Mẹ mình bận trước gọi điện nói chuyện với mình bảo: Con ơi, mẹ mới đọc bài con rồi, con cứ viết đều đi nhé để mẹ đọc. Con viết vui quá cơ :)).
Thật mình chẳng có niềm vui nào hơn thế, định hỏi dò bà cụ: Thế mẹ (cười) đã sái quai hàm chưa ? :)) nhưng lại thôi, ăn nói thế sợ phạm thượng :)) trời đày xuống 9 tầng Địa ngục lại chả có cơ hội viết tấu hài cho các bạn xả stress :)) (may ra có “cụ xứ” cụ mở tiệc ăn mừng vì hết người nói xấu cụ, lúc đó cụ mới chính thức “xuống núi” :)).
Ối giồi ôi, nhưng nói thật với cụ đợi được bữa tiệc ăn mừng của cụ, và cũng là ngày thằng William lấy được vợ, thì răng thi sĩ cũng rụng hết mất rồi :)). Chứ chả à, vì mình đi xem bói thầy bói phán mình sống đến 100 tuổi có lẻ cơ, sống dai đến ăn hết phần con cháu :)).
Vậy nhé, giờ mình xin được quay trở lại câu chuyện mình định nói.
Mẹ mình năm nay gần 70 mắt cũng đã kém nhiều và hay bị mỏi nên giờ bà ít đọc mà chuyển sang nghe (chắc lại Jiu Túp bà Tân Vê lốc :)). Chứ thời còn trẻ hơn mẹ cũng hay đọc sách báo. Ngoài vài tờ báo mẹ đặt ở cơ quan cho gia đình mình thì những tờ báo chung của phòng mẹ và phòng khác sau khi mọi người đọc xong mẹ đều mượn về nhà cho mình đọc.
Bố mình thì là bộ đội nên ông thích đọc báo an ninh và quân đội. Những quyển Văn nghệ Quân đội rất dày, hình như được phát hành mỗi Quý một lần, mỗi lần về phép từ đơn vị ở Tây Nguyên ông cũng hay mang về theo và mình thường giữ lại.
Ngày xưa hay có các tập san truyện ngắn hay ghê, như Văn nghệ quân đội (của báo Quân đội nhân dân), Áo trắng (của NXB Trẻ), Hương đầu mùa (của báo Hoa Học Trò) thì mình gần như là “con mọt” luôn. Ngoài những truyện ngắn trữ tình trên các ấn phẩm đó thì các câu chuyện hài hước trên Tuổi trẻ Cười mình cũng không mấy bỏ sót (toàn đọc nhờ báo nhà cô hàng xóm phát thanh viên truyền thanh đối diện nhà mình như trong Loạt truyện mình đã viết về thời học cấp ba của mình đó).
Có hai tờ báo của Tp.HCM mình rất thích từ ngày mình còn là học sinh ở quê là Tờ Tuổi trẻ Cười + Tuổi trẻ cuối tuần (đều của báo Tuổi trẻ) và Tờ Thời Báo Kinh tế Sài Gòn. Từ mấy chục năm trước, các nhà báo kỳ cựu phía Nam có thể do trước đây được tiếp xúc nhiều hơn với báo chí phương Tây (so với phía Bắc) nên cách viết và bố cục bài viết của họ mang hơi hướng kiểu Anh Mỹ hơn: Hài hước, dí dỏm, hiện đại nhưng vẫn có chiều sâu.
Mình đặc biệt thích đọc cái bài viết về các vấn đề kinh tế, vốn bản chất khô khan, theo hướng viết này. Sau này có vài bác sĩ viết các vấn đề về sức khỏe trên “Tuổi trẻ” cũng rất vui và hài, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một ví dụ.
Tiếc là thời đỉnh cao của báo giấy đã qua lâu rồi!
Hôm nay tự dưng mình nhớ lại là bởi báo Xuân vốn luôn là một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với thế hệ những người yêu đọc và viết thế hệ mình. Vì những tờ báo Tết luôn là ấn phẩm chất lượng nhất trong năm, nơi tập hợp rất nhiều các tản văn, tùy bút, các bài thơ Xuân vừa bay bổng mà lại vừa sâu lắng của nhiều cây viết được bạn đọc yêu thích!
Ngày xưa thiếu thốn nhưng nhờ đọc nhiều sách báo nên thời học sinh mình cũng hay viết lách vớ vẩn nhiều. Ngoại trừ lớp 12 phải tập trung lo ôn thi đại học nên dừng hẳn 1 năm chứ còn học hành bận mấy thì bận, thi cử cứ thi cử,kệ, ngày nào cũng phải dành 1,2 tiếng để viết.
Viết đôi khi chỉ để giữ cho riêng mình chứ cũng chẳng gửi đi đâu cả nhưng vì thích thì viết thôi. Buồn cười nhất là thời đó mình toàn viết mấy truyện tình cảm con gà bông mà chính mình 17,18 rồi nào đã biết Yêu là gì :)).
Cả lớp mình 33 mạng, tốt nghiệp lớp 12 mà có đúng 3 đứa là có yêu đương, còn 30 đứa ngố tàu còn lại “chỉ biết điên tiết với ba đứa kia thôi chứ chả làm được gì” :)). Gía kể lúc ấy chúng mình mà có bị bồ đá thì (chắc là) cũng vẫn thấy vui vì ít ra là còn (đã từng) có bồ, đây làm gì có mà bị (được) đá, “nhục” chưa :)) ?
Thế nên 30 số phận đáng thương, khốn khổ, bơ vơ không nơi nương tựa, huhuhu, chỉ còn biết dồn sức vào …chơi :))), cho bọn đã trúng mũi tên thần Cupid ganh tị chết đi vì cái bọn đó chỉ biết đến nhau thôi chứ mà làm gì biết đến…. “chơi bời trác táng” :))
Đấy, đại loại là thời cấp ba tươi đẹp mà lại bi thương về khoản Tình yêu thế đấy các bạn ạ :)). Chúng mình cứ ca bài ca “đời tôi cô đơn” dài cổ đến tận khi đi làm mới bắt đầu thực sự biết mùi “Chết trong lòng một tí” :)). Mà đến lúc ấy “chết” là “chết” hẳn luôn, chết đứ đừ đừ không nhúc nhích :))
Nên các bạn mới lớp 10 thì cứ vui vẻ đi nhá, tận hưởng cuộc sống độc thân là khỏe nhất, chả vướng bận làm gì cho nhức đầu :)). Đấy các bạn nhìn gương anh Leo đó, ảnh chạy cờ lông công lên với ông nhạc tương lai của ảnh mà có đáp ứng được yêu cầu của ổng đâu. Nội tiêu chí “chịu đựng đủ bảy giờ một ngày, bảy ngày một tuần nghe tiếng sư tử, hổ báo, vượn rú khỉ kêu từ trong nhà ra ngoài ngõ” đã đủ khiến ảnh “đầu hàng không điều kiện rồi” :)):
-DẠ CHÁU XIN HÀNG Ạ. CHÁU XIN TRỞ VỀ CUỘC SỐNG CỦA “NHỮNG NGƯỜI ĐỘC THÂN VUI VẺ” ĐỂ HÀNG NGÀY CHÁU SÁNG TÁC THƠ CHO HỘI THƠ CỦA THẰNG WILLIAM BẠN CHÁU ĐẶNG KIẾM MẤY ĐỒNG NHUẬN BÚT MÀ SỐNG SÓT CHO QUA NGÀY!
:))
NGƯỜI H’MONG
By Sarah Turner
5.
Trên khắp vùng biên giới Trung-Việt, sinh kế nông thôn và các mối quan hệ xã hội luôn trong tình trạng thay đổi. Trong khi một số xã hội vùng cao thận trọng trong việc thay đổi các tập quán lâu đời đã phù hợp với họ qua nhiều thế hệ, thì những xã hội khác lại đón nhận những triển vọng mới do chuyển đổi nông nghiệp, thị trường hàng hóa sâu rộng, tăng cường thương mại, tự do hóa thị trường, cơ sở hạ tầng và công nghệ truyền thông mới mang lại.
Những tình thế tiến thoái lưỡng nan được tạo ra bởi sự kết hợp giữa các nguyên tắc hiện đại và những thực hành này đặc biệt rõ ràng trong trường hợp một lâm sản ngoài gỗ vùng cao, bạch đậu khấu, hiện được thương mại hóa trên khắp các vùng cao này.
Nhu cầu về loại gia vị có giá trị cao này đã tăng lên đều đặn trong hai thập kỷ qua và nhiều nông dân người Hmong đã nắm bắt cơ hội trồng bạch đậu khấu, loại cây phải được trồng dưới tán rừng. Bạch đậu khấu được vận chuyển đến vùng đồng bằng thông qua trung gian hoặc thường xuyên hơn được xuất khẩu sang Trung Quốc theo chuỗi hàng hóa phức tạp.
Thương mại diễn ra thông qua mạng lưới các mối quan hệ xã hội, cơ cấu quyền lực không đồng đều và lợi nhuận kinh tế khác nhau giữa các chủ thể cạnh tranh để tiếp cận các nguồn tài nguyên quan trọng trong suốt quá trình.
Giống như khi cây anh túc trở thành cây trồng chính và thuốc phiện trở thành sản phẩm được đánh giá cao ở những vùng núi này, không phải tất cả người dân địa phương đều được hưởng lợi như nhau từ sự bùng nổ bạch đậu khấu hiện nay. Thật khó để không nhận ra sự tương đồng giữa hai mặt hàng này khi nhìn vào ảnh hưởng của chúng đối với sự cân bằng kinh tế và chính trị ở vùng cao.
Hãy ghi nhớ tiền lệ về thuốc phiện khi đánh giá tác động ngắn hạn và dài hạn của bất kỳ loại cây trồng thương mại hoặc sản phẩm rừng mới nào đối với nền kinh tế địa phương giúp chúng ta giải thích ý nghĩa kinh tế xã hội của các loại cây trồng “mới”, đưa ra những kết luận sâu sắc hơn và có nguồn gốc lịch sử hơn.
