Mùa chim én bay (6)

by Rose & Cactus

Hôm nay là thứ bảy các bạn nhỉ, cuối tuần thích nhất ăn ngủ cứ là tẹt ga :)). Mình giờ lớn tuổi rồi thứ nào thì cũng như nhau thôi đúng giờ đó là mở mắt bật dậy, trách chi ngày xưa cứ thắc mắc sao ông bà dậy sớm thế 3-4h sáng các cụ đã lục tục gấp chăn màn rồi, dù trời có lạnh giá thế nào. Tuổi nào có nhịp sinh học của tuổi đó là vậy

Mình dậy lấy nguyên liệu làm món PHỞ, món ăn sáng yêu thích. Nói chung là các món thuần Ta như Bún, Phở, Hủ tiếu, Bánh canh, Miến, Bánh cuốn, bánh giò, bánh nếp, bánh trôi, bánh chay, bánh đúc, bánh xèo, bánh bột lọc, bánh nậm, bánh ít…đều là những món mình xin được “ Em muốn sống bên (các) anh trọn đời” :)), quanh năm ngày tháng ăn cũng được.

Chứ các món Tây thì em xin chịu :)), pizza, hamburger hay xúc xích nói các bạn không tin chứ số lần mình mua từ xưa đến giờ chắc đếm trên đầu ngón tay vì cả nhà không ai thích ăn.

Mì Sợi Ý, mì  Hàn Quốc ư? Cũng vậy luôn, vác về lần nào cũng vứt xó trong góc tủ cả năm vì nấu không hết. Tại ăn không thấy ngon bằng mỳ tôm…Việt Nam, thật đấy các bạn ạ ăn gói mỳ Miliket hay Hảo hảo rẻ hơn đến 5-7 lần mà sao vẫn thấy đã hơn hẳn so với các thể loại mỳ tôm cao cấp kia.

Hay là mình nông dân quá nhỉ? Có bạn nào giống mình không ?

Ở xứ ôn đới bốn mùa thì thời điểm này đang là giữa mùa Xuân chứ thành phố chúng ta chỉ có hai mùa Mưa và Nắng. Và mình và các bạn đang được sống giữa mùa nắng. Nắng từ sáng sớm đến chiều tối.

Nắng suốt trong 6 tháng nên mùa này độ ẩm cực thấp. Rất may mắn là dù thừa nắng nhưng chúng ta không thiếu gió (tự nhiên) nên trước bình minh và sau hoàng hôn khí hậu vẫn vô cùng dễ chịu, với nhiệt độ vừa phải và mát mẻ.

Thế nên sống ở đây việc dậy sớm không phải là điều khó. Mình dậy rồi, chắc mấy người hàng xóm bên cạnh cũng đã “Chào buổi sáng” vì mình nghe tiếng PIANO vọng sang từ một nhà nào đó:

Vì biết đâu bỗng em thấy đôi chân mỏi mệt
Biết đâu bỗng em thấy sông thương cạn kiệt

Tiếng đàn và tiếng hát hay quá! Sao ai lại lục lại cái bài hát từ lâu lẩu lầu lâu rồi thế nhỉ, dễ đến hơn hai chục năm rồi mình mới gặp lại giai điệu này, kể từ cái thời sinh viên tươi đẹp ấy. 

Vì biết đâu có đôi lúc em xa vời vợi
Biết đâu có đôi lúc con tim nghẹn lời

 Mình khi nấu xong món phở phải chạy đến bật ngay để nghe giai điệu ca khúc, được đệm piano thánh thót, một thời cả phòng mình (ở ký túc xá) nghe đi nghe lại cả ngàn lần cho đến phát chán mới thôi ấy

Và em sẽ cất cánh tung trời hoá thân giấc mơ
Và em sẽ cất cánh phương nào thênh thang mây khói

Cũng  như các món ăn Việt, nhạc Việt nhiều bài phải nói rất hay đấy! Các bạn công nhận không?

 Ah, nhưng có một thứ mình vẫn hơi tiếc

Là trong buổi sáng Tết Nguyên tiêu đẹp thế này, chúng mình có PHỞ để ăn, có nhạc PIANO để nghe,

Mà lại thiếu hoa ĐÀO để ngắm :))

Tết Nguyên tiêu

Dương cầm và Phở,

Lại vắng Đào phai

TẾT NGUYÊN TIÊU

by Latsch, Marie-Luise

Tết nguyên tiêu, nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới, “Nguyên” nghĩa là thứ nhất, “Tiêu” nghĩa là đêm. Ngoài ra tết Nguyên tiêu còn được gọi là tết Thượng nguyên để phân biệt với tết Trung nguyên (Rằm tháng Bảy) và tết Hạ nguyên (Rằm tháng Mười).

Hay có một cách gọi khác là Lễ hội đèn lồng

Vào thời xa xưa, lễ kỷ niệm bắt đầu vài ngày sau ngày đầu tiên của năm mới và thường tiếp tục cho đến khoảng ngày 18, thậm chí có thể lâu hơn ở một số vùng nông thôn, do đó đưa mùa Lễ hội mùa xuân lên đến cao trào. Người dân trong mỗi hộ gia đình tổ chức lễ đơn giản hoặc cầu kỳ phù hợp với khả năng tài chính và trình độ văn hóa của mình.

Nguồn gốc và sự phát triển

 Lễ hội đèn lồng dường như có nguồn gốc từ thời cổ đại như một nghi lễ báo hiệu ánh sáng ngày càng tăng và sự ấm áp của mặt trời sau cái lạnh của mùa đông; Một khả năng khác là ban đầu nó là lễ cầu mưa cho vụ trồng trọt mùa xuân. Các ghi chép lịch sử từ nhiều thời kỳ khác nhau có niên đại từ thời nhà Hán (206B.C-220A.D) phản ánh những thay đổi về nội dung của lễ hội đèn lồng qua các giai đoạn.

Trong triều đại nhà Hán, nó được mô tả là dịp tổ chức các nghi lễ hiến tế để tôn vinh Thái Nhất, Thần của sao Bắc cực, người được tôn kính đặc biệt vì ông là hiện thân của Hai nguyên lý Âm và Dương, các yếu tố âm và dương, và không bao giờ thay đổi vị trí của mình trong mối quan hệ với phần còn lại của vũ trụ.

Một tài liệu muộn hơn nhiều từ thời Nam Bắc triều (420-589 sau Công Nguyên), mô tả các hoàng đế làm thơ ca ngợi sự lộng lẫy của những chiếc đèn lồng được trang trí, cho thấy rõ rằng nội dung của các hoạt động Lễ hội đèn lồng đã thay đổi so với trọng tâm trước đó, trong các buổi lễ sùng kính.

Trong những ngày cuối cùng của triều đại nhà Tùy (581-618 sau Công nguyên), Hoàng đế Yang Di, để thể hiện sự giàu có của vương quốc, đã mời nhiều thương nhân nước ngoài đến tham dự một buổi dạ tiệc nhạc kịch ở thủ đô để đánh dấu Lễ hội đèn lồng.

