Mùa hạ yêu thương.6

by Rose & Cactus

Tháng bẩy

by Mary Elizabeth [McGrath] Blake

Mặt trời đỏ nhô lên lúc bình minh

Ngọn lửa rực cháy trên đỉnh;

Mặt trời đỏ lặn xuống khi chiều tối,

Trong ánh sáng nóng chảy phía Tây;

 

Không khí trở nên uể oải và ủ rũ,

Bay làm sao trên đôi cánh quá nặng nề;

Con châu chấu ca khúc ca buồn ngủ

Ngâm nga tới bầu trời dáng gật gù;

 

Và những con sóng mát rượi và tối tăm

Qua bãi cát nóng bỏng của tháng Bảy!

6h sáng,

Phố xá thưa xe,

Trên cây cao

Tiếng nhạc phát thanh chương trình thời sự ngân khẽ,

Vòng xe đạp quay đều buồn tẻ

 

6h sáng,

Sơn ca mắt nhắm mắt mở

Hát khúc ca của nhịp điệu thơ

 

Phía xa

Mặt trời thở

Lung linh tia nắng ánh sương mờ

(08.07.2024)

 

Mấy hôm nay hạ đã đúng là hạ rồi. Nắng từ sáng sớm và càng về trưa càng trở nên gay gắt. Gần trưa, mẹ đưa mình đồ ăn mang xuống cho hai con chó nhà cậu em. Hai con chó mảnh khảnh, lông vàng, tai vểnh và hiền khô.

Mình vốn nhát chó vì ngày nhỏ bị chó nhà hàng xóm của ông ngoại cắn nhiều quá nên khiếp, thế nhưng cũng phải có cảm tình với hai cậu nhóc này. Bố mình chỉ cần kêu một tiếng với chúng đây là người nhà không được sủa là chúng im ngay, không nhặng xị lên nữa mà chỉ ngước ánh mắt ngơ ngác lên nhìn mình với vẻ thăm dò.

Có lẽ vì chúng được sống trong một không gian rộng rãi, chứ không bị nhốt hay kìm kẹp trong những căn phòng chật hẹp nên không hung dữ chăng? Hai cậu cho được làm chủ cả một khu vườn, được tung tăng suốt ngày trong khoảnh đất thoáng đãng và mát mẻ, còn gì bằng?

Có cái hay là hai cậu chó này chỉ chạy nhảy trên lối đi và vầy nghịch trong ngôi nhà của chúng chứ không bao giờ quần thảo nơi vườn rau đẹp đẽ mà bố mình vun trồng.

-Đây là luống rau muống bố mới trồng nên xanh non hơn hẳn

Bố vừa hái rau vừa giải thích. Nắng chiếu xuống xuyên qua những vạt rau, pha loãng màu nâu của đất. Gió thổi từ cánh đồng sau nhà ngược lên khu vườn mát rượi.

Hai chú chạy ngược xuống chỗ mấy bụi chuối ngay chỗ cái chuồng của chúng, như để trú bóng râm và thuởng thức gió. Loài chó, vốn không chịu được nắng nóng nên có lẽ mùa hè là mùa mà chúng ghét nhất. Lưỡi của chúng cứ lè ra, và tiếng thở khè khè nghe rõ lắm.

Mình cũng bạo dạn lại gần chỗ chúng đứng, dưới gốc mít. Chỗ này bố mình cũng trồng đủ thứ cây xung quanh, vài cây lá nếp, vài cây chanh, nghệ, gừng, giềng và một giàn củ khoai từ.

Hai chú ve vẫy quẫy đuôi như thể đồng tình với sự xuất hiện của mình ở đây: Cái chỗ này mát quá mà vì có tầng lá bên trên tạo bóng râm; trong khi thảm lá bên dưới lại như tầng đất mục nên cho cảm giác đất có độ ẩm được tích tụ nên không bị khô nóng;

Chó ơi mày khôn quá thể đấy!

Gần trưa tiếng con gà mái nhảy ra khỏi ổ đẻ, cục ta cục tác. Nó kêu một hồi rồi chạy xuống cuối vườn nơi lũ bạn gà của chúng vẫn đang tha thẩn dưới mấy gốc chuối.

Chó thì chỉ có một người bạn chứ Gà thì ồn ào lắm cả đàn bạn cơ!

Cơ mà lúc này thì khu vườn mùa hạ bỗng yên tĩnh lạ thường. Mình lại gần cái ổ rơm và nhấc lên hai quả trứng gà nóng hổi.

Tự nhiên lại thấy cái nóng mùa hạ chưa bao giờ dễ chịu và đáng yêu như thế!

Nhật thực của tình bạn

By Hugh Black

10.