Khai thác lâm sản
Người Hmong rất tôn trọng đất đai và mùa màng. Do đó, các quyết định về môi trường được điều chỉnh không chỉ bởi lý do kinh tế mà còn bởi các lối sống và tín ngưỡng văn hóa góp phần duy trì phong tục, bản sắc và một trật tự thế giới nhất định. Các vùng đất rừng cụ thể vẫn còn nguyên vẹn, đặc biệt nếu chúng được cho là nơi ở của các linh hồn nhân từ, trong khi luật tục áp dụng để quản lý tài nguyên chung.
Như Claes Corlin giải thích, “Lãnh thổ và tài nguyên của nó – nước, thảm thực vật và thú săn – thuộc về tổ tiên và linh hồn của địa phương, còn con người sống chỉ đơn giản là những người quản lý vùng đất này”. Do đó, hệ thống sinh thái nông nghiệp của người Hmong có thể được coi là “sự dung hòa giữa hai nhu cầu: nhu cầu về lương thực và những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống nhưng cũng là sự tôn trọng sâu sắc đối với thiên nhiên và tinh thần của nó”.
Ngoài ra, các hệ thống này có thể được coi là sự cân bằng giữa nhu cầu vật chất trước mắt và tính bền vững của môi trường, tính bền vững của môi trường bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự hiện diện của các linh hồn trong tự nhiên.
Ở cả hai bên biên giới Trung-Việt, người Hmong, giống như nhiều xã hội khác của khối núi Đông Nam Á, sử dụng kiến thức sâu rộng về các sản phẩm rừng có thể ăn được để bổ sung vào chế độ ăn uống của mình khi không cần lao động ở nơi khác.
Một số thực phẩm theo mùa – ví dụ như măng, được thu hoạch vào mùa mưa từ tháng 3 đến tháng 6 – trong khi những thực phẩm khác có sẵn quanh năm, chẳng hạn như tổ ong rừng, thú săn, côn trùng hoặc nấm mọc nhiều sau mưa lớn. Ngoài ra, quanh năm, phụ nữ và trẻ em thu hái củi ở các khu vực rừng gần nhà hoặc trên các nương rẫy, trong khi đàn ông đi lấy củi từ những nơi xa hơn.
Rừng thật hào phóng. Cây thuốc là nguồn tài nguyên rừng được thu thập rộng rãi bởi cả hộ gia đình thông thường và những người chữa bệnh chuyên môn, những người xử lý những cây này khác với lâm sản được thu thập để tiêu thụ thông thường. Có thể nói nhiều điều về y học cổ truyền và cách chữa bệnh cũng như ảnh hưởng của chúng đối với bản sắc người Hmong.
Thuốc hoang dã giúp các hộ gia đình dễ dàng tiếp cận các sản phẩm chăm sóc sức khỏe phục vụ các chức năng thiết thực cũng như mang tính biểu tượng. Các tập quán chăm sóc sức khỏe của người Hmong, bao gồm cả thầy lang và việc sử dụng các loại thuốc thực vật, cả tươi và khô, khác biệt với các phương pháp chữa bệnh truyền thống của người Hán hoặc người Kinh.
Tại chợ Mengzi, Honghe, tỉnh Vân Nam, một người buôn bán thảo dược lưu động của người Hmong đã nhấn mạnh với chúng tôi về sự độc đáo của phương pháp chữa bệnh bằng thảo dược của người Hmong và thuyết phục chúng tôi thử phương pháp chữa trị “giảm căng thẳng” mới nhất của cô ấy – với những kết quả còn gây tranh cãi (đáng buồn thay)
Một thầy lang người Hmong lớn tuổi ở Maguan, tỉnh Văn Sơn, giải thích rằng ngay cả khi người Hmong ở thành phố, chẳng hạn như con trai ông, hiện đang làm việc cho chính quyền địa phương, có xu hướng thiên về ‘y học hiện đại’, họ vẫn gọi ông để điều trị một số loại bệnh.
Một số thanh niên người Mông đã tận dụng một thị trường ngách nhỏ để bán hoa lan dại làm cảnh và làm thuốc – được người dân vùng thấp coi là mặt hàng uy tín và xa xỉ – nhu cầu được thúc đẩy bởi hàng nghìn khách du lịch người Kinh đi du lịch cuối tuần đến thị trấn Sa pa.
Những người hái lan mang cây vào thị trấn Sapa vào ngày chủ nhật và bán bên đường hoặc bán cho thương lái người Kinh. Những người buôn lan này không chỉ phục vụ nhu cầu du lịch địa phương mà còn giao dịch với các doanh nghiệp có trụ sở tại các thành phố vùng thấp, bao gồm Hải Phòng, Hà Nội và TP.HCM. Tại một số huyện biên giới Lai Châu và Hà Giang, hoa lan rừng do người Mông thu hái cũng được các tiểu thương săn lùng, xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới sang Vân Nam.
Tuy nhiên, đối với các hộ gia đình người Mông trong và xung quanh Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn, việc buôn bán một số loại thực phẩm, thực vật và động vật hoang dã (đặc biệt là các loài chim biết hót và rắn, loại đầu tiên để bán sống, loại thứ hai ngâm trong chum rượu gạo) được coi là ngày càng có ít lợi nhuận hơn và ngày càng có nhiều rủi ro hơn do nguồn lực khan hiếm, các hạn chế về bảo vệ tài nguyên quốc gia ngày càng gia tăng và giá thị trường giảm.
Thực phẩm hoang dã trước đây đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ đói kém và bất ổn kinh tế hiện chỉ được thu thập bởi các hộ gia đình không có đủ đất trồng lúa hoặc ngô hoặc phải đối mặt với nhu cầu khẩn cấp về tiền mặt do các tình huống bất ngờ như tang lễ tốn kém hoặc đắt đỏ, hoặc phải nhập viên điều trị bệnh. Một ngoại lệ nổi bật đối với quy tắc này ở cả hai bên biên giới là bạch đậu khấu.
Bạch đậu khấu, từ thu hái đến hàng hóa
Cây thảo quả đen lâu năm thân thảo mọc tự nhiên ở những vùng tương đối nhiều mây, mát mẻ và ẩm ướt của khối núi Đông Nam Á. Cùng với các lâm sản khác, nó đã được người dân vùng cao khai thác trong nhiều thế kỷ, chủ yếu để sử dụng trong gia đình nhưng khi nhu cầu tăng lên, nó cũng được dùng để buôn bán. Tuy nhiên, cho đến đầu những năm 1990, hoạt động buôn bán này ở vùng biên giới vẫn còn khiêm tốn.
Ở Việt Nam, cây bạch đậu khấu được tìm thấy ở dãy núi Hoàng Liên và các vùng rừng thuộc tỉnh Lào Cai và Lai Châu. Phía đông Lào Cai, ở các tỉnh Hà Giang và Cao Bằng, cây bạch đậu khấu được trồng ít hơn nhiều do địa hình quá nhiều đá và lộ thiên, nhưng với nhu cầu ngày càng tăng, việc trồng trọt hiện nay diễn ra ở bất cứ nơi nào có thể.
Bạch đậu khấu đã được buôn bán trong nhiều thế kỷ trên khắp Trung Quốc vì tính chất dược liệu của nó và ngày nay là một trong những loại gia vị đắt nhất thế giới tính theo trọng lượng trái cây khô, sau nghệ tây và vani.
Loại gia vị này thường được sử dụng như một thành phần trong các phương pháp chữa trị truyền thống của Trung Quốc cho bệnh đau dạ dày, táo bón, kiết lỵ và nôn mửa, cùng nhiều bệnh khác. Một số hoạt động thương mại diễn ra thông qua các kênh chính thức, được tạo điều kiện thuận lợi bởi sự phát triển của ngành dược phẩm trong nước .
Đối với nông dân địa phương, việc trồng bạch đậu khấu như một loại cây trồng mang lại lợi nhuận rất có ý nghĩa. Thu hoạch và sấy khô các sản phẩm tự nhiên là một kiến thức bản địa gắn liền với văn hóa. Quy trình trồng bạch đậu khấu tương đối dễ nắm bắt và đòi hỏi ít lao động hơn nhiều so với lúa hoặc ngô, vì địa hình không cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng, không cần sức lao động của động vật và thời gian thu hoạch gia vị bổ sung cho các công việc thời vụ khác.
Bạch đậu khấu có tỷ lệ giá trị trên trọng lượng cao, một lý do khác khiến nó trở thành nguồn thu nhập cho nhiều người Hmong ở những vùng trồng trọt chính. Theo đó, nhiều hộ đã chuyển từ việc thu hái cây tự nhiên sang trồng và kinh doanh.
Việc buôn bán bạch đậu khấu hiện nay là theo nhu cầu. Chỉ riêng ở Châu Á đã có hàng tỷ người tiêu dùng thuốc tiềm năng và loài cây này có nhiều công dụng ẩm thực cho những người tiêu dùng khác trên toàn cầu.
Như nghiên cứu điển hình của chúng tôi bắt nguồn từ huyện Sapa, Việt Nam, cho thấy, hoạt động buôn bán này phát huy một mạng lưới phức tạp gồm các cá nhân: người trồng trọt, người trung gian, người bán buôn ở vùng cao, nhà sản xuất bạch đậu khấu ở Vân Nam, người buôn bán ở vùng đồng bằng ở Việt Nam và người tiêu dùng ở Trung Quốc, Việt Nam và những nơi khác.
Chuỗi mặt hàng bạch đậu khấu hiện nay ở huyện Sa Pa
Việc buôn bán bạch đậu khấu đương đại bắt đầu vào những năm 1990. Một số hộ gia đình người Mông ở huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai nhận thấy nhu cầu ngày càng tăng và giá cả xuyên biên giới tăng cao đã bắt đầu tăng cường thu hái thảo quả quy mô nhỏ theo thông lệ của họ.