Các sân khấu được dựng lên ở hai bên con phố đông đúc nhất thành phố với khoảng cách hơn ba dặm. Ba nghìn diễn viên và 18 nghìn nhạc sĩ đã tham gia vào chuỗi buổi biểu diễn đáng chú ý kéo dài đến ngày trăng tròn này, chỉ có thời gian nghỉ ngắn để ngủ và ăn.

Khi Lý Thế Dân, hoàng đế thứ hai và là người sáng lập thực sự của nhà Đường, vượt qua sự phản đối của tất cả các công quốc đối địch nổi lên sau sự  tan rã của nhà Tùy và thiết lập quyền lực quốc gia của nhà Đường mới, ông đã đình chỉ tất cả các lễ kỷ niệm Lễ hội đèn lồng trong một số năm. Với sự thịnh vượng được củng cố, giai cấp thống trị cho rằng lễ hội dân gian nổi tiếng này có thể là cơ hội để người dân thể hiện niềm vui trước sự lập lại hòa bình và thịnh vượng và để những người cai trị chia sẻ niềm vui của người dân.

Vì vậy, người ta đã ra lệnh tiếp tục các lễ kỷ niệm. Nhân dịp này, nhà nước đã dỡ bỏ lệnh giới nghiêm vào ban đêm vốn được áp đặt để ngăn chặn dân thường nổi dậy. Không chỉ trong đêm lễ hội mà trong một vài ngày , người dân còn được tham gia lễ kỷ niệm và ngắm nhìn những chiếc đèn lồng được trang trí đẹp mắt. Trong thời gian diễn ra lễ hội, có đông đảo cận thần đi theo, tham gia các hoạt động.

Mô tả về một lễ hội đèn lồng nào đó trong một cuốn sách xuất bản năm 1868 có nội dung: “Việc bán những chiếc đèn lồng giấy lạ mắt trước Lễ hội đèn lồng thường bắt đầu vào khoảng ngày 10 hoặc 11 và đạt đến đỉnh điểm vào tối ngày 14 hoặc 15. Buổi tối là thời điểm người ta trưng bày đèn nhiều nhất  để thu hút người mua và khi đường phố đông đúc hơn với người xem và người mua.

Một số đèn lồng có hình khối, một số khác có hình tròn như quả bóng, hình vuông, phẳng và mỏng hoặc thuôn dài hoặc có hình dạng của nhiều loài động vật khác nhau, bốn chân và hai chân. Một số được chế tạo một cách khéo léo để lăn trên mặt đất như một quả cầu lửa; một số khác như gà trống và ngựa, được tạo ra để di chuyển bằng bánh xe; vẫn còn những thứ khác khi được thắp sáng bởi ngọn nến hoặc đất, có chuyển động quay hoặc quay tròn của một số vật bên trong chúng.         

     “…Một số được làm chủ yếu bằng giấy đỏ, trên đó có những hàng lỗ nhỏ, để tạo thành một ký tự Trung Quốc mang ý nghĩa tốt lành, như hạnh phúc hay trường thọ. Những thứ này khi được thắp sáng sẽ khiến hình dáng của nhân vật rất rõ ràng. Những chiếc đèn lồng khác có dạng hình người và nhằm tượng trưng cho trẻ em hoặc một số đồ vật thờ cúng, như Nữ thần của Lòng thương xót; một số được thiết kế để cầm trên tay, một số khác được gắn trên tường. Chúng được sơn cầu kỳ với các màu xanh, đỏ và vàng, màu đỏ thường chiếm ưu thế, vì đó là biểu tượng của niềm vui và lễ hội. Những thứ đắt tiền nhất và đẹp nhất đều được phủ bằng gạc trắng hoặc lụa trắng mỏng, trên đó vẽ những cảnh lịch sử hoặc các nhân vật cá nhân một cách tinh tế….

Bản dịch năm 1936 của Derk Bodde về Phong tục và Lễ hội hàng năm ở Bắc Kinh, do Dun Lichen viết năm 1900, mô tả khung cảnh lúc đó. “Trong khi tất cả các cửa hàng đều trưng bày đèn lồng, thì những chiếc đèn lồng ở những con phố như Dong Si Pailou và Di An Men, có nhiều nhất —- Có những chiếc đèn lồng đủ màu sắc, được làm từ những chất liệu như lụa, thủy tinh, và chiếc sừng trong suốt, vẽ những cảnh trong truyền thuyết cũ và mới ……Những thương gia tài tình đã tạo ra những đồ vật được đúc từ băng, và từ những mầm lúa mì non, những hình vẽ hoa văn về người và động vật.”

 Phong tục lễ hội

Ngày xưa, những người khá giả sẽ trang trí nhà cửa rực rỡ nhất có thể bằng đèn lồng và còn đốt nhiều pháo. Pháo hoa được sản xuất đủ loại, như hộp nhỏ, chậu hoa, cột tên lửa lửa và khói, “hoa mẫu đơn xâu chuỗi”, “hoa sen rưới nước”, “trăng rơi”, “vòng nho”, “cờ lửa”, và nhiều thứ khác. “Hoa bạc” và “Cây lửa” có lẽ là phổ biến nhất. Các hộ gia đình giàu có và nổi tiếng cạnh tranh nhau mua pháo hoa các loại.

Tục lệ thông thường vào tối ngày 15 là một gia đình dâng lời cầu nguyện lên một số vị thần và sau đó tổ chức một bữa tiệc lớn trong cảnh vui chơi và say sưa. Thêm vào đó, những người phụ nữ đã lập gia đình và được tôn trọng, thì được đi chơi nhiều hơn vào buổi tối hôm đó có lẽ hơn bất kỳ thời điểm nào khác.

Thông thường họ bị giới hạn nghiêm ngặt trong nhà; vì Lễ hội đèn lồng nên họ có thể ra ngoài vào buổi tối để xem trưng bày đèn lồng.Nhiều phong tục liên quan đến Lễ hội đèn lồng liên quan đến việc ăn uống, điều này đúng với hầu hết các lễ hội truyền thống của Trung Quốc. Một phong tục như vậy được gọi là “ăn khoai môn dưới đèn lồng”. Đầu tiên, một lượng khoai môn sẽ được đun sôi cho đến khi mềm.

Gần nửa đêm, tất cả các thành viên trong gia đình, già trẻ, nam nữ, tụ tập dưới ánh sáng rực rỡ nhất lơ lửng trên cao và bắt đầu ăn món khoai môn được cung cấp. Một số người nói rằng bằng cách này họ có thể trở nên sáng suốt. Những người khác cho rằng phong tục này được thực hiện để tránh sự chuyển sinh của linh hồn mà những người theo đạo Phật tin rằng sau cái chết của một người.