Vì đó là một trong những niềm vui lớn nhất của cuộc đời khi một tâm hồn đồng điệu lần đầu tiên được nhận ra và khẳng định, nên đó cũng là một trong những khoảnh khắc cay đắng nhất của cuộc đời khi sự đứt gãy đầu tiên được tạo ra từ những mối ràng buộc ràng buộc chúng ta với những cuộc sống khác.

Trước khi điều đó đến, thật khó để tin rằng nó là có thể, nếu chúng ta từng nghĩ đến nó. Khi điều đó đến, việc hiểu ý nghĩa của cú đánh còn khó hơn nữa. Phép màu của tình bạn dường như quá công bằng để mang trong lòng mối đe dọa về sự mất mát.

Tất nhiên, chúng ta biết rằng những điều như vậy đã từng và phải xảy ra, nhưng chúng ta chưa bao giờ hoàn toàn nhận ra việc trở thành nạn nhân của sự diệt vong chung của con người sẽ như thế nào.

Nếu nó chỉ đến như một cơn đau đột ngột, rồi qua đi sau một cơn đau ngắn ngủi, thì nó sẽ không quá đau đớn như một phiền não; nhưng khi nó đến thì nó sẽ ở lại. Vẫn còn một nơi trong trái tim chúng ta dịu dàng với mọi cái chạm và nó được chạm vào rất thường xuyên.

Chúng ta sống sót qua cú sốc hiện tại dễ dàng hơn so với việc liên tục bị nhắc nhở về sự mất mát của mình.

Gương mặt quen thuộc ngày xưa, bị mất đi bởi thị giác, có thể được nhớ lại bằng một lời nói lạc, một sự trông thấy tình cờ, một kỷ niệm tình cờ. Mối quan hệ càng gần gũi thì càng có nhiều điều trong cuộc sống của chúng ta gắn liền với anh ta – những điều chúng ta đã làm cùng nhau, những nơi chúng ta đã cùng nhau đến thăm, thậm chí cả những suy nghĩ mà chúng ta đã cùng nhau suy nghĩ.

Dường như không có vùng nào trong cuộc sống mà chúng ta có thể thoát khỏi những gợi ý của ký ức. Việc nhìn thấy bất kỳ vật thể nhỏ nào cũng có thể mang anh ta trở lại, với cách nói chuyện, cử chỉ, với tất cả những đức tính mà chúng ta yêu quý anh ta và vì điều đó mà chúng ta thương tiếc anh ta bây giờ.

Nếu sự thân mật chỉ là do sự gần gũi về mặt thể chất thì sự mất mát sẽ chỉ là một cảm giác khó chịu mơ hồ do thói quen lâu dài bị phá vỡ; nhưng, nếu hai cuộc đời được dệt thành cùng một mạng lưới thì chắc chắn sẽ còn sót lại những mép rách rưới, và thật là một công việc mệt mỏi khi phải lấy lại những sợi chỉ và tìm một sợi dây mới cho sợi dọc.

Sự kết nối càng gần thì sự mất mát càng sâu sắc. Nó quay trở lại với chúng ta khi nhìn thấy nhiều thứ liên quan đến anh ta, và lấp đầy cuộc sống của chúng ta với vô số phiền nhiễu khi chúng ta có thể, cái bóng lại bò trở lại để làm đen tối thế giới.

Đôi khi còn có thêm nỗi đau hối hận vì chúng ta đã không trân trọng đủ kho báu mà mình sở hữu. Trong sự thiếu suy nghĩ, chúng ta đã nhận món quà; chúng ta biết rất ít về giá trị đích thực của tình bạn của anh ta; chúng ta yêu thương rất ít và thiếu kiên nhẫn:

– ước gì chúng ta có lại được anh ta; giá như chúng ta có thêm một cơ hội nữa để cho anh ta thấy anh ta đáng yêu như thế nào; giá như chúng ta có một cơ hội khác để chứng minh tự chúng ta  xứng đáng. Chúng ta khó có thể tha thứ cho chính mình vì đã quá lạnh lùng và ích kỷ.

Tự trách móc bản thân, hối tiếc về một cơ hội không được chấp nhận, là một trong những cảm giác phổ biến nhất sau khi mất người thân, và đó là một trong những cảm giác may mắn nhất.

Tuy nhiên, nó có thể trở thành một cảm giác ốm yếu. Đó là một chủ nghĩa đa cảm sai lầm sống trong quá khứ và phung phí sự dịu dàng của nó vào ký ức. Thật khó để nói ranh giới giữa nỗi buồn lành mạnh và tình cảm ốm yếu là gì.

Đó dường như là một bản năng tự nhiên, khiến tang quyến phải yêu thương chăm sóc tận nấm mồ, khiến người mẹ phải khóa chặt đôi giày nhỏ mà đôi chân bé nhỏ mang, những di vật giấu kín khỏi con mắt tầm thường.