Thời điểm đã chín muồi, khi các chính sách của chính phủ cấm sản xuất thuốc phiện và cắt giảm phần lớn hoạt động khai thác gỗ từ năm 1993 trở đi đã khiến nhiều người Hmong chuyển sang các nguồn thay thế khác để kiếm tiền. Hơn nữa, chính sách Đổi mới, tự do hóa kinh tế được tuyên bố vào năm 1986, đã dẫn đến việc bãi bỏ tập thể và mở ra khả năng tiếp cận thương mại thị trường.
Bạch đậu khấu nhanh chóng nổi lên như một loại cây trồng thay thế đầy hứa hẹn cho thuốc phiện và gỗ. Vụ mùa này mang lại lợi nhuận đủ để các hộ gia đình người Mông có thể nhận được khoản ứng trước chiến lược từ bên trung gian vào tháng 6 và tháng 7, những tháng mà một số gia đình bắt đầu trải qua tình trạng thiếu lương thực hàng năm đáng sợ.
Thu nhập bằng tiền mặt từ bạch đậu khấu đang đóng một vai trò ngày càng có giá trị trong các hộ gia đình người Hmong và hiện giúp nhiều người duy trì nguồn dự trữ đáng kể để đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình trong suốt cả năm, cũng như chi trả cho các đầu vào lúa lai, đám cưới và đám tang cũng như các khoản mua sắm lớn như tậu trâu.
Để tăng sản lượng, phương pháp truyền thống chỉ đơn giản là thu hái bạch đậu khấu trong rừng đã nhường chỗ cho việc trồng thảo quả có chủ ý dưới tán cây rải rác quanh dãy núi Hoàng Liên và các vùng rừng lân cận.
Ở huyện Sa Pa, bạch đậu khấu được thu hoạch từ tháng 8 đến cuối tháng 10, sau đó phơi khô trên ngọn lửa củi trong rừng từ hai đến ba ngày, tùy theo điều kiện thời tiết. Việc trồng trọt chủ yếu dựa vào công việc gia đình và sắp xếp lao động có đi có lại, với các yêu cầu lao động khác nhau tùy thuộc vào quy mô hộ gia đình và thu hoạch. Trồng bạch đậu khấu chủ yếu là công việc của nam giới do phải ở trong rừng xa nhà trong thời gian dài và nạ trộm cắp mùa màng luôn là một rủi ro.
Do tình trạng thiếu đất ngày càng tăng, nhu cầu không ngừng và số lượng người sản xuất tăng nhanh, sự cạnh tranh giữa các gia đình người Hmong trồng bạch đậu khấu ngày càng gia tăng. Năm 2006, Mao, một người H’mông trồng bạch đậu khấu ở xã Sa Pa – nằm khá xa trung tâm vườn quốc gia – đã lưu ý rằng “không có đủ đất rừng cho mọi người trong làng.
Mao lý luận rằng việc thiếu rừng thích hợp để canh tác trong khoảng cách đi bộ là do làng của ông lâu đời hơn, với mật độ dân số tương đối cao nên các hộ gia đình đã định cư đã khoanh vùng mảnh đất của mình. Ngược lại, các hộ gia đình ở xã San Sả Hồ, nằm trong VQG, tiếp tục trồng các cánh đồng bạch đậu khấu mới vì các thôn ở đó mới được thành lập gần đây và nằm gần rừng hơn.
Những người trồng bạch đậu khấu Hmông có xu hướng vẫn ở vị trí cuối cùng trong chuỗi hàng hóa đang mở rộng, giống như họ đã từng làm với thuốc phiện trước đây và với rượu vùng cao ngày nay. Thay vì trở thành những người chơi chủ chốt tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh, nông dân Hmong bán sản phẩm thảo quả thu hoạch thẳng cho những người trung gian không phải người Hmong.
Vào thời điểm thu hoạch, từ tháng 8 đến tháng 11, những người trồng trọt người Mông được những người trung gian trồng bạch đậu khấu đến thăm, phần lớn ở huyện Sapa là phụ nữ Kinh và Giáy.
Những người mua này, sống ở thị trấn Sa Pa hoặc quản lý các cửa hàng tổng hợp nhỏ ở các làng Hmong lớn nhất, là những đối tượng lý tưởng để mua bạch đậu khấu do họ tương tác hàng ngày và quen thuộc với người trồng trọt.
Thương mại thường được thực hiện bằng tín dụng. Mai Pham, một người Kinh bán buôn ở thị trấn Sa Pa, giải thích: “Hầu hết người dân (trung gian) đưa tiền mặt cho người Hmong trước, trước khi thu hoạch bạch đậu khấu”. Ngoài việc đảm bảo thỏa thuận sớm, hệ thống tín dụng này cho phép người dân làng Hmong mua gạo và các hàng hóa khác trong những tháng 6 và 7 khó khăn.
Nhưng điều đó cũng có nghĩa là họ bán một phần sản lượng thảo quả của mình với giá giả định, thường thấp hơn lợi nhuận thực tế vào thời điểm đó. Việc ràng buộc người sản xuất với một mức giá theo cách này mang lại cho các nhà trung gian người Kinh và Giáy lợi thế tài chính so với các nhà cung cấp người Hmong đang gặp khó khăn, về cơ bản quyết định tỷ suất lợi nhuận của họ.
Khi đã sẵn sàng, bạch đậu khấu được những người trung gian trong làng mua và vận chuyển bằng xe máy, xe jeep hoặc xe tải nhỏ đến những người bán buôn ở thị trấn Sa Pa, hầu hết đều là phụ nữ Kinh trung niên.
Thư Mountain,
Tôi đã đứng trước nhà của A Páo. Đó là một căn nhà ba gian theo kiểu truyền thống của người Mông. Và, nó đã xuống cấp nghiêm trọng. Từ xa thấy rõ những vết nứt trên bức vách đất, như con rắn ngoằn ngoèo trườn từ chân tường lên đến xà. Đó là những khoảng hở mà những cơn gió lồng lộng mùa Đông nơi biên ải này sẽ rất thích vì chúng được bay vờn, luồn lách, ra vào vào ra. Chỉ có những người trú trong đó là khổ vì cái lạnh. Lạnh ở đây có thể có băng tuyết chứ không đơn giản như dưới xuôi đâu.
Ngôi nhà thấp và xập xệ. Mái nhà được lợp bằng những viên gạch nung xám xịt, già nua được phủ bên trên những lớp lá cây dày, những chiếc lá rụng xuống từ những cây đào, cây mận được trồng ngay đầu hiên. Lớp lá đã mục nát, thi thoảng có đàn chim bay lên sà xuống khiến một chút lớp mục ở phần rìa của mái rơi xuống lả tả, để lộ ra tình trạng thê thảm của những viên ngói, vỡ nát, cái trồi lên cái sụt xuống. Có chỗ một viên ngói đã bay đi từ khi nào, để hở ra cả những khoảng trống hoác.
Chắc chắn, những ngày nắng, qua những lỗ thủng này những người trong nhà có thể thấy được cả khoảng trời bên trên; nhưng nếu mưa gió thì mới là tệ, nước sẽ xối xuống ào ạt mà chẳng có xô chậu nào có thể hứng kịp.
Trên cái nền đất lỗi lõm ngoài hiên, chỏng chơ mấy cái chậu nhựa cáu bẩn, đâ sứt mẻ. Bên trong cái thì lưa thưa vài hạt ngô, cái thì chồng chất những chiếc bát đũa chưa được rửa. Ngay trước bực cửa, mấy chú chó con đang đùa nghịch, tranh nhau giằng xé những chiếc giẻ rách đen xì.
Ở bên phải hiên, chiếc dây phơi bệ rạc võng cả xuống, có vẻ như chủ nhân của nó chẳng buồn quan tâm căng nó lên lại cho thẳng thớm, khiến quần áo trên dây chạm cả vào những chiếc bao tải ngô dựng sát tường nhà. Nhìn sang trái lại thấy treo rất nhiều trái bắp vàng ươm, chắc vừa được hái chưa lâu. Đây có lẽ là hình ảnh đẹp nhất, sáng của nhất của ngôi nhà.
Căn nhà có hai cửa ra vào, một chính một phụ. Có lẽ do vị trí trên cao, mùa hè mát mẻ phải tương đương mùa thu dưới xuôi, mà mùa đông lại lạnh giá nên căn nhà không hề có cửa sổ. Nhấc chân qua một khung thanh chắn cửa, tôi bước vào nhà. Ban ngày mà trong nhà tối lắm. Ở giữa nhà có một cái cột trụ, bếp ăn được bố trí ở ngay ở bên trong nhà, bên tay trái
A Páo có vẻ ngượng nghịu mời tôi ngồi xuống cái ghế gỗ thấp đặt ở phòng ngoài:
-Nhà A Páo giờ có ai ở nhà không ?
Tôi hỏi
-Có bà nội A Páo thôi. Bà đang ở ngoài vườn
Thằng bé vừa dứt lời thì một người đàn bà với dáng vẻ hơi còng chậm rãi từ phía sau nhà đi vào sân. Tôi áng bà khoảng trên dưới 60. Dáng người bà thấp đậm, với tóc được cuốn trên đỉnh đầu. Bà mặc váy chàm hoa văn sặc sỡ, trên cổ đeo một cái vòng bạc đã xỉn màu.
-A Páo về rồi đó hả?
Bà cất tiếng hỏi và để nhúm rau cầm trên tay lên cái tấm phản tre ngoài sân
Nghe tiếng, A Páo chạy ra ngay:
-Bà ơi, nhà mình hôm nay có khách
Tôi cũng đi ra theo thằng bé, mỉm cười chào bà.
-Chào cháu. Cháu là thầy giáo của A Páo sao?
-Không bà ơi. Anh ấy là khách du lịch, muốn ghé qua nhà mình để tìm hiểu nhà của người dân tộc ta
A Páo nhanh nhảu lắm. Nó trả lời tranh cả phần tôi.