Ở một số vùng trồng bông, người ta thường nặn những quả bông từ bột mì và dán chúng trên đồng. Sau đó, với những cây nhang đang cháy trên tay, họ đi bộ qua cánh đồng, hy vọng bằng cách này sẽ có được một vụ thu hoạch bông tốt.

Sau khi buổi lễ hoàn thành, những quả bông giả sẽ được chia cho bọn trẻ với niềm tin rằng chúng sẽ được bảo vệ khỏi nguy hiểm.Tuy nhiên, một phong tục khác liên quan đến thực phẩm phổ biến cả xưa và nay là ăn chè trôi nước, những viên bột gạo nếp với nhân ngọt trong bát nước cốt.Ở Phúc Kiến và các tỉnh khác, các gia đình sẽ treo số  đèn lồng bằng số lượng thành viên trong gia đình.

Để bày tỏ mong muốn có thêm con, họ sẽ trưng thêm nhiều đèn lồng.Lễ hội đèn lồng tất nhiên không chỉ có nghĩa là ăn uống đối với người Trung Quốc.Ngoài ra còn có nhiều loại hình biểu diễn đầy màu sắc và thú vị để mọi người thưởng thức, chẳng hạn như múa cà kheo, yao gu (trống lưng), múa thuyền và múa lừa.

Phổ biến nhất là múa rồng và múa sư tử, mặc dù các vũ công cà kheo với tinh thần lễ hội của họ rất được yêu thích. Đây là những nhóm đàn ông, một số có râu giả và mặt sơn vẽ, số khác cải trang thành phụ nữ, thay đổi và nhảy múa với dáng đi ngộ nghĩnh.

Ở vùng Triều Châu và Sán Đầu của tỉnh Quảng Đông, đu quay và vòng xoay ngựa gỗ là những hình thức giải trí phổ biến. Được cho là có nguồn gốc từ thời nhà Đường, những trò chơi này sau đó được du nhập vào Hàn Quốc, nơi những phụ nữ trẻ vẫn theo phong tục chơi xích đu vào thời điểm Lễ hội đèn lồng.

Những trò chơi này từ lâu đã mất đi ý nghĩa tôn giáo ban đầu, vốn liên quan đến việc ngăn ngừa bệnh dịch.Múa sư tử, có lẽ là điệu múa được người dân Trung Quốc yêu thích nhất, có lẽ bắt nguồn từ những nghệ sĩ tung hứng và huấn luyện động vật lưu động của Ấn Độ, những người lần đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc vào thời nhà Đường. Vì không có sư tử sống nên một con sư tử bằng vải sẽ phù hợp với mục đích của họ.

Một người đàn ông sẽ điều khiển phần đầu bằng gỗ và một người khác điều khiển phần thân sau, họ đã phát triển một điệu nhảy tên là Trò chơi sư tử, hình thức đầu tiên của nó là một nghi lễ đuổi quỷ. Sư tử tượng trưng cho một vị Bồ Tát và đóng vai trò là người bảo vệ Phật giáo.Ở các vùng nông thôn và thành thị của Trung Quốc, có rất nhiều đoàn múa sư tử diễu hành trên đường phố hoặc đi từ làng này sang làng khác.

Mỗi đoàn có thể bao gồm một hoặc hai con sư tử, hai vũ công ở đó dụ chúng bằng những quả bóng thêu lớn thay cho ngọc trai, và một số nhạc công đánh chiêng và trống.Ngày nay, ở Trung Quốc, nơi mà người dân thành phố có thể xem múa lân nhiều nhất là tại một buổi biểu diễn nhào lộn.

Trước sự thích thú của người xem, sư tử xanh và sư tử vàng nhảy múa, lăn lộn trên sân khấu để đuổi theo những viên ngọc trai, thể hiện sự nhanh nhẹn đáng chú ý với nhãn cầu đảo, lưỡi thè ra, quai hàm và tiếng chuông leng keng. Một trò chơi văn học từng rất được ưa chuộng trong tầng lớp giáo dục lớn tuổi vào tối ngày 15 có tên là “Đoán đèn lồng. Một số câu đố đầu tiên sẽ được viết trên những tờ giấy, sau đó dán lên những chiếc đèn lồng treo trước nhà hoặc bên trong nhà.

Nếu được yêu cầu bởi các câu đố cụ thể, đôi khi có thể treo các manh mối cartain trên đèn lồng. Những thứ này được gọi là Mi Mian (mặt của câu đố) và đã viết trên đó manh mối dẫn đến lời giải chính xác của câu đố, chẳng hạn như một ký tự Trung Quốc, một dòng thơ, tên của một người nổi tiếng hoặc một địa danh.

Ai đoán đúng sẽ được thưởng ngay tại chỗ. Thường thì các câu đố là những ám chỉ rất mơ hồ và cực kỳ khó giải mã. Người nước ngoài, ngay cả những người thông thạo văn học và các vấn đề Trung Quốc, gần như chắc chắn sẽ không thể trả lời chính xác.

Nhật ký William,

Feb 24

Hôm nay là Tết nguyên tiêu, ngày rằm đầu tiên trong năm từ lâu đã được coi là một lễ hội mùa Xuân quan trọng: “Cả năm có rằm tháng Bảy, cả thảy có rằm tháng Giêng”

Thấm thoát gần đến tiết nguyên tiêu, từ mồng tám tháng giêng trở đi đã có viên thái giám đến xem xét phương hướng: chỗ thay áo, chỗ ngồi chơi, chỗ nhận lễ, chỗ ăn tiệc, chỗ nghỉ ngơi.

Lại có viên thái giám tổng quản lý quan phòng đem bọn thái giám nhỏ đến xem xét chỗ canh gác, chỗ căng màn, và dặn bảo người nhà họ Giả các nghi lễ như chỗ nào phải lui ra, chỗ nào quỳ, chỗ nào dâng món ăn, chỗ nào tâu việc. Bên ngoài lại có nhân viên bộ công và ty ngũ thành binh mã phải đến quét dọn đường sá, ngăn cấm những người không có chức vụ qua lại.

Bọn Giả Xá thì đốc thúc những thợ làm đèn đuốc. Mãi đến ngày mười bốn, mọi việc mới xếp đặt xong. Đêm hôm ấy, không một ai được chợp mắt.

Hôm rằm, đầu canh năm, từ Giả mẫu trở xuống, theo chức tước mặc phẩm phục đại trào. Trong vườn Đại quan, màn rồng, rèm phượng, vàng bạc châu báu choáng lên khắp nơi.
Đỉnh đốt hương bách hợp, lọ cắm hoa trường xuân, bốn bề im lặng như tờ, không một tiếng động. Bọn Giả Xá đứng ngoài cửa Tây, bọn Giả mẫu đứng ở ngoài cửa chính phủ Vinh. Đầu đường cuối ngõ mùng màn che kín. Đang lúc chờ lâu sốt ruột, chợt có một viên thái giám cưỡi ngựa đến, Giả Chính đón hỏi tin tức.