Bản năng đã trở nên ốm yếu hơn một chút khi nó bảo tồn căn phòng của một người mẹ đã chết, với những đồ trang trí và vật dụng lặt vặt khi bà rời bỏ chúng. Bản năng có thể đẹp đẽ nhưng không có gì nguy hiểm bằng khi cảm giác tự nhiên nhất của chúng ta trở nên bệnh tật.

Luôn luôn là một cám dỗ, càng sống lâu, chúng ta càng bị cám dỗ nhìn lại thay vì nhìn về phía trước, than vãn về quá khứ, và do đó chế nhạo hiện tại và không tin tưởng vào tương lai. Chúng ta không được quên những phước lành hiện tại, tình yêu mà chúng ta vẫn có, những ảnh hưởng nhân từ còn sót lại và trên hết là những nhiệm vụ đòi hỏi sức mạnh của chúng ta.

Những người phụ nữ yêu thương đi từ sáng sớm đến mộ Chúa Kitô đã được chôn cất đã gặp phải một lời khiển trách: “Tại sao các ngươi lại tìm người sống giữa những kẻ chết?

Họ được sống lại để tìm Ngài, và được sống lại để làm vinh danh cái chết của Ngài.

Không phải bằng dầu thơm và gia vị, dù quý giá đến đâu, cũng không phải ở ngôi mộ đẽo bằng đá, họ có thể tưởng nhớ Chúa của họ một cách tốt nhất; mà là ở bên ngoài thế giới nơi mà buổi sáng hôm đó dường như quá lạnh lẽo và ảm đạm, và trong cuộc sống của họ, nơi mà sau đó dường như không đáng sống.

Cơ-đốc giáo không lên án bất kỳ tình cảm tự nhiên nào của con người, nhưng sẽ không để những cảm xúc này cản trở bổn phận hiện tại và phá hủy sự hữu ích trong tương lai. Nó không phái con người đi tìm mục đích sống trong nấm mồ của những hy vọng và thú vui đã chết.

Các môn đệ của nó không nên cố gắng sống trên di tích của những biến cố lớn lao, giữa những cây thánh giá và những ngôi mộ. Ở Sa mạc, trái tim phải hướng tới Đất Hứa, chứ không quay lại Ai Cập. Đức tin Kitô giáo là cho tương lai, bởi vì nó tin vào Thiên Chúa của tương lai. Thế giới không phải là một căn phòng chứa đầy những di vật và kỷ niệm để nghiền ngẫm.

Chúng ta được yêu cầu nhớ lại quá khứ tươi đẹp của chúng ta và cuộc sống tươi đẹp mà chúng ta đã đánh mất, bằng cách làm cho hiện tại đẹp đẽ như chính nó và cuộc sống của chúng ta cũng đẹp như cuộc sống của chúng.

Con người nghĩ rằng cuộc sống không có tương lai, nếu bây giờ nó dường như ” tối tăm với những đau buồn và nấm mồ. Thật là một cú sốc khi thấy rằng chúng ta phải chôn vùi nỗi buồn và tiếp xúc với thế giới khắc nghiệt một lần nữa, và sống cuộc sống bình thường của chúng ta một lần nữa.

Người Kitô hữu học cách làm điều đó không phải vì trí nhớ ngắn ngủi mà vì họ có đức tin lâu dài. Tiếng nói của nguồn cảm hứng được nghe thấy thường xuyên qua thực tế cuộc sống hơn là qua những tiếc nuối vô ích và những giấc mơ ẩn dật.

Đời sống Cơ-đốc ở mức độ nào đó phải giống cuộc đời của Thầy, sáng ngời với niềm hy vọng của Ngài, và được bao quanh bởi một bầu không khí phấn chấn nâng đỡ tất cả những ai chạm đến phần rìa bên ngoài của nó.

Tuy nhiên, sự thật vĩ đại của cuộc sống là cái chết, và nó phải có mục đích để phục vụ và một bài học để truyền dạy.

Nó dường như mất đi chút gì đó ấn tượng vì nó mang tính phổ quát. Chính sự tất yếu của nó dường như giết chết tư tưởng hơn là kích thích nó. Chỉ đến khi một cú đánh giáng trúng người, chúng ta mới đứng dậy và buộc phải đối mặt với sự thật.

Về mặt lý thuyết, có sự nhất trí tuyệt vời giữa con người với nhau về sự ngắn ngủi của cuộc sống và sự không chắc chắn trong mọi mối quan hệ của con người.

Lời cuối cùng của người khôn ngoan về cuộc sống luôn là sự phù du của nó, những thay đổi kinh khủng, những điều bất ngờ không lường trước được của nó, điều chắc chắn duy nhất của cuộc sống là sự không chắc chắn của nó – sự tồn tại không ổn định của nó, cái kết không thể tránh khỏi của nó.