-Ồ, già vui quá được đón khách. Nhưng cái nhà này e làm cháu thất vọng rồi
Bà cụ buồn bã trả lời và ngồi xuống tấm phản
-Bà ơi, hôm nay bà có xuống chợ phiên không?
Tôi cũng ngồi xuống và hỏi cụ
-Lẽ ra là có đấy nhưng mấy hôm nay già cảm thấy người không khỏe, chân đau quá nên đành ở nhà.
Cụ ngưng một xíu rồi tiếp tục:
-Nhưng cứ ở nhà mãi thế này thì lấy gì mà ăn. Đi xuống chợ bán cái nọ cái kia còn có tiền mà đổi thịt, cá
-Xin lỗi cho cháu hỏi bố mẹ A Páo giờ này đang ở trên rẫy ạ?
Bà cụ nghe tôi hỏi vậy thì rơm rớm nước mắt
-Không. Con dâu tôi, nó chết nhiều năm rồi, khi thằng A Páo mới 3 tuổi. Mùa lũ năm đó về nhanh quá, nước đổ xuống ào ào như thác, cuốn trôi tất cả, cả người cả lợn cả trâu. Mẹ nó lo cho đàn gia súc cứ quanh quẩn ngoài chuồng nên chạy không kịp rồi đi theo dòng nước dữ. Khổ thân, tôi thương nó lắm, chăm chỉ, chịu khó, nhu mì mà ra đi sớm quá. Con bé lấy chồng cũng khổ và đến lúc làm ma cũng vẫn khổ. Con trai tôi nó bệ rạc, suốt ngày chỉ có rượu chè, lêu lổng chứ nào giúp gì được cho mẹ, cho vợ con nó
Tôi không ngờ câu chuyện lại thành ra vậy
-Đấy, nó đi từ sáng, đến giờ mặt trời nên cao bằng con sào rồi mà đã chịu về đâu. Nó đi uống rượu đấy. Nó bị con ma rượu nhập vào rồi không bỏ được. Nó uống rượu nợ nần người ta nhiều quá nên nhà còn có con trâu duy nhất cũng bị họ đến bắt đi mất rồi. Giờ thì chẳng còn gì
Bà cụ dừng lại một chút rồi lấy ống tay áo lau mắt. Thằng Páo đứng cạnh cứ lay lay cánh tay bà nó
-Cái nhà ọp ẹp này là do ông chồng tôi làm từ ngày tôi lấy ông ấy. Ông ấy cũng vì rượu mà sinh bệnh rồi mất sớm, để lại một mình nó cho tôi nuôi. Nhưng nó lớn lên rồi cũng y như bố nó. Cả ngày chả thấy mặt đâu nhưng khi về đến nhà là say xỉn, quát tháo mấy đứa con khiến chúng sợ khiếp. Tội mấy đứa con nó, con Pao tháng trước đã nghỉ học rồi. Nhà hết tiền rồi, nó phải lên nương làm rẫy mới có cái ăn không chết đói hết. Con bé rồi còn khổ hơn cả mẹ nó!
Tôi thấy cụ đang xúc động quá định nói vài câu an ủi để cụ bình tâm lại thì từ ngoài cổng một giọng lè nhè cất lên:
-Thằng Páo đâu, đi lấy ngay cho bố mày một chén rượu nữa ra đây!
Một người đàn ông đen xạm, hom hem, gầy gò, mặt đỏ gay như gà chọi, chân nam đá chân chiêu đứng không vững phải dựa vào cái cột đá đầu cổng.
Thằng Páo ngay lập tức chạy ra đỡ lấy bố nó. Ông ta trong tình trạng đã say lắm rồi, không còn nhận thức được gì nữa nên lấy tay đẩy thằng bé ra, nhưng mất đà nhao về phía trước rồi ngã xuống cái nền đất ngay dưới gốc mận.
Không gian bỗng Im lặng như tờ, chẳng nghe ai nói câu gì.
Phải một lúc, bà cụ người Mông mới chống tay lên tấm phản, khó nhọc đứng dậy
-Ngày nào nó cũng thế này nên chúng tôi quen rồi. Hôm nay chắc hết tiền nên bị người ta đuổi về sớm chứ bình thường là phải đến đêm, khi con ma đã ẩn nấp trên những cành cây kia. Cậu đừng lo, nó không chết đâu, nó còn làm tội làm nợ mẹ nó con nó lâu lắm
Thấy tôi hốt hoảng nhưng cũng chưa biết phải làm gì bà cụ quay sang tôi nói như vậy.
Thằng Páo lúc này kéo bố nó ngồi lên dựa váo gốc mận. Ba con chó con cứ xoắn xuýt bên chân cậu chủ nhỏ. Khi bà nó tới, hai người hợp nhau lại để lôi người đàn ông mới hơn ba mươi mà nhìn già hơn đến chục tuổi, vào nhà. Nhưng bà cụ đang đau chân nên cũng không chịu được sức nặng của đứa con trai.
Tôi chạy ra ngay ngó ý giúp bà. Đưa cánh tay phải của người đàn ông Hmong lên vai tôi nghe hơi thở nồng nặc rượu phả ra từ cái miệng hôi hám. Suýt nữa thì tôi đã ói thay vì người say.
Loay hoay một lúc tôi và thằng Páo đã đưa được gã say vào nhà. Ông ta ngã vật xuống giường rồi lăn quay ra ngủ như chết, không còn biết đến trời đất gì nữa.
Bà cụ H’mong thở dài rồi đi về hướng gian bếp. Đã quá trưa sang chiều rồi.
Buổi trưa ấy, hai bà cháu nằng nặc giữ tôi ở lại dùng bữa. Bữa ăn đạm bạc, không có gì ngoài bát canh và một bát mèn mén.
Mèn mén vốn ngọt mà tôi chỉ cảm thấy vị đắng ngập tràn.
Mời các bạn đọc truyện ngắn dưới đây của nhà văn Đỗ Bích Thúy mang tên “Tiếng đàn môi sau bờ rào đá”. Tác phẩm này đã được chuyển thể thành bộ phim điện ảnh nổi tiếng “Chuyện của Pao”, được sản xuất cách đây cũng khá lâu rồi, cỡ khoảng gần 20 năm.
Nhà Văn Đỗ Bích Thúy quê Hà Giang và câu chuyện cũng diễn ra ở một ngôi nhà đá nào đó của một gia đình H’mong tại vùng cao nguyên xa xôi này
(vannghequandoi.com.vn)
Trước khi viết Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, tôi nghĩ đến Thương. Khi viết xong, gặp lại Thương, thì thấy may mà tôi không gặp lại Thương trước khi viết, nếu gặp, chắc chắn tôi không viết nổi truyện ngắn đó.
Thương là nguyên mẫu của nhân vật May (trong truyện); Pao (trong phim Chuyện của Pao), còn mẹ Già – bà Mao, là bà May – người mẹ Mông không sinh ra Thương.
Tôi chơi với Thương từ lúc tôi chưa vào lớp một. Cái xóm nhà tôi ở có cả người Kinh, người Tày, người Dao, người Mông. Thương có được đi học, nhưng chỉ lớp hai, lớp ba là bỏ. Thương là chị cả trong một gia đình có một ông bố, hai bà mẹ và năm đứa con: Thương – Anh – Nhớ – Bằng – Thắng.
Đứa em kế Thương, thằng cu Anh, ở nhà gọi là Chài. Tại vì Thương có một bà mẹ là người Kinh, nên năm chị em Thương mới được đặt tên theo kiểu người Kinh như vậy. Duy chỉ thằng Chài, lại ảnh hưởng theo cách người Tày thường gọi con trai lớn trong nhà.
Vì sao Thương lại có hai bà mẹ? Bố Thương tên là Chú và mẹ Già lấy nhau nhiều năm không có con. Khi bố Thương đi dân công làm đường Hạnh Phúc thì gặp mẹ Hoa của Thương. Đường làm xong thì ông Chú dẫn bà Hoa về nhà ở. Không cưới xin gì. Rồi lần lượt bà Hoa sinh ra năm đứa con.
Nhà Thương rất rộng, pha tạp giữa kiến trúc nhà của người Mông lẫn người Tày, lẫn người Kinh: mái lợp lá cọ, ba gian, mỗi bên có một cái buồng cửa ra vào che bằng một tấm ri đô hoa đỏ, gian bếp có bếp lò, có gác bếp trên treo lúa cum và ngô buộc thành túm. Hai căn buồng ấy một dành cho mẹ Già, một dành cho mẹ Hoa. Ông Chú thích ngủ ở buồng nào thì ngủ. Bọn trẻ con ngủ trên phản ngoài nhà.
Tôi chứng kiến bà Hoa lần lượt sinh bốn đứa con sau Thương, và đứa nào cũng được bà May chăm bẵm cặm cụi nuôi nấng y như thể chúng do chính bà sinh ra vậy. Bà Hoa thì cứ bận buôn bán gì đó, đi vắng suốt, hầu như đến nhà chỉ thấy có bà May.
Tôi hay cho Thương quần áo cũ, vì tôi không có em, mà tôi lại cao lớn hơn Thương một cái đầu. Và có khi cái áo tôi cho Thương năm trước, năm sau lại đến lượt cái Nhớ hoặc thằng Thắng mặc.
Đấy là một phần của Thương trước khi tôi viết Tiếng đàn môi sau bờ rào đá.
Khi tôi đưa Ngô Quang Hải, đạo diễn phim Chuyện của Pao lên Hà Giang gặp Thương, Thương và chồng, hai con đang ở trong một ngôi nhà vừa xây ở lưng chừng một quả đồi khô khốc, tường chưa quét vôi, nền chưa láng xi măng. Sau nhà là một con lợn nái sề đang vác cái bụng to đi lại lặc lè, vốn liếng của Thương đang để tất ở đó. Bà May khi ấy đang sống trong một ngôi nhà cùng với Thắng, đứa con út vừa đi bộ đội về, cách nhà Thương một đoạn.