Viên thái giám nói:
– Hãy còn sớm chán, đầu giờ mùi ngự cơm chiều, giữa giờ mùi đến lễ phật ở cung Bảo Linh, đầu giờ dậu vào cung Đại Minh hầu yến, xem đèn rồi mới xin thánh chỉ về, có lẽ đầu giờ tuất mới bắt đầu đi.
Phượng Thư nghe xong, nói:
– Thế thì mời bà và mẹ hãy về buồng nghỉ, chờ lúc ấy sẽ ra cũng không muộn.
Giả mẫu trở về. Công việc trong vườn đều do Phượng Thư trông nom. Những người coi việc, mời bọn thái giám đi ăn uống, sau đó bảo người nhà gánh từng gánh nến đi thắp ở các nơi.

Chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa chạy rầm rập, chừng mười viên thái giám thở hồng hộc đến vẫy tay ra hiệu. Bọn thái giám ở đấy biết là quý phi sắp đến, đều theo phương hướng đứng xếp hàng. Giả Xá dẫn con cháu trong họ đứng chực ngoài cửa Tây.

Giả mẫu dẫn đám đàn bà trong họ đứng ở ngoài cửa chính đón tiếp. Lặng lẽ một lúc, thấy hai viên thái giám đi từ từ đến cửa Tây, xuống ngựa đem buộc ở ngoài chỗ quây màn rồi ngoảnh mặt về phía tây, buông thõng tay đứng chực. Chốc sau lại có hai viên nữa.

Rồi cứ thế lần lượt tới gần mười đôi, khi ấy mới nghe văng vẳng có tiếng âm nhạc từ đằng xa vọng lại. Rồi từng đôi một cầm quạt phượng, cờ rồng, lông trĩ, quạt rồng, và lẵng vàng đốt trầm hương.

Theo sau là một cái tán vàng thêu bảy con phượng, che mũ, áo, đai, giày. Lại có bọn thái giám mang khăn tay. Ống nhổ, phất trần cũng từng đôi một lũ lượt đi qua. Sau cùng là tám viên thái giám rước cỗ xe loan thêu phượng màu vàng từ tử đi đến.

Giả mẫu vội quỳ xuống, có ngay bọn thái giám đến đỡ dậy. Xe loan đi vào cửa chính, rẽ sang phía đông, đến trước một nhà, có viên thái giám quì xuống, mời quí phi xuống xe thay áo. Khi vào đến cửa, bọn thái giám lui ra, chỉ có Tiêu Dung, Thái Tần  đỡ Nguyên Xuân xuống xe.

Trong vườn, đèn hoa sáng rực, đều làm bằng the lụa cực kỳ tinh xảo, trên treo một cái biển căng đèn, viết bốn chữ: “thể nhàn mộc đức”
Nguyên Xuân vào thay áo rồi lại lên xe ra thăm vườn: khói thơm nghi ngút, bóng hòa rập rờn, chỗ nào cũng đèn sáng chói lọi, lúc nào cũng tiếng nhạc du dương, thật là cảnh tượng thái bình, phong lưu phú quí, nói không xiết được!

Nhớ lại những ngày ở dưới núi Thanh Ngạnh trong dãy núi Đại Hoang, mình sao mà buồn rầu tịch mịch vậy! Nếu không nhờ nhà sư chốc đầu và đạo sĩ khiễng chân mang đến đây, thì làm gì mình được thấy cái thế giới này. Muốn làm một bài phú đèn trăng, bài tụng tinh nhân, để ghi lại việc hôm nay, nhưng lại sợ vướng vào khuôn sáo của các sách.

Với quang cảnh ấy, dù có làm bài phú, bài tụng, cũng không thể hình dung hết cái đẹp của nó; mà không làm thì những hào hoa mỹ lệ, chắc độc giả cũng có thể tưởng tượng ra được. Cho nên xin bớt đi, khỏi phải dài dòng, để quay về ý chính là hơn.

Giả phi ngồi trên kiệu trông thấy quang cảnh trong và ngoài vườn, lẳng lặng thở dài: “Xa hoa quá”. Chợt viên thái giám quì mời lên thuyền. Giả phi xuống kiệu, chỉ thấy một dòng nước trong uốn khúc như rồng lượn, hai bên bờ đá, treo các thứ đèn bằng thủy tinh hoặc pha lê, sáng như bạc, trắng như tuyết.

Khắp trên cành cây liễu, cây hạnh, đều kết hoa giả bằng giấy lụa và thông thảo treo hàng bao nhiêu ngọn đèn. Dưới nước có những đèn hình hoa sen, hoa ấu, con le, con cò, đều làm bằng vỏ trai, ốc hoặc lông chim. Trên dưới đua sáng, trời nước một màu, thực là một thế giới lưu ly.

Trên thuyền lại có các chậu hoa, các thứ đèn cực kỳ tinh xảo, rèm châu, màn gấm, chèo quế, sào lan, không cần phải nói nhiều… Vào bến đá, có một cái biển đèn đề bốn chữ: “Liễu đình hoa tự”.

Bạn đọc thử xem, những chữ: “liễu đình hoa tự”, “hữu phượng lai nghi”. Chỉ là những chữ Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, sao lại đem ra đề thực? Họ Giả lại là một nhà nền nếp thi thư, bạn bè qua lại đều là những tay tài giỏi, làm gì chả có mấy người đứng ra đề vịnh, sao lại lấy những câu của chú bé con để lấp liếm cho qua?

Như vậy khác nào bọn hào phú, quẳng tiền ra, chuốc những chuyện tô son điểm phấn, như loại: Trước cửa khóa vàng cây liễu lục; sau nhà bình gấm chặng non xanh; và cho đó là nhã. Đằng này, hai phủ Ninh, Vinh mà suốt cuốn thạch đầu đã nêu ra thì không phải như vậy. Xem thế, đủ thấy trái ngược rất xa. Độc giả chưa hiểu, để vật ngu xuẩn nói rõ đầu đuôi cho hay.

Nguyên là Giả phi lúc bé được Giả mẫu nuôi dạy. Sau thêm được Bảo Ngọc. Giả phi là chị cả, Bảo Ngọc là em út. Giả phi nghĩ mẹ tuổi đã cao, mới sinh được đứa em nhỏ, nên rất thương yêu Bảo Ngọc, khác hẳn mọi người. Vả lại, chị em cùng ở với Giả mẫu, không rời nhau lúc nào.

(Trích Hồi thứ 18 – Hồng Lâu Mộng)

Khi Bảo Ngọc mới ba, bốn tuổi, chưa đi học, đã được Giả phi dạy truyền khẩu, thuộc lòng mấy quyển sách, biết đến mấy nghìn chữ.