Nhưng trên thực tế, chúng ta tiếp tục như thể chúng ta có thể đặt ra các kế hoạch và thế chấp thời gian của mình mà không nghi ngờ hay nguy hiểm; cho đến khi đôi chân của chúng ta bị đánh bật bởi một cú sốc bất ngờ nào đó, và chúng ta nhận ra sự cân bằng của cuộc sống thực sự không ổn định đến mức nào.

Bài học của sự sống là cái chết. Trải nghiệm đó sẽ không phổ biến đến mức bi thảm nếu nó không có ý nghĩa tốt đẹp và cần thiết.

Trước hết, nó sẽ giúp chúng ta tỉnh táo và làm cho cuộc sống của chúng ta có mục đích nghiêm túc, trang trọng. Nó sẽ dạy chúng ta biết đếm các ngày của mình để có thể áp dụng tấm lòng của mình vào sự khôn ngoan.

Người không có chỗ cho cái chết trong triết lý của mình là người chưa học cách sống. Bài học của cái chết là sự sống.

 Tuy nhiên, nhìn chung, trách nhiệm của chúng ta đối với cái chết không phải là điều áp bức chúng ta. Nỗi sợ hãi đó đối với một người dũng cảm, chưa nói đến một người có đức tin, có thể vượt qua được.

Đó là nỗi sợ hãi của nó đối với những người mà chúng ta yêu thương, đó là vết thương của nó. Và không ai trong chúng ta có thể sống lâu mà không biết trải nghiệm của chính trái tim mình về thực tế cũng như nỗi kinh hoàng của cái chết.

Điều này cũng có ý nghĩa đối với chúng ta, đó là nhìn cuộc sống một cách dịu dàng hơn và chạm vào nó một cách nhẹ nhàng hơn. Những nỗi đau của cuộc đời chỉ là một tình cảm gượng ép đối với chúng ta nếu chúng ta chưa cảm nhận được sự tủi nhục của cuộc đời.

Đối với một tâm hồn nhạy cảm, đau đớn vì sự mất mát của chính mình, thế giới đôi khi dường như đầy những nấm mồ, và ít nhất trong một thời gian cũng khiến anh ta bước đi nhẹ nhàng giữa loài người.

Đây là một lý do tại sao việc kết bạn mới ở tuổi trẻ lại dễ dàng hơn nhiều so với khi chúng ta gìà đi. Tình bạn đến với tuổi trẻ dường như không có điều kiện, không có nỗi sợ hãi nào. Không có quá khứ nào để nhìn lại, với nhiều nuối tiếc hay  chút đau buồn. Chúng ta không bao giờ nhìn lại phía sau, chúng ta bỏ lỡ điều gì đó.

Tuổi trẻ hài lòng với niềm vui sở hữu hiện tại. Đối với người trẻ, tình bạn đến như vẻ đẹp rực rỡ của mùa xuân, một vẻ đẹp kỳ diệu, một bí ẩn của sự ra đời; đối với người già, nó có nụ hoa của mùa thu, vẫn đẹp đẽ nhưng có vẻ đẹp của sự suy tàn.

Đối với người trẻ, đó chủ yếu là hy vọng, đối với người già, đó chủ yếu là ký ức.

Mùa hạ yêu thương

(Truyện ngắn)

By Rose & Cactus

6.

Tôi không biết trời trăng mây gió gì nữa nếu như không giật mình nghe tiếng gọi của mẹ tôi. Tôi phải định thần một lúc mới nhớ lại được đây mới là chiều tối chứ không phải ban đêm vì nhìn ra ngoài cửa sổ trời đen như mực.

Mấy giờ rồi nhỉ? Tôi nhìn đồng hồ. 6h30’. Ôi vậy là tôi mệt quá đã thiếp đi được hai tiếng. Đạp xe xa lại phải leo dốc nhiều trong chiều đông lạnh khiến khi về đến nhà cả người tôi mỏi rã rời, đặt lưng xuống giường là ngủ như chết.

Không biết thằng em tôi nó lại chạy đi chơi đâu rồi. Tôi lao xuống nhà. Mẹ vừa thay xong quần áo nhưng gương mặt lộ vẻ mỏi mệt. Tôi biết dịp cuối năm thế này công việc của mẹ ở cơ quan rất nhiều nên mẹ thường về muộn. Mẹ tôi làm kế toán cho một phân xưởng ở một công ty lớn.

Ở cái thị xã con con này, gần như gia đình nhà ai cũng có người làm cho cái công ty ấy. Công ty làm nên thành phố và cư dân thành phố sống dựa vào công ty. Thành thử hỏi ra thì ai cũng biết nhau hết cả.

Tôi không được đẹp như mẹ tôi, không giống mẹ nhiều có lẽ vì tôi giống bố tôi nhiều hơn. Vốn là đứa không mấy khi để tâm đến nhan sắc lắm nên tôi cũng chẳng mấy khi suy nghĩ về điều này. Tuy vậy, có lần tôi xem phim Hàn Quốc thấy các cô diễn viên mặc váy công sở đẹp quá tự nhiên tôi lại ước có đôi chân thon dài và thẳng tắp như của mẹ.