Một năm sau đó, tôi lại đến.
Một chuyện rất buồn vừa xảy ra: Đứa con trai nhỏ của Thương, đi học về, cùng bạn chui vào trong bể nước đầu nguồn, nơi tích trữ nước cung cấp cho cả thị xã để tắm, và chết đuối trong đó.
Thương ngồi đó, trước bàn thờ con và chỉ biết lau nước mắt. Thằng con trai lớn thì ngồi thừ trước hiên. Thương nói: Nó (thằng bé), học giỏi lắm, không như anh nó đâu. Nhưng nó cũng nghịch hơn thằng anh nhiều. Ai mà nghĩ được là nó lại dám mò lên tận đỉnh núi rồi chui vào cái bể cơ chứ.
Hỏi: Thế bố chúng nó đâu?
Trả lời: Chắc đi uống rượu rồi. Làm được đồng nào cho vào chai rượu hết.
Những gì có thể bán được Thương đã đem bán làm đám tang cho con. Giờ phải chạy ăn từng bữa. Chồng sáng vác cưa đi, chiều vác cưa về với một cái bụng đầy rượu. Mặc vợ mặc con.
Bà May nghe tin tôi đến tất tả chạy ra, vớ lấy điếu cày, vo một cục thuốc to tướng nhét vào nõ, châm điếu, rít mấy hơi liền, khói phả mù mịt. Rót hai chén rượu đầy, tôi một bà một, uống cạn. Tôi hỏi:
– Cô dạo này thế nào ạ?
– Vẫn thế, vẫn hút được thuốc, uống được rượu.
Thương chen vào:
– Chúng nó đang đòi bán nhà đấy.
– Ai cơ?
Thì thằng Chài, thằng Thắng, cả cái Nhớ nữa. Cứ đòi bán để chia nhau.
Bà May rít thêm hơi thuốc:
– Tao có mắng mấy câu thì chúng nó cãi: Bà có đẻ ra tôi đâu mà mắng tôi.
– Hồi bà ngã gãy chân, còn chả đứa nào thèm hỏi han cơ – Thương đế thêm.
– Cái Thương cứ bảo tao ra đây ở, nhưng tao ở làm sao được, còn chồng con nó nữa chứ. Cuối cùng, còn mỗi con bé này thương tao thôi.
Tự dưng tôi thấy buồn ghê gớm. Tôi đã chứng kiến bà May trước mặt ôm thằng Thắng, sau lưng địu cái Nhớ, vừa nấu cám cho lợn, cuốc đất trồng rau, lội suối xúc cá. Ông Chú đã mất vì ung thư gan mười mấy năm trước, bà Hoa còn mất trước cả ông Chú.
Rốt cuộc, chỉ có mình bà May gồng gánh, nuôi nấng từng ấy đứa. Vậy mà khi đã trưởng thành, chỉ có Thương còn nghĩ được trước sau, nghĩ được công sức, ân tình mà người đàn bà Mông này dành cho năm chị em, còn lại, đều quên hết như thể dòng nước đã trôi qua vậy.
Bà May không may mắn được như nhân vật trong phim, Thương cũng không biết đến tình yêu là gì. Và cả hai chưa hề xem phim, cũng không đọc truyện của tôi. Những thứ ấy, với họ như là sản phẩm của thế giới nào khác. Bà May và Thương chỉ láng máng biết rằng tôi đã dựa vào cuộc đời họ để viết gì đó, và từ đấy họ lên phim. Họ ríu rít khi tôi về, là vì tôi với Thương đã có chung một tuổi thơ đầy thương mến ấy mà thôi.
Bây giờ, nơi được lấy làm bối cảnh bộ phim Chuyện của Pao ở Sủng Là, Đồng Văn đã trở thành một điểm du lịch không thể thiếu được trên hành trình lên cao nguyên đá. Thế nhưng, nguyên mẫu của hai nhân vật ấy chưa một lần đặt chân tới. Họ còn bận lao động quần quật lo cho cuộc sống thường ngày. Câu chuyện của quá khứ đã vùi sâu, rất sâu trong kí ức.
Chỉ có tôi chưa bao giờ quên hình ảnh bà May, phốp pháp trong chiếc váy Mông đồ sộ, khăn áo đầy mùi khói bếp, và địu trước cõng sau những đứa trẻ không phải do bà sinh ra. Giờ, đã cuối đời, ngồi hút thuốc lào và lặng lẽ thở dài khi nhắc đến cái cuộc đời vẫn còn đang tiếp diễn một cách khó khăn, mỏi mệt và không ít buồn phiền.
Tôi không biết mình có thể làm gì cho bà, để như một sự biết ơn về cái thân phận hiếm hoi ấy đã níu giữ tôi trở lại với một vùng đất nặng trĩu ân tình.Tôi sẽ không gặp lại một thân phận thứ hai như thế trong đời, cũng khó có thể viết một truyện ngắn nào mà nguyên mẫu lại ám ảnh đến như vậy.
Nhà văn ĐỖ BÍCH THÚY
TIẾNG ĐÀN MÔI SAU BỜ RÀO ĐÁ
1.
Dựng xong căn lều trên mảnh nương mới được bạn tồng nhường cho, ông Chúng mang mấy chiếc nồi bé sang, cả gạo, muối, dầu thắp, cả một con trong đàn chó canh nhà. Lúc bà hỏi ông, định đi luôn không về hay sao mà mang lắm thứ thế, ông bảo phải qua sông, lại cũng xa nữa, nên thỉnh thoảng ông phải ở lại.
Thực ra chính ông cũng biết đó chỉ là cái cớ, chứ nếu ông đi vắng thường xuyên thì nhà ông như thiếu tường đất, mưa không biết lấy gì mà che, gió không biết lấy gì mà chống. Chưa kể gần đây thỉnh thoảng lại có nhà trong bản bị mất trộm dê lợn, có nhà đã mất cả bò. Thế mà cánh cổng gỗ vào nhà đã có từ đời ông bà, chưa một lần thay, cài then thì cũng chỉ để đánh lừa mắt thôi, người khỏe xô nhẹ là bật ngay ra rồi.
Chẳng phải ông không biết lo việc nhà, chẳng phải ông bỏ đi để hàng ngày được rượu thịt một mình. Lúc này ông thấy trong nhà mình khó ở quá, giống như trời sắp mưa giông mà mấy ngày liền không mưa được. Nhìn dáng con May ngồi thái dọc mùng trắng cho lợn mới thấy thời gian trôi đi nhanh quá, thằng Trài cũng cao hơn con dao quắm dựng góc nhà rồi.
Chỉ còn phải lo cho hai đứa con một vài năm nữa thôi, đến lúc chúng như con chim rời tổ thì với ông sống hay chết, no hay đói, giàu hay nghèo cũng chẳng cần phải nghĩ đến nữa. Cả bà chắc cũng nghĩ như ông thôi…
Ông Chúng sang nương, mấy ngày đầu nhà vắng quá, bữa cơm nào cũng mang thừa bát đũa. Đến tối May sang ngủ chung với mẹ Già.
Thường thì cứ phải đến lúc May chập chờn ngủ rồi mẹ Già mới vào. Hôm nào mẹ cũng phải đi một vòng xem lại cửa cổng, dập hết than trong bếp lò, mang chó ra buộc gần chuồng ngựa. Lúc mẹ Già vào, May ôm lấy mẹ thật chặt. Người May nóng gần bằng cái bếp lò, mẹ Già bảo thế.
Đêm nay May đi ngủ muộn, phần vì nhà đã vắng càng vắng – thằng Trài mang ngựa đi lấy giống, mẹ Già đi xem bệnh cho trẻ con nhà Chứ – phần vì ngoài kia, sau bờ rào đá, có tiếng đàn môi tự dưng cất lên, gọi mãi, gọi mãi. Tiếng đàn ấy May gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần nào cũng đuổi sau lưng, May đi nhanh thì theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ lại dám theo về tận nhà người ta nữa.
Đã mấy lần May đứng dậy, ngập ngừng định đi ra cửa mà chân cứ run lên lại ngồi xuống. Chiếc khăn thêu được vài đường đã nhầm, kim lại đâm vào ngón tay mấy lần. Sau rồi May cũng giữ được chân mình mặc kệ tiếng đàn môi ấy, dội lửa vào củi rồi vào buồng. Tiếng đàn còn quanh quẩn mãi bên ngoài mới chịu đi. Tiếng bước chân ngựa cũng ngập ngừng. Đi ngựa là người ở xa đến rồi. Đi xa mà đứng lâu như thế dưới sương có khi lại ốm.
May nằm mãi cũng chẳng ngủ được. Trên gác nhà, con mèo mẹ tha đàn con đi đi lại lại suốt, lục sục trong đống ngô bắp. Nhà không có đủ người, gió lùa từ đầu hồi này tới đầu hồi kia, nghe mỏi cả tai. Nhắm mắt rồi mở mắt, May cố không nhìn vào cái hòm gỗ to lù lù góc buồng. Trong cái hòm ấy mẹ Già cất một bộ váy áo đẹp lắm, thêu bảy màu như cầu vồng, mẹ bảo bao giờ con May lấy chồng thì mẹ cho mang theo.
Vậy mà mới đêm hôm qua, lúc gần sáng May thức giấc lại thấy mẹ già mở hòm lấy bộ váy áo ấy ra. Mẹ Già định mặc váy áo đẹp đến thế đi đâu? Hết mùa cưới rồi, họ hàng chắc cũng không còn ai cưới vợ cưới chồng cho con nữa. Mẹ Già đi đâu? Hay là mẹ Già định đi hội chợ hai bảy tới đây? Nếu thế thì… thì sao hở May? Có phải vì bố bỏ sang nương không? Hay vì bố biết mẹ Già định đi hội chợ tháng ba năm nay mà bố đi?