Tuy là chị em, nhưng chẳng khác gì mẹ với con. Sau khi vào cung, Giả phi thường nhắn tin cho cha mẹ: “Cần phải nuôi dạy Bảo Ngọc cẩn thận, không nghiêm thì sau này không thành người, nhưng nghiêm quá lại sợ xảy ra sự bất trắc, làm cho cha mẹ lo buồn”.

Lòng quyến luyến của Giả phi đối với Bảo Ngọc thật là không khuây chút nào. Mấy hôm trước, thấy thầy học khen Bảo Ngọc tài tình, Giả Chính chưa tin, nhân lúc vào thăm vườn, liền bắt đề thơ, để xem ý tứ hay dở thế nào. Ông ta nghĩ: “Câu đối, biển đề” có nhờ ngòi bút của bậc đại tài cũng chẳng khó gì.

Song trẻ con làm ra, tuy không hay lắm, cũng có chỗ đáng lấy và có phong vị của nhà mình hơn”. Mặt khác, ông ta cũng muốn để Giả phi biết rằng: những câu đề vịnh này là của em nhỏ nghĩ ra, để khỏi phụ lòng Giả phi ngày thường mong mỏi. Vì thế ông ta mới để những câu đó lại. Còn chỗ nào hôm trước chưa đề, về sau đều đề thêm cả.
Giả phi xem bốn chữ này cười nói:
– Hai chữ “hoa tự” là được rồi, cần gì phả thêm “liễu đình” nữa?

Thái giám đứng hầu nghe vậy, vội lên bờ truyền cho Giả Chính. Giả Chính lập tức cho viết lại.
Bấy giờ thuyền đến bờ, ghé lại. Giả phi lên xe, thấy cung điện nguy nga, trên bức hoảnh viết bốn chữ lớn: “Thiên tiên bảo cảnh” Giả Phi sai đổi là: “Tinh thân biệt thự”, rồi tiến vào hành cung.

Ở đây, đèn đuốc rực trời, hương thơm nhát đất, cây lửa, hoa kỳ, cửa vàng, cột ngọc, rèm cuốn bằng móc râu tôm, đệm giải bằng da rái cá, đỉnh tỏa mùi xạ hương, tường treo quạt đuôi trĩ. Thực là: “Chốn thần tiền cửa vàng lầu ngọc, nhà hoàng phi đền quế, cung lan”

Giả phi hỏi:
– Tại sao nơi này không đề biển?
Thái giám đi theo hầu, quì tâu:
– Đấy là chính điện, không dám tự tiện đề trước.

Giả phi gật đầu. Thái giám mời Giả phi ngồi nhận lễ. Hai bên thềm tấu nhạc. Hai viên thái giám dẫn bọn Giả Xá, Giả Chính xếp hàng ở dưới thềm. Chiêu Dung truyền dụ: “miễn lễ”. Mọi người lui ra. Lại dẫn bọn Giả mẫu từ thềm bên đông lên. Chiêu Dung lại truyền dụ: “miễn lễ”.

Mọi người lại lui ra. Ba tuần dáng trà xong. âm nhạc nghi. Giả phi xuống ngai, vào nhà bên thay áo, rồi lên xe ra vườn chơi. Đến nhà Giả mẫu, Giả phi muốn làm lễ gia đình, Giả mẫu quì xuống ngăn lại.

Thoạt gặp mặt nhau, Giả phi rỏ nước mắt, một tay nắm Giả mẫu một tay nắm Vương phu nhân. Ba người đều thổn thức, nói không ra lời. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Vương Hy Phượng, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đứng bên cạnh cũng đều rỏ nước mắt không nói gì. Một lúc Giả phi mới nén buồn, cười gượng an ủi:

– Ngày trước đã đưa tôi đến chỗ không bao giờ được về gặp người nhà, nay may được về đây, mẹ con lại không cười, không nói, cứ khóc! Chốc nữa tôi đi, biết bao giờ lại được gặp nhau?
Nói xong Giả phi không nhịn được, lại thổn thức khóc.

Hình phu nhân vội đến khuyên giải. Giả mẫu mời Giả phi về chỗ ngồi. Giả phi theo thứ tự hỏi han từng người, lại khóc một phen nữa. Rồi đến những người coi việc ở phủ đông, phủ tây đứng ngoài hiên làm lễ. Sau lần lượt đến bọn hầu đàn bà con gái. Giả phi hỏi:
– Dì Tiết, Bảo Thoa, Đại Ngọc ở đâu không đến.
Vương phu nhân thưa:
– Vì họ là ngoại, không có chức vị gì, nên không dám thiện tiện vào hầu.

Giả phi liền bảo mời vào. Một lúc, Tiết phu nhân vào, muốn theo quốc lễ, nhưng Giả phi truyền miễn cho, rồi cùng kể “Hành chi thanh phân”, trên gác, lên lầu, qua ngòi, quanh núi, nhìn ngắm quanh co, chỗ nào cũng trang hoàng lộng lẫy, cái gì cũng tô điểm mới lạ. Nguyên phi khen ngợi không ngớt, lại khuyên: “Làm thế này là quá lạm, lần sau không nên xa xỉ quá. Đến chính điện, Nguyên phi truyền miễn lễ, mọi người vào chỗ ngồi. Tiệc yến bắt đầu. Giả mẫu ngồi dưới tiếp, bọn Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư thì dâng canh, nâng chén.

Nguyên phi truyền lấy bút mực sẵn, tay mở giấy hoa tiên, chọn chỗ nào vừa ý thì đặt tên. Tên vườn thì đặt là “Đại quan viên” , biển ở chính diện đề là: “Cố ân tư nghĩa”

Câu đối đề:
Trời đất mở lòng nhân, con đỏ dân đen đều mến phục,
Xưa nay rộng ân điển, chín cháu muôn nước đội vinh quang.

Chỗ có biển đề: “Hữu phượng lai nghi” thì đặt tên là: “Tiêu Tương quán”  Chỗ đề: “Hồng hương lục ngọc”, thì đổi là: “Di hồng khoái lục” , và đặt tên là: “Di hồng viện”. Chỗ đề “Hành chí thanh phân” thì đặt tên là: “Hành vu uyển”. Chỗ đề: “Hạnh liêm tại vọng” thì đặt tên là: “Cán các sơn trang”  lầu giữa đặt tên là: “Đại quan lâu”.

Lầu bên đông đặt tên là: “Xuyết cẩm các” . Lầu bên tây đặt tên là: “Hàm phương ác”. Lại còn những tên “Lục phong hiên”, “Ngẫu hương tạ”, “Từ lang châu” , “Hành diệp chứ”. Biển đề có những chữ: “Lê hoa xuân vũ”, “Đồng tiễn thu phong” , “Địch lộ dạ tuyết” .

Nguyên phi lại truyền không nên bỏ những câu đối và bức hoành đã đề trước, rồi đề một bài tứ tuyệt như sau:
Non nước bao quanh khéo lạ lùng,
Biết bao công của mới làm xong.
Thợ trời thêm thợ người tô điểm,
Gọi Đại quan viên có xứng không?