– Mẹ đổi chân cho con đi, mẹ già rồi đâu còn cần mặc váy ngắn! Tôi trêu mẹ

Mẹ tôi cười:

– Nếu có thể đổi được gì cho con mẹ sẵn sàng không tiếc. Nhưng tốt hơn chúng ta hãy cứ yêu những gì thuộc về cơ thể đã được trời ban cho mình con ạ

Thế nhưng tôi lại thừa hưởng cái gen yêu văn chương của mẹ,  và cái sở thích thích thơ thẩn như ông ngoại tôi. Ông tôi tuy học hành không cao nhưng viết chữ rất đẹp và có khả năng làm thơ. Mẹ tôi thì học giỏi Văn từ bé và viết văn rất hay. Tuy vậy khi thì Sư phạm Văn thì mẹ lại thiếu một ít điểm nữa để đỗ. Ông ngoại tôi nói mẹ tôi đi học Trung cấp kế toán, sau này xin vào nhà máy ông làm cho gần nhà.

Mẹ tôi nghe ông và từ đó đến nay cũng được gần hai mươi năm rồi. Và mẹ vẫn luôn thích việc đọc. Thời xưa nghèo khó vậy mà mẹ vẫn luôn cố gắng đặt cho tôi một tờ báo, đó là tờ Thiếu niên tiền phong. Ở cơ quan có mấy loại báo mọi người đọc xong mẹ cũng mang về cho tôi đọc hết.

Trong nhóm, tôi, Azalea, Dahlia và Rose trong đội Toán nên lâu lâu hay học nhóm môn Toán. Violet lại xác định theo đuổi ngành Ngôn ngữ nên nó đầu tư nhiều thời gian hơn cho các môn khoa học xã hội.

Khi lên lớp 8, tôi bắt đầu tập tành viết truyện. Những cuốn sổ được bạn bè tặng trong dịp sinh nhật dần dần được thả đầy những dòng chữ về những câu chuyện linh tinh mà tôi tưởng tượng ra, toàn thứ trên trời dưới bể.

Violet phát hiện ra ngay sở thích mới của tôi. Thế là nó rủ tôi đi học cùng nó ở lớp tiếng Anh Streamline trình độ A. Tôi vốn đang thích khám phá lĩnh vực khác liền gật đầu liền.

Ở lớp Streamline cũng có chuyện cười ra nước mắt mà không thể không kể.

Đó là trong một tiết học nói, Violet và một thằng con trai ngồi cạnh nó phải đứng lên diễn lại cái đoạn hội thoại của hai nhân vật trong một bài học của giáo trình. Trong cuộc hội thoại đó có một câu người con trai nói với người con gái thế này:

– I want you, I miss you, I kiss you

Chẳng biết thằng bạn cùng bàn nhập vai quá hay sao tự nhiên bỗng cầm bàn tay của con Violet lên. Tôi thì nghĩ nó chỉ làm đến thế là cũng chứ chả nhẽ lại “kiss”. Việc của Violet là chỉ cần thu tay lại thôi.

Ôi, nhưng thực tế thì choáng luôn. Violet vung tay và “Bốp”, một phát tát…vào bàn tay của cậu bạn. Cả lớp trố mắt, vừa buồn cười, vừa kinh ngạc.

Thằng con trai hét lên:

– Tôi có làm gì đâu mà bà tát tôi, bị điên à?

Violet lúc đó biết là mình đã hơi lố. Nó chẳng nói gì vác hết tập vở chuyển sang chỗ tôi ngồi. Sau đó nó có nói lại với tôi là không hiểu sao lúc đó nó chỉ sợ thằng nhỏ “kiss” thật thì chết nên phải ngăn chặn trước cho chắc. Ôi các con này, chỉ được cái tưởng bở là giỏi….

Cô giáo cười lớn và trọc chúng nó:

– Không sao, không sao, hai đứa. Đôi khi một cái “slap” cũng có thể dẫn đến cái “kiss” sau này. Lúc đó thì hãy nhớ đến buổi học này nhé các bạn!

Violet nhỏ người, mái tóc đen như mun hay được thắt bím hai bên. Nó có nụ cười  rạng rỡ với hàm răng trắng bóng, đều tăm tắp. Ở trong nhóm nó là người chơi rộng nhất, bạn bè ở đâu nó cũng biết, đặc biệt con trai quý Violet vì nó nói chuyện rất duyên.

Có lẽ nó chơi nhiều với con trai nên tính cách vô cùng thẳng thắn, cương trực và sòng phẳng. Thế nhưng ẩn bên trong lại là một tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn và mộng mơ.