Lâu lâu không nghĩ đến chuyện bố mang gạo muối sang bên kia sông Nho Quế, bây giờ nghĩ lại mới thấy có điều gì đó không bình thường, không giống như việc đàn ông các nhà khác làm lều trên nương canh dê bò, canh khỉ trên rừng về phá. Càng nghĩ càng thấy khó tìm lối ra, càng khó ngủ. Tự dưng May lo lo, không rõ mình lo gì, nhưng như có ai đốt lửa trong bụng. Ngoài hè, giọt sương đọng trên mái tranh rơi xuống bể nước đá cạn khô càng lúc càng to, nghe giống tiếng mưa lác đác.
Năm nay trời rét đậm hơn mọi năm, lại rét muộn nữa. Rét muộn thì sẽ rét lâu rét dài, tháng ba tháng tư có nắng rồi vẫn rét. Ra giêng hoa đào hoa lê mới đua nhau nở, ai cũng bảo năm nay Tết mùng năm tháng năm sẽ mất vui. Nhưng Tết mùng năm còn lâu mới tới, trời thay đổi tính nết thì con người khổ, khổ vì gieo hạt ngô lúa xuống đất mãi vẫn chưa thấy lá chồi lên. Đất càng ngày càng khô đi. Ở những nương đá mới xếp đất xẹp gí xuống, đợi hạt giống đâm mầm lá lên mới bón thêm phân được. Nhưng lo thì cứ lo vậy thôi, hội hai bảy vẫn chẳng kém vui hơn mọi năm đâu.
Có tiếng chó đầu nhà rên ư ử, đuôi quẫy đập vào tường đất lạch phạch. Ông Chúng về. Mẹ Già mới về trước một lúc lập cập ra mở cửa, xuýt xoa:
– Về sớm thế? Sao không để sáng hẳn ra, sương tan cho đỡ lạnh.
– Ừ… – Tiếng ông khàn khàn – Cũng định thế. Nhưng có mấy người trên Xín Cái xuống sớm, bảo cho đi nhờ thuyền sang bên này, tiện thể về luôn. Ở nhà có việc gì không?
– Vẫn thế thôi, chỉ có mấy thanh chuồng ngựa sắp gãy. Hôm nào ông về lâu lâu thì sửa nhé.
– Được rồi, cứ để đấy, tí nữa tôi sửa luôn.
Ở nhà này thứ gì cũng cũ, cũng già. Cả cái chuồng ngựa cũng thế. Ngày xưa bố ông Chúng dựng bằng gỗ lim từ lúc con trai út chưa ra đời. Mấy chục năm rồi, không nhớ đã có bao nhiêu đời ngựa, bây giờ mới hỏng cần phải sửa là bền quá còn gì.
Trời sáng hẳn, ông Chúng đi một vòng quanh nhà, xem kĩ chỗ chuồng ngựa chuồng dê rồi mang dao, cưa ra sửa luôn. Bà ra theo ông, xem có cần gì thì giúp. Vừa làm ông Chúng vừa bảo vợ:
– Mẹ Già này, năm nay xuân muộn, người đi chợ hai bảy đông lắm, nấu được ít rượu ngô đem bán thì tốt quá.
– Không phải nấu cũng còn đầy kia kìa. Trước tết nhà Sùng nhờ nấu mấy nồi cho nó lấy con dâu mới, sau họ hàng giúp nhiều quá lại không dùng đến.
– Thế thì bà mang ngựa thồ đi bán nhé.
Giọng nói của ông có gì khang khác, bà cảm thấy thế. Rượu nhà mình tự nấu, để bao lâu cũng được, càng để lâu uống càng ngon. Mà từ giờ đến tết năm sau còn có bao nhiêu dịp cần đến rượu, sao ông lại giục bà đi bán. Bà nhìn mãi sang ông nhưng ông vẫn cắm cúi làm, như không để ý, như chỉ vô tình nói ra chuyện đi chợ bán rượu. Ai cũng biết mang rượu đi chợ hai bảy để người bán người mua uống cùng với nhau.
Uống cho say rồi người mua không nhớ trả tiền cũng được, mà nhớ nhưng trong túi chỉ còn vài đồng không đủ mua túi muối, mang ra trả cũng được. Chợ ngày hai bảy nhưng từ hai mốt, hai hai đã lác đác có người, có rượu. Cả năm cúi mặt ngoài nương, cúi mặt vì hạt ngô hạt đậu, về nhà cúi mặt vì con lợn con gà, mãi mới có lúc thảnh thơi. Không bị trẻ con quấn chân nên ở chợ mọi người tha hồ chơi, tha hồ uống rượu. Đàn ông quên dao, quên nỏ, đàn bà quên chảo cám, quên cái đũa cả, chẳng ai chê cười.
2.
Giữa ông Chúng với vợ đúng là có bao nhiêu thứ khó nói ra thành câu thành tiếng. Tất cả cũng chỉ tại một người mới đến, rồi lại đi trước tết. Đi luôn thì thôi, đằng này còn hẹn ra xuân sẽ quay lại. Nếu đúng lời hẹn thì người ấy cũng sắp quay lại rồi.
Trước tết một tháng, đúng hôm mẹ Già với May làm bánh khảo thì nhà có khách.
Khách ấy là mẹ Hoa. Lúc May ra mở cổng, May nhận ra mẹ Hoa ngay, nhưng mẹ Hoa cứ đứng nhìn May mãi, nhìn không chớp mắt. May không nghĩ mình lớn đến mức khó nhận ra thế. Ngay lúc ấy May đã quay lưng đi như chạy vào nhà ngay, mặc kệ mẹ Hoa kéo lê cái túi to đùng trên đất đi sau.
Người May tự dưng nóng bừng lên, hai đầu gối run bần bật. Có cái gì đó như một cơn gió lạ đã ùa đến, rồi sẽ hất tung mọi thứ trong nhà lên, sẽ chẳng có thứ gì được ở yên chỗ của mình nữa. Sao tự dưng mẹ Hoa lại về, sao không đi luôn. Chị em May đã sắp quên chuyện cũ đi, giờ lại phải nhớ hay sao?
Mẹ Hoa đi vào trong nhà, cúi đầu chào bố đang ngồi bên bàn uống nước. Bố May nhìn ra:
– À… lại về nhà đấy!
– Vâng… – Mẹ Hoa lí nhí, đầu cúi thấp hơn nữa, tay mân mê hai cái quai túi đặt trước mặt.
– Về làm gì? – Bố hỏi mà như không hỏi.
– Em… em về chơi thôi. Xem mọi người thế nào.
– Thế nào à? Chẳng thế nào hết. Người lớn thì già đi, trẻ con thì lớn lên…
Bố nói như không có người đứng nghe ngay trước mặt. Bố gọi May, gọi thằng Trài. Chỉ mình thằng Trài vào, còn May đứng đầu hồi, như không nghe tiếng bố.
Mẹ Già đi ra, bảo mang củi ướt ngoài chuồng ngựa vào cho mẹ gác lên bếp lò, ghé vào tai May nói như mắng:
– Không được thế con gái à. Mẹ Hoa chứ có phải người lạ gặp ngoài đường đâu. Lâu quá mới về nhà, nhưng con gái vẫn không quên đâu, phải thế không?
May quay lại trả lời mẹ Già:
– Con còn nhớ hơn cả mẹ, mẹ Già ạ. Nhớ hết. Nhớ cả con bò bị người ta dắt đi…
– Ầy, chuyện cũ đừng nhắc nữa. Cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên quên phải biết quên. Hôm qua trời mưa nước suối đục, nhưng không đục mãi được. Con người cũng thế…
Mặc kệ mẹ Già nói gì thì nói, May cũng không tự bắt mình quên được. May chạy ra chạy vào, hùng hục mang tất cả số củi ướt ngoài chuồng ngựa vào chất cao gần chạm gác bếp ở sau lò. Một thanh củi rơi cả vào chảo cám đang sôi sùng sục. Mặc kệ. Mồ hôi túa ra trên mặt May, áo váy bê bết đất. Chuyến cuối cùng, thằng Trài đứng chặn ở cửa, nhìn chị từ trên xuống:
– Chị là đứa trẻ con bốn, năm tuổi à?
May mím môi. Thằng Trài người thì to thật đấy nhưng ý nghĩ thì bé, bây giờ đã dám nói cái giọng ấy với chị nó rồi cơ đấy. May giằng tay em ra, mang số củi ướt vào phía sau bếp lò, cầm lấy thanh củi trong chảo cám quấy tung cả lên.
Mẹ Già về làm vợ ông Chúng đã hơn hai chục năm. Ngày ấy cả vùng này biết tiếng cô Mao đẹp người, nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới không ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cô. Cả vùng cũng chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu như bố mẹ Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu nhà Chúng.
Trước ngày cưới, cả đêm tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức trắng. Mờ sáng thì con ngựa ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn môi nghe rất xa. Mao ngồi dậy, nhìn qua ô cửa bé bằng hai bàn tay, thấy ngoài trời mù mịt sương ập xuống mảnh sân, vườn, nhìn từ nhà ra bờ rào đã không thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày đặc, lao đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao giờ nghe tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa.
Sau ngày cưới một năm, hai năm, rồi ba năm, chờ mãi mà vợ chồng Mao vẫn chưa có con. Lúc đầu nhà chồng còn chạy tìm thầy tìm thuốc sau thấy không làm được gì đành thôi. Bố chồng, mẹ chồng nối nhau đi, thương con dâu như con gái nên không đành mở miệng bảo con trai đi tìm vợ mới, dù cả họ chỉ còn mỗi một người đàn ông trẻ nhất là Chúng.
Còn lại hai vợ chồng, bao nhiêu lần Mao nói với Chúng, hay là Chúng để Mao về nhà mẹ đẻ, cho Chúng đi lấy vợ mới, nhưng Chúng không nghe. Chúng phải giữ lấy Mao như giữ cánh cửa trong nhà mình. Chúng biết mình chẳng tìm được ở đâu một người thay được chỗ của Mao. Mỗi lần có việc phải ra khỏi nhà Chúng cũng đều cố gắng nhanh nhanh cho xong việc để còn về. Chúng sợ Mao ở một mình lại buồn, sợ Mao đắp nửa chăn, nằm nửa giường lạnh không ngủ được.
