơn
Như tiếng chim hót gọiNhư chồi non cỏ biếc
Như rừng cây của lá
Như tình yêu đôi ta.Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào cao hơnNhư đầu sông đầu suối
Như đầu mây đầu gió
Như quê ta ngọn núi
Như đất trời biên cương.
Lòng yêu nước đã có ở chúng ta hàng ngàn năm. Sự hiện diện và sức hấp dẫn nồng nhiệt của nó được thể hiện rõ ràng trong bài diễn văn tang lễ cảm động của Pericles, được đọc vào năm 430 trước Công nguyên , cuối năm đầu tiên của Chiến tranh Peloponnesian.
Tuy nhiên, đây không thể là sự xuất hiện đầu tiên của chủ nghĩa yêu nước, ngay cả khi chính những người Hy Lạp này đã để lại cho chúng ta từ “chủ nghĩa yêu nước” (pater=cha, patris=tổ quốc, patriotism=love of fatherland). Lòng yêu nước chắc hẳn đã hiện diện trong mọi xã hội loài người – trước thời Pericles cũng như sau này – đã duy trì thành công sự gắn kết xã hội và khơi gợi sự hy sinh cá nhân, đặc biệt là trong những giai đoạn nguy hiểm.
Chủ nghĩa yêu nước ngày nay không kém phần rõ ràng so với thời Athens của Pericles. Thật vậy, các biểu tượng và chủ đề yêu nước hiện diện hàng ngày trong cuộc sống của hầu hết mọi người đương thời. Bản thân sự phổ biến của những biểu tượng và chủ đề này đã khiến lòng yêu nước trở thành một chủ đề nghiên cứu khoa học quan trọng.
Tuy nhiên, trong một thế giới bị đe dọa bởi dân số quá đông, cạn kiệt tài nguyên, tàn phá môi trường và chiến tranh thảm khốc có thể xảy ra, việc hiểu rõ hơn về lòng yêu nước thực sự có thể là điều cần thiết cho sự sống còn của con người. Thương hiệu của lòng yêu nước từng phục vụ lợi ích của nhiều người trong quá khứ ngày nay có thể góp phần vào sự tuyệt chủng của loài người.
Lòng yêu nước, được định nghĩa rộng rãi và theo hành vi, là một hiện tượng tự nhiên được tìm thấy ở những nơi khác trong hệ thống phân cấp của cuộc sống và trong số tất cả các loài động vật có tính xã hội. Trong con người, lòng yêu nước ít nhất là ở dạng thô sơ có lẽ hiện diện trong mọi xã hội loài người.
Hiện tượng này có chức năng giống nhau trong mọi xã hội và dường như hoạt động trên cơ sở các cơ chế hành vi cơ bản giống nhau. Việc mở rộng và phát triển các cơ chế này đã giúp con người xây dựng nên những xã hội khổng lồ thống trị toàn cầu ngày nay. Sự mở rộng và xây dựng tương tự trong tương lai có thể giúp chúng ta xây dựng một hệ thống chính trị toàn cầu có thể làm giảm nguy cơ chúng ta sẽ là tác nhân gây ra sự tuyệt chủng của chính mình.
I vow to thee my country-all earthly things above-
Entire and whole and perfect, the service of my love,
The love that asks no questions: the love that stands the test,
That lays upon the altar the dearest and the best:
The love that never falters, the love that pays the price,The love that makes undaunted the final sacrifice.
Cecil Spring-Rice
(Daniel Bar – Tal)