Violet sớm có tố chất lãnh đạo, lúc nhu lúc cương, vừa kỷ luật lại vừa linh hoạt,  vừa là người lắng nghe tốt vừa lại biết cho lời khuyên hay. Sau này nó có thành công về công danh sự nghiệp cũng chẳng mấy ai ngạc nhiên!

Thế mà, có lần nó nói với tôi: “Có khi nhạt nhoà (ý nói sắc đẹp) như tao với mày lại hay ấy Daisy, chẳng ai để ý nên làm cái gì cũng dễ chứ cứ như con Dahlia lại khổ. Cứ chơi thân với thằng nào là thằng đó đổ cái rầm. Khó xử lắm!

Tôi thì lại chẳng tin Violet nhạt nhoà!

Ngay từ khi tôi biết Vioelt là đã thấy nó thích học tiếng Anh rồi. Nó ngưỡng mộ cô giáo tiếng Anh ở chỗ tôi và nó học thêm lắm. Nhìn cô đẹp, trẻ trung và phong cách rất hiện đại.

Lại được nghe chị gái của Rose là sinh viên học ở Hà Nội về nói:

– Bạn bè chị á, cái bọn học bên trường ngoại ngữ là giàu nhất vì chúng nó có nhiều lớp dạy thêm, lại còn được đi làm hướng dẫn viên cho các tour du lịch cho mấy người nước ngoài nữa. Nhìn oách ghê, biết thế ngày xưa mình đi học Ngoại ngữ”

Thế là nó càng có quyết tâm thi vào trường Ngoại ngữ.

Mà kể ra học Tiếng Anh cũng đang là mốt thật. Đến cái thị xã nhỏ bé của tôi cũng có phong trào người người học tiếng Anh, nhà nhà học tiếng Anh. Ngay cả cơ quan của mẹ tôi cũng tổ chức cho nhân viên học. Từ người trẻ tuổi đến các bác sắp về hưu đều phải đi học hết.

Có hôm đi học về mẹ tôi cũng kể chuyện vui ở lớp học khiến tôi phải cười nghiêng ngả.

Số là có bác trai làm ở phòng Kỹ thuật đã gần 60 rồi, tuổi đó học Ngoại ngữ khó vào lắm. Thế nên, trong giờ kiểm tra từ vựng là bác rất sợ phải đứng lên đọc, nhưng thoát sao được. Một hôm cô giáo viết lên bẳng mấy từ nhưng bác không nhớ được từ nào ngoại trừ “Toilet” vì nhìn quen quen. Chắc là đi “Toa lét” trong tiếng Việt rồi. Thế là bác đỡ bối rối hẳn, đánh vần rất tự tin “Tờ oa toa nét”, “toa nét”

Cả lớp cười rần, đến cô giáo cũng không nhịn được cười.

Sau buổi đó, mặc kệ cơ quan yêu cầu thế nào bác cũng quyết nghỉ, không có tiếng Anh tiếng Em gì nữa.

Sáng sớm bố Dahlia đã qua nhà tôi đưa giấy phép xin nghỉ học cho nó. Do hôm qua đi lạnh nên về nó bị ốm. Dahlia sức khoẻ cũng không được tốt. Nó có làn da trắng xanh và hay ốm vặt. Đi đâu nó cũng phải cầm một cái khăn mùi xoa vì bàn tay nó thường xuyên bị đổ mồ hôi, ướt sũng.

Thấy tôi bước vào lớp có một mình, Tuấn hỏi ngay:

-Dahlia hôm nay nghỉ học à Daisy?

– Ừ, nó bị ốm

Dạo này Dahlia hay vẻ trầm tư . Tính nó bọn tôi còn lạ gì, những chuyện thuộc về cá nhân ít khi nào nó chịu chia sẻ với ai, thường nó có thói quen gặm nhấm nỗi buồn một mình

– Điều này không tốt cho sức khoẻ đâu nhé Dahlia, mẹ em nói thế, có gì buồn bực thì chị phải nên xả ra, ít nhất là với những người thân thiết với chị

Violet có lần nói với Dahlia như vậy.

Buổi tối, Iris qua tôi để sang nhà Hùng, trước đó chúng tôi đã rẽ qua nhà Dahlia để xem nó ốm đau thế nào. Nhà Hùng vẫn ở trong khu tập thể gần nhà cũ của tôi ngày xưa. Cả khu tập thể đó gồm mấy chục dãy nhà, nằm trên những quả đồi thấp. Nó được xây ngay sau ngày giải phóng miền Nam, để dành cho cán bộ công nhân viên của công ty nơi bố mẹ chúng tôi làm việc.

Mỗi dãy nhà gồm mười hai căn. Mỗi căn có diện tích bao nhiêu tôi không nhớ được chính xác, chỉ biết là rất nhỏ. Gần như khi con cái lớn lên, ai cũng cố gắng mua một mảnh đất ở chỗ khác để xây nhà rộng hơn. Năm tôi lên lớp 7 nhà tôi cũng chuyển nhà. Cái dãy tập thể cũ nơi tôi từng sống cũng chỉ còn hai nhà là ở lại.