Năm ấy, người ta mở đường lên Thượng Sơn, cả bản nhà nào cũng phải có một người ra khuân đất đá. Ngày nào Mao cũng dậy sớm đồ xôi, nướng gà cho Chúng ăn no, còn gói để Chúng mang theo ăn trưa luôn. Nhưng càng ngày con đường càng xa, làm xong không kịp về nhà, Chúng phải mang gạo đi, đến công trường góp nấu cơm chung với người ta. Vài ba hôm Chúng mới tranh thủ về được một lần. Lần nào cũng động viên Mao chịu khó ở một mình ít ngày nữa, đường sắp xong rồi.
Nhưng cũng phải hết mùa khô thì con đường nối mấy xã với nhau mới hoàn thành. Căn nhà rộng vắng bóng Chúng lâu quá nên chỗ nào cũng thấy lành lạnh, ngày Chúng về Mao đang ốm, đã mấy hôm liền không ăn uống gì.
Nhưng Chúng không về một mình. Đi theo Chúng còn có một người cùng trong đội dân công. Người ấy là một cô gái trẻ hơn Mao mấy tuổi, người miền xuôi.
Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của mình sang căn buồng của mẹ chồng trước kia. Căn buồng thường xuyên được Mao quét dọn, nhưng thiếu người ở nên cứ như cái nhà hoang. Lúc Mao mang cái hòm riêng từ ngày về nhà chồng ra thì Chúng đứng ở cửa buồng, đưa tay ra như muốn giữ Mao lại. Mao nhìn vào mắt Chúng, nhìn thẳng. Chúng không chịu được ánh mắt Mao phải quay mặt để Mao bước ra.
3.
Đêm hôm ấy Chúng ngồi gọt chuôi dao bên bếp lò, muộn lắm mà không đi ngủ. Mao dọn dẹp nhà cửa xong cũng không đi ngủ mà mang bó mùng trắng ra thái. Hai người không ai nói gì, chỉ nghe tiếng dao thái vào thân mùng phầm phập. Mao đứng dậy, đổ dọc mùng vào chảo cám, cúi xuống đẩy mấy gộc củi vào sâu trong bếp, lúc ấy Chúng mới kéo áo Mao, bảo Mao ngồi xuống cạnh mình.
Nhưng hai người ngồi cạnh nhau rồi mà Chúng vẫn cứ gọt mãi, gọt mãi cái chuôi dao, gọt cả vào ngón tay, máu ứa ra. Đưa ngón tay bị đứt lên miệng. Chúng không biết bắt đầu như thế nào. Mao vẫn nhìn chằm chằm vào bếp lửa, ánh lửa hắt lên mặt Mao đỏ hồng, tự dưng Chúng thấy sờ sợ Mao, thà Mao cứ nói gì thật to với Chúng còn hơn.
Từ hôm ấy nhà có ba người. Ba người ngủ ở ba cái giường, ba góc nhà. Ba người không mấy lúc nói chuyện với nhau, Mao dưới bếp, Hoa trên nhà, Chúng ngoài vườn, chỉ bữa cơm mới ngồi gần nhau. Đêm nào cũng nghe thấy tiếng kọt kẹt từ ba cái giường. Dậy sớm hay dậy muộn thì cả ba người đều quầng hai mắt. Sống thế thì khổ quá, rồi đến lúc ốm cả thì sao?
Một đêm, Chúng ngồi dậy, đi đến cửa buồng bên phải, cửa buồng cài chặt bên trong, Chúng đứng một lúc lâu, khe khẽ ho, nhưng cửa vẫn đóng kín cũng không nghe thấy tiếng người trong buồng thức dậy. Lúc ấy, buồng bên trái tự dưng có tiếng khóc. Tiếng khóc của người đang úp mặt xuống gối. Cửa buồng bên ấy lại không cài, chỉ khép hờ. Trời lạnh mà mồ hôi vã ra đầm đìa trên mặt Chúng…
Sau khi con bé May ra đời, Hoa ở lại chứ không bỏ đi như Chúng nói với Mao. Nhưng đúng là Hoa không quen làm nương, không biết trỉa đậu, vun đậu, nhóm cái bếp lò cũng không nổi. May được hai tháng tuổi thì mẹ Hoa để May ở nhà với mẹ Già rồi xuống phố huyện mở sạp bán giày vải, thỉnh thoảng mới về.
May bé như con mèo con. Từ sáng đến tối khuya, lúc nào cũng nằm trong địu trên lưng mẹ Già. Không biết bao nhiêu lần May ngậm hai bầu ngực mẹ Già, nhay đến bật máu vì thèm sữa. May lên hai tuổi, còn chưa trèo qua được bậu cửa thì mẹ Hoa đẻ thêm thằng Trài. Thằng Trài lại ngồi trong địu, thay chỗ của May, lại nhay bầu vú chưa bao giờ có sữa của mẹ Già.
Mẹ Hoa ngày càng ít về, mỗi lần về cũng chỉ một lúc, không kịp ăn cơm lại đi. Lần nào về cũng mang cho hai chị em May cả túi kẹo màu to tướng, cả giày dép áo quần. Nhưng lần nào cũng vậy, chị em May lại mang kẹo ra đổ vào máng ngựa, quần áo cũng không mặc đến, mặc váy áo mẹ Già dệt quen rồi. Quần áo mẹ Hoa mang về cứ để mãi trong hòm.
Năm May lên mười một tuổi, em Trài lên chín thì mẹ Hoa về nhà lần cuối cùng rồi đi hẳn. Lần ấy mẹ Hoa ăn cơm rồi ngủ lại một đêm với ba mẹ con. Bố May đi săn không về, chị em May đi ngủ sớm, sáng hôm sau thức dậy đã không thấy mẹ Hoa đâu. Mẹ Già cũng chỉ bảo là mẹ Hoa đi sớm lắm, khắc tự dậy mở cửa rồi đi. Cũng đêm ấy, con bò cày bị mất trộm, ai đó đã tháo thanh cài cửa chuồng dắt bò đi.
Nhà chỉ có một con bò cày, mất bò thì người phải làm thay bò thôi. Gần trưa hôm ấy ông Chúng mới đi săn về, May ôm lấy chân bố, kể chuyện mẹ Hoa về, chuyện mất trộm bò. Không thấy bố và mẹ Già nói gì với nhau về chuyện ấy. Mấy đêm liền bố May không ngủ, ngồi uống rượu khan ngoài hè, xung quanh là đàn chó con lớn con bé nằm chồng lên nhau.
Vụ mùa năm ấy, vụ sau nữa, hai bố mẹ May phải mang cuốc đi cuốc đất thay bò. Bàn tay mẹ Già đã chai càng chai thêm, vết chai dày cộp như miếng cháy trong nồi cám. Đêm nào mẹ Già cũng lấy hai bàn tay đầy vết chai ấy xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ.
Mẹ Hoa đã đi suốt bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng, ai cũng nghĩ là mẹ Hoa không bao giờ về nữa. Mấy lần ông Chúng xuống huyện cũng không thấy Hoa ngồi bán hàng ở đó. Bằng ấy ngày tháng, đủ cho bọn trẻ con sắp thành người lớn cả rồi, Hoa còn trở lại. Chẳng lẽ giống như người đi mãi mà không tới được nơi cần đến, không còn sức nữa nên quay về tìm chỗ nghỉ chân?
Mẹ Hoa về làm cái gia đình đang yên ổn như tổ chim trên cao lộn tung cả lên. Hoa đã nói những gì ông Chúng chẳng nhớ hết, vì ông không muốn nghe thì nói gì cũng thế thôi, chỉ đến khi mẹ Hoa ngỏ ý đưa con bé May với thằng Trài về xuôi thăm họ hàng, ăn tết, thì ông quát lên. Nhà ông không phải vườn ổi hoang, ai thích đến hái thì cứ hái như bọn trẻ chăn bò.
Nói với ông khó quá thì mẹ Hoa tìm mẹ Già. Sau một đêm, thức dậy ông thấy hai mắt mẹ Già trũng xuống, tay bưng chậu cám run như phải cảm. Ông cứ chờ xem bà có nói gì với mình không nhưng bà im lặng mãi, cắm cúi làm, không buồn ngẩng mặt lên.
Mẹ Già thì tránh mắt ông, ông lại tránh mắt mẹ Hoa. Mẹ Hoa vẫn đẹp như bông lê đang độ nở rộ ngày trời ấm. Mẹ Hoa chỉ kém mẹ Già mấy tuổi mà trông như con gái của mẹ Già. Có lúc mẹ Hoa nhìn ông, nhìn muốn cháy cả mặt.
Lúc mẹ Hoa vén quần rửa chân, để lộ hai bắp chân tròn hơn cả bắp chân con May, thì ông xua tất cả những ý nghĩ lạ sắp đến trong đầu mình đi. Mẹ Hoa lại vào ngủ trong buồng trái, không cần ai bảo. Từ ngày mẹ Hoa đi, ông ngủ một mình ở đấy. Mẹ Già lấy cớ đã ngủ quen bên kia với bọn trẻ con, dứt khoát không chuyển đồ sang lại nữa.
Ông lại ngồi uống rượu khan. Lưng áo ông lạnh buốt. Sau lưng ông là cửa buồng trái khép hờ, trước mặt là ngọn đèn cạn dầu, ngọn lửa cháy đã có mùi khét của bấc.
Mẹ Hoa không sao nói chuyện được với May. May tránh mặt mẹ đẻ. May bảo với bố, mẹ Hoa chỉ như con thú hoang ở đâu lạc vào nhà mình thôi, lúc nào không muốn ở nữa thì khắc bỏ đi. May biết, lúc nào phía sau, bên cạnh mình cũng có ánh mắt mẹ Hoa nhìn mình.