Nguyên phi đề xong, cười bảo các chị em:
– Tôi xưa nay vẫn kém tài mẫn tiệp, không quen ngâm vịnh, các em đều đã biết cả. Đêm hôm nay gọi là nghĩ qua loa để khỏi phụ cảnh này thôi. Bao giờ rỗi tôi sẽ soạn bài “Đại quan viên ký” và bài “Tình thân tụng” để kỷ niệm ngày hôm nay. Chị em cũng nên mỗi người đề một cái biển, vịnh một bài thơ, chớ vì tài mọn của tôi mà phải gò bó. Bảo Ngọc cũng biết đề vịnh, điều ấy đáng mừng. Trong các nơi, ta thích nhất “quán Tiêu Tương” và “Hành Vu uyển” rồi đến “viện Di Hồng” và “Cát cân sơn trang”, bốn nơi này phải có thơ đề vịnh riêng mới được. Những câu đề trước tuy cũng khá, nhưng phải làm mỗi nơi một bài thơ, để ta thử tài tại chỗ, mới không phụ công ta vất vả dạy dỗ từ bé!

Bảo Ngọc vâng lời, lui ra nghĩ thơ.
Trong bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân thì Thám Xuân hơn cả. Nhưng biết trước không thể đua tài với họ Tiết, họ Lâm được, tuy nhiên, nàng cũng phải gắng gượng làm cho qua chuyện. Lý Hoàn cũng gắng sức làm một bài. Giả phi lần lượt xem:

Biển đề KHOÁNG TÍNH DI TÌNH
Phong cảnh vườn này thực lạ ghê.
Vâng lời đề biển, thẹn tay đề.
Cõi trần đâu có nơi nào thế,
Dạo cảnh ai là chẳng phải mê!
Nghênh Xuân

Biển đề VẠN TƯỢNG TRANH HUY 
Vườn này xây đắp thực nguy nga,
Vâng mệnh đề thơ thẹn bút hoa

Tinh xảo nhường nào không kể xiết,
Quả nhiên muôn vật đẹp thêm ra.
Thám Xuân

Biển đề VĂN CHƯƠNG TẠO HÓA
Non nước bao quanh mấy dăm dài,
Lâu đài cao ngất giữa từng mây.
Sánh cùng nhật nguyệt cùng tươi sáng,
Bác thợ trời kia cũng kém tài.
Tích Xuân

Biển đề VĂN THÁI PHONG LƯU
Bốn bề non nước cảnh chơi vơi,
So với Bồng lai đẹp tuyệt vời.
Quạt lướt màu xanh làn cỏ ngát,
Quần xòe sắc đỏ cánh hoa rơi.
Ngọc chờ đời thịnh càng lên giá.
Tiên ở đài dao lại xuống chơi.
Từ lúc vườn này chào khách quí,
Phàm trần đã đến được bao người Lý Hoàn

Biển đề NGƯNG HUY CHUNG THỤY 
Vườn hoa xây cạnh đế thành,
Một vùng trời đẹp mây lành lạ sao.
Rời hang oanh đã đậu cao,
Trúc kia đợi phượng múa chào cùng vui.
Gió văn thổi lúc ra chơi,
Thăm nhà trọn hiếu dạy người theo noi.
Tài tiên cao diêu tuyệt vời,
Thẹn mình còn dám thêm lời nữa sao?
Tiết Bảo Thoa

Biển đề THẾ NGOẠI TIÊN NGUYÊN 
Dạo chơi Người lại thêm vui,
Cõi tiên nào phải là nơi bụi hồng!
Đẹp thay mượn cảnh non sông,
Điểm tô cảnh lại lạ lùng đẹp hơn.
Rượu kim cúc ngát mùi hương,
Chào mừng người ngọc rõ ràng hoa tươi.
Mong sao trên đội ơn trời,
Vườn này thường được đón mời xe loan.
Lâm Đại Ngọc

Nguyên phi xem xong khen mãi, cười nói:
– Rút cục bài của em Tiết, em Lâm hơn hẳn các bài. Chị em chúng ta không ai bằng.

Ngay đêm ấy, Đại Ngọc định trổ hết tài át hẳn mọi người. Không ngờ Nguyên phi chỉ bảo đề mấy chữ hoành biển và một bài thơ, nên không dám trái lời, chỉ làm qua loa một bài thơ cho tác trách. 

(Trích Hồi thứ 18 – Hồng Lâu Mộng)

Mấy hôm nay, cùng với sự kiện hai bộ phim “Mốt” và “Mận, Bún và Violin” thành công vang dội là việc hai thằng bạn tôi nảy lòi ra làm thơ khiến tôi vui không sao tả xiết. Vậy là giờ đây, ngoài tình bằng hữu tôi còn có thêm những người bạn thơ để mà đàm đạo

From:Mr Xi Nê

 Chủ tịch Hội Điện Ảnh Tp. Vườn Địa Đàng

To: Mr William

Trước tiên, thay mặt những người làm phim chân thành cảm ơn sự quan tâm của Ông tới hai tác phẩm vừa được công chiếu trong những ngày Tết vừa qua. Là những người làm trong lĩnh vực Điện ảnh chúng tôi cũng vô cùng hạnh phúc vì sự thành công của “Mốt” và “Mận, Bún và Violin”.

Điều đó là minh chứng cho thấy một bộ phim nếu được làm một cách tâm huyết và chỉn chu trên tình thần tôn trọng người xem thì dù đâu đó còn có chỗ chưa hoàn thiện và thiếu sót nhưng cũng sẽ vẫn nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của Quý vị khán giả

Trong tương lai, tôi hy vọng các nhà làm phim chúng ta không ngừng học hỏi, trau dồi, nâng cao kiến thức tiếp cận gần hơn với các kỹ thuật tiên tiến của điện ảnh thế giới để cho thể cho ra những sản phẩm điện ảnh có giá trị cao, mang đậm dấu ấn đời sống và con người Việt. Và cũng nhằm góp thêm một món ăn tinh thần có chất lượng cho người dân “Vườn địa đàng” chúng ta

Với sự vui mừng khôn xiết, tôi hoàn toàn tán thành mong muốn của Ông về việc thành lập một Hiệp Hội thơ ca cho thành phố chúng ta!

Chúc ông thành công với kế hoạch của mình và đón một mùa Xuân luôn tràn đầy niềm vui!