Chúng tôi đến nhà Hùng, từ ngoài cổng nhìn vào chỉ thấy mẹ nó đang lúi húi ngoài sân. Tôi nhìn kỹ hoá ra bác đang đóng gạch. Mẹ Hùng lớn tuổi hơn bố mẹ chúng tôi. Bác làm công nhân trực tiếp sản xuất, công việc vất vả nặng nhọc. Mái tóc bạc gần hết cùng làn da xạm đen khiến nhìn bác già đi nhiều so với tuổi.

Nghe chúng tôi gọi Hùng, bác dừng tay tất tả ra mở cổng

– Cháu chào bác, bác ơi Hùng có nhà không ạ?

– Các cháu là bạn Hùng à? Các cháu vào nhà chơi đã. Một chút nữa Hùng nó về

Tôi và Iris nhìn nhau

– Dạ vâng ạ.

Chúng tôi dắt xe vào sân. Mẹ Hùng rót nước mời chúng tôi. Tôi để ý nhà Hùng vẫn như vậy. Vẫn là chiếc tủ bích phê cùng bộ bàn ghế gỗ đã cũ kỹ lắm rồi. Ngoài ra không có cái gì giá trị. Trên bốn bức tường đã ngả màu ố vàng, treo đầy bằng khen của hai chị em nó.

– Chị Phương có hay về không bác?

Tôi hỏi.

Phương là chị gái của Hùng. Chị đang học Đại học Bách Khoa Hà Nội, từ thời là học sinh chị đã nổi tiếng học giỏi. Cả hai chị em Hùng đều rất giỏi

– Chị cũng thi thoảng thôi các cháu

Tự nhiên tôi thấy giọng mẹ Hùng trầm hẳn xuống, nghe có vẻ rất buồn. Mẹ Hùng vất vả. Bao gánh nặng gia đình đều đổ lên đầu bác. Bác trai sức khoẻ yếu, làm việc gì cũng phải có người hỗ trợ.

– Hùng đi học hay đi đâu mà giờ này chưa về hả bác?

Iris hỏi

– Nhà bác có cái xe nước mía cho bác trai làm kiếm thêm thu nhập. Nó đi phụ bố nó, hai cháu à. Chị Phương học dưới Hà Nội tốn kém quá, mình bác không gánh nổi.

Hùng đi bán nước mía ư? Từ lúc nào mà chúng tôi không biết nhỉ? Chắc là mới đây thôi. Chúng tôi ngồi nói chuyện với mẹ Hùng cũng lâu mãi mà chưa thấy bạn tôi về. Cuối cùng, Iris nháy tôi đứng lên chào bác để về vì cũng đã muộn.

Ra cổng tôi chia tay Iris luôn, nó đi hướng khác gần nhà nó hơn; Nhưng vừa đạp được mấy vòng, nghĩ thế nào tôi quay ngược trở lại.

Hướng ra khu bán hàng nước uống buổi tối.

Tôi đoán được chỗ Hùng bán nước mía ở đâu. Nó có lẽ nằm ở Hồ Tròn, trung tâm văn hoá, thương mại của cả khu vực. Nơi đây có rạp chiếu bóng ngoài trời một thời chen chân giẫm đạp lên nhau để được vào xem thì giờ bỏ hoang, cỏ dại mọc lút đầu, chỉ còn là nơi lý tưởng cho….bò.

Cái thư viện mà tôi toàn bắt nạt thằng em phải chạy đi mượn sách ở đó cho tôi nếu muốn tôi chỉ bài, nằm ngay bên cạnh. Thư viện sách thì nghèo nàn nhưng không gian xung quanh lại giàu có, thành thử đôi khi tôi nghĩ người ta vào đây không phải để đọc mà để ngắm cảnh.

Nó nhìn ra một hồ nước rộng lớn mát mắt, hai bên có hai hàng dừa soi bóng. Hồ này trước đây chỉ có dịch vụ thuyền thiên nga đạp nước, gần đây còn có thêm các nhà hàng phục vụ ăn uống, tiệc cưới, sinh nhật.

Ngồi đạp vịt trên thuyền dưới hồ nhìn lên vẫn có thể thấy được cái tượng đài phun nước ngay giữa quảng trường. Từ đây chia ra làm bốn nhánh đường chính toả đi bốn hướng. Con đường đẹp nhất lại không phải là đại lộ chính mà lại là nhánh đường nằm áp vào ngọn đồi thông.

Con đường này rợp bóng hai hàng cây xà cừ cổ thụ, mà theo như ông ngoại tôi nói nó có tuổi đời chắc cả trăm năm rồi. Nhờ những cái cây khổng lồ mà gốc của nó phải hai, ba người ôm mới xuể mà con đường lúc nào cũng râm mát, ngay cả ở những ngày nắng nóng như đổ lửa của mùa hè.