Thằng Trài khác May, nó đã chịu nói chuyện với mẹ Hoa. May đâm ra ghét cả Trài, hai chị em cũng không nói chuyện với nhau nốt. Lúc nào May cũng chỉ thấy hai bàn tay khô như hai cành mua cong queo, đầy vết chai dầy như miếng cháy trong chảo cám của mẹ Già trước mắt mình.
4.
Mãi đến lúc mẹ Hoa xách túi đi May mới nhìn thẳng vào mẹ một lần, lần đầu tiên từ hôm mẹ về. Và May đã giật mình, đã tự dưng thấy đau buốt trong ngực. Hai mắt mẹ Hoa – đôi mắt mà mẹ Già vẫn bảo là thứ để người khác nhìn vào nhận ra May – đôi mắt ấy đỏ như chảy máu, mí mắt sưng to, hai gò má mẹ Hoa trắng nhợt. Nhưng May vẫn không nói với mẹ Hoa một lời nào, miệng May như có ai khâu chặt lại.
May đã quay mặt đi, tránh ánh mắt mẹ Hoa, May không đủ sức nhìn lâu hơn. Mẹ Hoa đi, một lúc đã không thấy đâu giữa những triền ngô xơ xác vừa qua vụ thu hoạch. May vùng chạy khỏi nhà, chạy về phía con suối nằm rất sâu trong rừng. Mẹ Già đang giặt ở đấy, váy áo ướt phơi đầy trên những tảng đá lớn trên bờ suối. May chạy xuống ngã dúi vào mẹ Già, khóc oà lên:
– Đi… đi rồi, mẹ Già ơi! Mẹ Hoa ấy…
Mẹ Già ôm lấy vai May. Nước suối lạnh buốt đập vào gờ đá, bắn ướt chân váy hai mẹ con. Mẹ Già khe khẽ thở dài…
May gặp người ấy rồi. Có một tối ngồi trong nhà, nghe tiếng đàn môi gọi mãi, giục mãi. May đã liều bước chân ra cổng. Người ấy ở Thượng Sơn xuống, còn trẻ lắm, hơn May một, hai tuổi là cùng, nhưng May chỉ đứng cao đến vai người ấy.
Dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ May không nhìn được rõ mặt, nhưng cảm thấy rất rõ ánh mắt như lửa cháy của người ấy nhìn mình như thế nào. Đêm đầu tiên, May chỉ dám đứng một lúc, run quá, chạy vội vào nhà, May sợ mình đứng thêm nữa thì ngã mất. Dần dần đỡ sợ hơn, May đứng thêm một lúc, có hôm sương rơi ướt vành khăn mới vào nhà. Giờ thì May đã nhận lời đi hội chợ hai bảy với người ấy.
Ngày mai Chử đợi May ở ngã ba, từ ngã ba đến chợ còn một đoạn nữa, đến nơi chắc trời cũng tối rồi. Cả đêm May không ngủ được. Đã cố tình đi ngủ muộn mà đến lúc vào giường, nằm mãi vẫn chưa thấy gà gáy. May nói dối mẹ Già là cái Ly rủ May sang nhà nó làm bánh, mẹ Già không nói gì, chỉ dặn đến nhà người khác phải nhớ chào hỏi người già, không được đi ngủ trước người già như ở nhà mình.
Trời mờ sáng, May đã dắt ngựa ra. Con ngựa đen như hiểu ý May, ngoan ngoãn để May đặt yên lên lưng.
May run quá, chỉ sợ gặp người quen trong bản, người ta kể lại với bố mẹ thì thế nào cũng bị mắng vì tội nói dối. Nhưng sợ thì cũng cứ đi, có người đi cùng mình thì còn sợ cái gì. Không ngờ ở chợ ấy May gặp đến ba, bốn đứa bạn gái cùng bản, đứa nào cũng đi với một anh con trai lạ. Nhìn thấy nhau, không đứa nào nói gì, cứ làm như không quen, quay mặt đi mới tủm tỉm cười.
Đêm xuống, có một thanh niên đốt đống lửa to ở giữa bãi còn, ai có cái gì mang theo thì bỏ ra ăn chung. May và bạn May cũng buộc ngựa một góc rồi ra đấy ngồi cùng. Xung quanh đống lửa càng lúc càng đông người, toàn con trai con gái trẻ. Giờ thì không có ai xấu hổ nữa. Má đám con gái đỏ rực nhưng là vì ánh lửa. Ai cũng như mình thì việc gì phải xấu hổ.
Sáng hôm sau, đúng ngày hai bảy tháng ba, mặt trời mãi mới nhô lên sau cánh rừng đỏ rực. Chử kéo tay May ra phía người ta ngồi thành hàng dài, rượu đựng trong can to để trước mặt. Nhưng ngồi uống rượu lâu cả buổi thì chỉ có người già thôi, bọn thanh niên ghé qua một tí rồi tìm chỗ khác, ít bị người ta nhìn thấy mà ngồi.
Vừa ngồi xuống một hàng rượu, chưa kịp nói gì với người bán thì đột nhiên May kéo Chử đứng bật dậy:
Đi! Đi chỗ khác. Nhanh lên.
Vừa nói May vừa kéo Chử đi như chạy, xa chỗ bán rượu càng nhanh càng tốt. May vừa nhìn thấy, May không nhìn nhầm, nhất định May không nhầm, người mặc váy áo rực rỡ như cầu vồng ấy là mẹ Già. Mẹ Già đang ngồi sau quẩy tấu gùi rượu, mặt đỏ rực. Còn người phía bên kia có phải là bạn của mẹ Già? Là người thề không bao giờ chơi đàn môi nữa từ ngày mẹ già đi làm dâu, có phải người ấy không?
May kéo Chử đi, còn Chử nhìn May, nhìn mãi không nói được câu gì. Nhà Chử chỉ có hai bố con. Mẹ Chử chết bệnh từ khi đứa con trai đang bám bậu cửa tập đi. Lên sáu tuổi, Chử đã được bố dạy thổi kèn, lên mười tuổi Chử đã theo bố lên nương. Biết chuyện, bạn May có đứa đùa, bảo May về nhà ấy làm dâu thì sướng, vì Chử thổi kèn còn hay hơn cả bố, vì May không phải chiều mẹ chồng…
Muộn lắm May mới về tới nhà. Mẹ Già đang ngồi hong tay trước cửa bếp lò mới bén lửa, giục May lấy nước ấm đi rửa chân tay. Mẹ Già đã mặc bộ váy áo ở nhà nhưng lại quên thay khăn. May ngồi xuống bên cạnh. Mẹ Già bảo bố đưa mẹ Hoa xuống phố huyện chưa về, mẹ Hoa mới lên chiều hôm qua. Mẹ Hoa lại lên. Chuyện ấy có đáng nghĩ đến không? Sao mẹ Già chẳng nói gì thêm? May ngập ngừng:
– Mẹ Già định… định thế nào?
– Thế con gái bảo mẹ phải làm gì? – Mẹ Già quay sang nhìn May rồi lại quay đi, cằm tì lên hai đầu gối, tay cầm thanh củi dụi mãi vào bếp lò đang cháy to dần, một lúc lâu mới tiếp:
– Con gái à, làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái cục đá kê chân cột nhà chồng thôi. Ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là cục đá kê cột thế thôi…
Nghe mẹ Già nói May ứa nước mắt ra. Vậy là hai mươi năm nay mẹ Già vẫn nghĩ mình chỉ là cục đá, mẹ Già không nhận chị em May hay sao? Mẹ Già định trả chị em May cho mẹ Hoa như người ta mượn ngựa rồi trả ngựa hay sao? Trả xong rồi thì mẹ Già làm gì nữa? Chẳng lẽ bằng ấy tuổi rồi còn định sang nhà khác tiếp tục làm cục đá kê cột? May kéo ghế ngồi xích lại gần mẹ Già hơn một tí, không biết nói gì cho phải, bụng dạ đau thắt như có ai cầm dao sắc mà cứa.
Khuya rồi vẫn không thấy bố về. Bây giờ đường tốt rồi, người ta đi về chỉ mất chưa hết nửa ngày, vậy mà bố đi lâu thế? Chẳng ai bảo ai nhưng hai mẹ con đều có ý chờ, chờ đến tàn gộc củi mới đi ngủ. Nhưng vừa nằm một lúc, chập chờn ngủ thì May nghe có tiếng đàn môi cất lên.
Tiếng đàn ngay ngoài cổng gỗ chứ không gọi ở đầu nhà như lần trước. May định mặc kệ, vừa mới chào nhau, mùi tóc quen quen còn chưa bay hết, lại buồn ngủ nữa. Nhưng tiếng đàn cứ gọi mãi, gọi mãi, mà tiếng đàn môi đêm nay cũng có gì khang khác, dài hơn, trầm hơn, ngập ngừng hơn, vẫn tràn qua bờ đá vừa dày vừa cao như suối chảy. Nghe bao nhiêu lần mà lần nào May cũng hồi hộp, tim đập thình thịch.
Đột nhiên mẹ Già khẽ khàng ra khỏi chăn, chắc lúc đi ngủ mẹ quên chưa buộc con chó ra ngoài chuồng ngựa rồi. Đợi mẹ mở cửa, May cũng tung chăn ra. Ra bảo Chử về đi thôi. Về nghỉ mai còn đi làm chứ.
May đi như chạy ra sân, đầu va cả vào dây phơi treo đậu tương, định ra rồi vào luôn để mẹ Già không biết. Nhưng vừa đi qua sân bất chợt May sững lại. Ngay trước mặt May, chỉ cách hai bước chân là mẹ Già. Mẹ Già quay lưng lại phía May, đầu cúi xuống, tấm khăn tuột trên vai, tay mẹ Già đang nắm chặt thanh gỗ cài hai cánh cổng…
May bíu lấy gốc lê, cố thở thật khẽ. Ánh trăng cuối tuần mờ quá. Gió lạnh từ trong khe núi ào ra, mấy chiếc lá lê già còn sót lại rụng nốt, quệt vào bờ rào đá lạt sạt…