Trên đây là thư của ngài chủ tịch bên điện ảnh mới gửi cho tôi tối hôm qua. Suốt đêm tối lại mất 1/2 của 13 giờ không ngủ :)) để suy nghĩ về cái tên cho Hội thơ của mình. Để chính thức hôm nay, ngày Tết nguyên tiêu, ngày mà những người yêu vẻ đẹp của nghệ thuật thi ca thường có cảm hứng họa lên, vịnh lên những khúc ca ngân tươi đẹp, tôi xin công bố  HỘI THƠ THÀNH PHỐ VƯỜN ĐỊA ĐÀNG mang tên:

Yêu THƠ từ cái nhìn đầu tiên

Và các bạn biết không chẳng biết là do cái tên của Hội hấp dẫn quá hay là quá thương quý tôi mà tất cả mấy thằng bạn chiến hữu của tôi đứa nào cũng tình nguyện gia nhập không một chút lăn tăn, kể cả khó tính cỡ …”cụ xứ”.

Chứ sao nữa,

thằng Jack làm thơ về hoa Mai thì đã có đến 999.999 (nhưng đơn vị tiền tệ là…VND, gớm “cụ xứ” cứ gắn cho nó cái mác USD làm nó phải treo cái biển to tướng trước nhà cải chính chứ không đêm lại khổ vì canh…trộm, nhà đã kịp lắp camera đâu :)))

còn thằng Monster làm thơ về hoa Mận xong thì lăn quay ra ốm. Chả biết nó ốm vì gì chỉ thấy sao ốm mà nó vui như kiểu trúng …Vietlot :)). Chắc phải nhờ thằng Leo chẩn đoán, dù sao thằng chả cũng có nhiều kinh nghiệm thực tế :)))

Vậy là Yêu THƠ từ cái nhìn đầu tiên đã có 3 thành viên đầu tiên:

-Tôi: William chủ tịch

Mr Jack: Phó chủ tịch phụ trách tài chính

Mr Monster: Thơ ký phụ trách nội dung “You and I” :))

Ba đứa hội viên còn lại là những nhân vật quen thuộc đã gắn bó với Quý độc giả qua các câu chuyện dài kỳ cả năm qua :)). Ba chàng ngự lâm này muốn nhập thất Am Thơ của tôi cũng phải cúng cho tôi 3 bài thơ Haiku mới được tôi chấp thuận. Không dễ đâu, tôi, à quên Thơ,  dù ế cũng phải có tiêu chuẩn của nó :))

Mời các bạn thưởng thức:

1.

Nàng Mona

Hoa súng từ vườn Monet

Trên con tàu tuổi trẻ

(Charlie)

2.

Từ Vườn địa đàng

Nhìn thấy

Trái tim đập

(Leo)

3.

Tết nguyên tiêu

Điện thoại kêu

Lô số 1

(Skeleton)

:))

Mới hồi trưa thằng Charlie nó nhắn với tôi để nó lôi kéo thêm một vài người bạn của nó vào cái Hội này nữa cho thêm phần xôm tụ. Mountain chẳng hạn, nhưng thằng nhỏ đang du ngoạn chốn núi cao vực thẳm nó còn lâu mới có mặt tại thành phố của chúng tôi được.

Vậy nó đang làm gì ở cái chốn xa xôi ấy nhỉ? 

NGƯỜI H’MONG

By Sarah Turner

4.

Đối với hàng chục nghìn hộ gia đình người Mông ở vùng cao vẫn tiếp tục phụ thuộc vào sinh kế bán tự cung tự cấp, trâu là tài sản thiết yếu về nhiều mặt. Để đảm bảo nguồn cung trâu, cư dân vùng biên giới phải cân nhắc cẩn thận lợi ích và bất lợi của việc tham gia vào các tuyến đường vùng cao khác nhau mà qua đó những con vật này được trao đổi và mua bán.

Các thể chế xã hội, văn hóa và nghi thức đa dạng đặt ra các hướng dẫn cho việc tiến hành các giao dịch trâu, dù trong bối cảnh buôn bán dựa trên cộng đồng hay mang tính khách quan hơn trên thị trường.

Trâu phục vụ nhiều chức năng trong nền kinh tế hộ gia đình người Hmong và đóng vai trò quan trọng như một con vật hiến tế (đối với các hộ gia đình theo thuyết vật linh), là bằng chứng về sự giàu có và uy tín cũng như là dấu hiệu nhận dạng. Những con vật có giá trị này được buôn bán và trao đổi trong các thôn, ở địa phương thông qua những nơi được coi là “làng trâu” chuyên biệt, hoặc ở những chợ trâu.

Khả năng tiếp cận các mạng lưới phức tạp này của các cá nhân và hộ gia đình người H’mông có thể rất khác nhau. Thay đổi phương thức vận chuyển, thắt chặt kiểm soát qua biên giới, lo ngại về dịch bệnh vật nuôi và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt đã dẫn đến các luồng cung và cầu mới, tuy nhiên vị trí quan trọng của trâu trong sinh kế vùng cao của người Hmông dường như rất ổn định.

Vị trí của trâu trong sinh kế vùng cao của người Mông

Trâu phát triển mạnh trong môi trường bùn lầy, ẩm ướt và được tìm thấy khắp vùng nông thôn Trung Quốc về phía nam khoảng 360 bắc và về phía đông 97o đông. Hơn một nửa số trâu của Việt Nam sống ở khu vực miền núi phía Bắc, nơi có điều kiện sinh thái tối ưu cho sự phát triển của chúng, trong khi việc cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp ở vùng đất thấp màu mỡ đã khiến chúng trở nên dư thừa ở đó.

Tuy nhiên, trên khắp vùng biên giới. Tại Việt Nam, trâu chiếm 79% tổng đàn chăn nuôi (trâu, bò và ngựa) của tỉnh Lào Cai vào năm 2010, phần lớn ở phía tây sông Hồng. Ở phía đông, trâu là một phần sinh kế ít phổ biến hơn của các hộ gia đình, đặc biệt là ở khu vực biên giới tỉnh Hà Giang, nhưng có xu hướng sinh sống ở những vùng trũng thấp có người dân tộc Tày và Nùng.

Ở tỉnh Lai Châu, cũng như tỉnh Lào Cai, trâu là một phần sinh kế cốt lõi của người Hmông. Hoạt động buôn bán xuyên biên giới phát triển mạnh về những loài vật nuôi này, ít nhất đã có từ thời thuộc địa, vẫn hoạt động tích cực trên khắp các dãy núi hùng vĩ này.

Trâu đã góp phần đáng kể vào sinh kế của con người và an ninh lương thực.

Trong hơn 5.000 năm, người dân ở châu Á đã phụ thuộc vào chúng cho các công việc lao động trong sản xuất nông nghiệp cũng như vận chuyển các vật nặng. Trâu là tài sản sinh kế đa chiều duy nhất, đóng vai trò là nguồn hoặc người hỗ trợ vốn vật chất, tự nhiên, tài chính, xã hội và văn hóa.

Ở vùng biên giới, nơi điều kiện sinh thái thuận lợi cho canh tác bậc thang, trâu rất quan trọng đối với những bậc thang dốc nhất, vì máy cày cơ giới không phù hợp với những mảnh đất hẹp, thẳng đứng. Ngay cả ở những khu vực ít dốc hơn, trâu thường tiết kiệm chi phí hơn so với máy kéo nhỏ vì chúng giúp nông dân tiết kiệm tiền nhiên liệu và có chi phí bảo trì thấp và giá bán lại cao.

Trâu mang lại lợi ích bổ sung bằng cách tiêu thụ các sản phẩm phụ không thể sử dụng được trong sản xuất trang trại, chẳng hạn như thân cây lúa, trong khi phân của chúng có thể được sử dụng làm nhiên liệu nấu ăn hoặc cải thiện độ phì của đất.

Là nguồn cung cấp thịt tươi và khô quan trọng, trâu đóng vai trò trực tiếp trong vấn đề dinh dưỡng và an ninh lương thực của người Hmông.

Tuy nhiên, mãi đến gần đây nông dân vùng biên giới mới nuôi trâu cho những mục đích cụ thể này. Ngoại trừ nghi lễ hiến tế, trâu thường chỉ bị giết để tiêu thụ sau khi chúng không còn khả năng lao động do tuổi tác hoặc bị thương.

Trâu cũng đóng góp theo những cách khác. Sừng của chúng được sử dụng làm cán dao, nhạc cụ và dụng cụ bói toán, cũng như để “giác hơi”, một phương pháp chăm sóc sức khỏe truyền thống để giảm đau và đau đầu. Da trâu cũng được sử dụng.

Trâu là nguồn tài sản, tiết kiệm và bảo hiểm di động, có khả năng thay thế cao. Với giá trị tiền tệ cao, trâu là lựa chọn lý tưởng để tăng thu nhập lâu dài cho hộ gia đình. Ví dụ, vào năm 2012, nông dân người Mông ở tỉnh Lào Cai, Việt Nam cho biết giá tiêu chuẩn cho một con trâu trưởng thành đáng tin cậy có khả năng lao động là 18-20 triệu đồng.

Tin đồn lan truyền tại một đám cưới của người Mông năm 2012 về việc một con trâu quý được bán với giá 29 triệu đồng đã khiến những người tham dự vô cùng ngưỡng mộ và tạo uy tín cho gia chủ.

Trâu thường bắt đầu được đào tạo công việc khi được hai tuổi và tiếp tục cung cấp lao động nông nghiệp quan trọng cho đến khi chúng khoảng 11 tuổi, khi năng suất của chúng bắt đầu giảm. Trâu cũng có thể được đánh giá cao về giá trị khi chúng trưởng thành và sinh sản; trâu cái có khả năng sinh con cho đến khoảng mười tám tuổi.

Số lượng và sức khỏe của trâu trong một hộ gia đình người Mông là dấu hiệu quan trọng của sự giàu có. Người Mông giải thích với chúng tôi rằng một hộ được coi là khá giả nếu có ba con trâu trở lên và nghèo nếu không có con nào. Do đó, các hộ dân tỏ ra miễn cưỡng bán trâu và sẽ tránh làm điều đó nếu có thể.

Như Doua, một người đàn ông Hmong đến từ tỉnh Lào Cai, nói: “Chúng tôi thực sự không muốn bán chúng vì chúng rất quan trọng đối với chúng tôi, vì vậy chúng tôi không làm điều đó trừ khi chúng tôi thực sự cần tiền”.

Trâu  đóng vai trò là mạng lưới an toàn kinh tế quan trọng của các hộ gia đình người Mông. Trong lúc khó khăn hoặc khủng hoảng, trâu có thể được bán để lấy tiền ngay hoặc dùng làm tài sản thế chấp cho các khoản vay.

Bán trâu là cách phổ biến để trả một khoản vay lớn hoặc trang trải chi phí y tế khổng lồ khi một thành viên trong gia đình lâm bệnh nặng. Trâu cũng có thể được sử dụng để trả cho các khoản phạt theo phong tục trong xã hội Hmong (ví dụ như ngoại tình), và con trai tặng trâu là một cách thông thường để các hộ gia đình Hmong tài trợ cho lễ cưới,  cũng như để chú rể và gia đình anh ta có được số tiền lớn và các vật phẩm được đổi thành tài sản của cô dâu và các khoản thanh toán đám cưới khác.

Tóm lại, sự đóng góp sinh kế hữu hình của trâu rất phong phú và đa dạng. Như Yeng, một người đàn ông Hmong ở tỉnh Lào Cai đã hùng hồn tuyên bố, loại gia súc này là “động cơ thần kỳ của gia đình”.

Tâm linh, bản sắc và văn hóa trâu và hmong

Địa vị cao đẹp của trâu  được thể hiện rõ ở vị trí của chúng trong các nghi lễ vòng đời của người Hmong, đặc biệt là đám tang, trong đó con vật hiến tế được cho là sẽ đồng hành và hướng dẫn người đã khuất trong hành trình xuống địa ngục.

Trâu cũng có trong các nghi lễ chữa bệnh của người Hmong và đôi khi trong các lễ vật và bữa tiệc mừng năm mới âm lịch như ở nhiều xã hội dân tộc thiểu số khác trên khắp khối núi Đông Nam Á.

Giá trị của các loài động vật khác nhau được hiến tế trong đám tang của người Hmong liên quan trực tiếp đến địa vị kinh tế và xã hội của người đã khuất.

Cũng theo Khu, một phụ nữ người Mông ở tỉnh Lào Cai, nếu một người đã đến tuổi dậy thì trước khi chết thì gia đình họ phải hiến tế một con trâu. Tuy nhiên, đối với cái chết của một đứa trẻ, việc hiến tế những động vật nhỏ hơn, chẳng hạn như lợn hoặc gà, có thể được chấp nhận.

Giá trị của con trâu hiến tế còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế hiện tại của hộ gia đình và mối quan hệ họ hàng, địa vị cộng đồng của người bị hy sinh. Theo lời của Khu, “Nếu nghèo thì có thể cúng một con lợn lớn hoặc một con trâu cỡ nhỏ cũng được.

Nhưng nếu có điều kiện thì bạn phải dùng một con trâu lớn, một con trị giá khoảng 12 triệu đồng. Điều này đặc biệt đúng nếu cha, mẹ hoặc một người rất quan trọng của bạn đã qua đời. Những thực hành này là một phần không thể thiếu trong việc duy trì dòng dõi và bản sắc Hmong cũng như sự thịnh vượng của gia đình. Trong lễ tang, cách phân chia và phân phối trâu bị giết mổ “là một trong những phương tiện chính để phân biệt các nhóm huyết thống khác nhau”.

Do đó, sự phân bổ này rất quan trọng đối với tính liên tục của bản sắc văn hóa Hmong thông qua việc tái hiện mang tính biểu tượng của cấu trúc họ hàng. Khi thực hiện các nghĩa vụ văn hóa này, hộ gia đình còn thể hiện uy tín của mình, củng cố mạng lưới xã hội và góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho cộng đồng thông qua tái phân phối. 

 

You may also like

Để lại bình luận