Một bên đường phía bên đồi thông, người ta biến thành những quán cắt tóc di động. Gọi là quán cho sang chứ thực ra mỗi quán chỉ gồm có một cái gương được treo ngay ngắn lên hàng rào ngăn cách vỉa hè với đồi thông và một cái ghế đẩu cao giành cho khách cùng vài cái dụng cụ của người thợ. Ấy thế mà những quán cắt tóc này còn đông đúc hơn cả những quán sang trong nhà vì rẻ và không gian thoáng mát

Bên phía kia đường là cái nhà khách năm tầng, thứ khiến cho cái thị xã này nhìn có chút hiện đại. Phía ngoài khu nhà khách này có vỉa hè rất rộng nên chiều tối nó biến thành nơi bán hàng ăn uống: Bia hơi, nước mía, trà đá….

Hùng chắc chắn là đứng bán ở chỗ này rồi.

Từ nhà Hùng ra đến đó cũng gần thôi chỉ khoảng 1km. Nhưng phải đi qua cái sân vận động lớn. Sân vận động gì chẳng mấy khi mở cửa hay là nơi để thi đấu thể thao, mà chỉ để cho học sinh tập quân sự. Bên ngoài sân vận động là một bãi đất trống lớn. Người ta cứ thấy chỗ nào trống là lại muốn biến chỗ đó thành bãi rác.

Chẳng bao lâu bãi đất trống là một bãi rác khổng lồ. Cắm biển “Cấm đổ rác” chán mà tình hình không cải thiện thế là cuối cùng phường cho rào lại để trồng cây. Mảnh đất biến thành rừng cây nhỏ. Nhưng khổ nỗi khi cây lớn rậm rạp tăm tối thì nó lại là nơi lý tưởng của đạo chích. Những con nghiện thường tụ tập vào đây để hút chích, kim tiêm, ống tiêm vứt vương vãi từ trong ra tận ven đường.

Tôi từng có trải nghiệm kinh hoàng chứng kiến một người nghiện sốc thuốc mà chết ở chính đoạn đường này.

Số là hè năm ngoái, Iris nó rủ tôi buổi sang đi chạy bộ cùng nó. Bà chị cả tôi lúc nào cũng bị ám ảnh cân nặng. Iris có chiều cao trung bình và chỉ hơi tròn tròn thôi nhưng cứ nghĩ mình quá khổ lắm. Trong nhóm chỉ có tôi là cũng hơi tròn tròn như nó nên nó mới đặt hết niềm hy vọng vào tôi, năn nỉ tôi đủ đường để sáng dậy sớm đi chạy cũng nó chứ không mong gì năm đứa em gái rặt một lũ cậy mình mình hạc xương mai nên lười thể dục.

Cuối cùng tôi cũng phải mủi lòng mà đồng ý khi nghe nó tỉ tê mãi, rằng thì là mà mày cứ chịu khó đi biết đâu nhờ tập thể dục buổi sáng mà mày sẽ có phom người chuẩn như… Củng Lợi. Ôi giời, đừng có mỉa nhau thế chứ, tôi mà đẹp được như thần tượng điện ảnh của tôi thì đã không có thời gian ngồi đây viết truyện cho nó đọc.

Sáng sớm hôm đó nó xuống nhà tôi sớm lắm, khoảng 4h45’. Trời mùa hè tháng 6 mới mở mắt ra mà đã thấy oi bức rồi. Chúng tôi dự định sẽ chạy một vòng (nói chạy cho oai chứ đi bộ là chủ yếu) từ nhà tôi qua con đường ở sân vận động đến đài phun nước, ngược lên đường chính, qua chợ đến khu vực nhà Iris rồi lại xuống nhà tôi.

Trên đường cũng lác đác người đi tập thể dục buổi sáng. Mọi chuyện không có gì để nói cho đến khi qua đoạn đường có rừng cây. Đang đi nhanh bỗng nhiên Iris phát hiện ra điều gì đó rồi cầm tay chỉ cho tôi. Tôi nhìn theo: Chỉ cách chỗ chúng tôi đứng khoảng 6m một người đang làm vật ra bãi cỏ.

Chúng tôi tiến lại mấy bước để nhìn kỹ hơn: Là nam, gày như chỉ còn da bọc xương, tóc tai, râu ria dài bờm xờm trùm lên cả khuôn mặt tái xanh. Miệng sùi ra những bọt gì trăng trắng. Trên cánh tay để hở chằng chịt các vết kim tiêm, có chỗ sẹo lồi lõm. Gã thanh niên nằm xoài trong trạng thái co quắp, ngay khoảng hỡ chỗ cánh tay vung vãi những túi nilong nhỏ xíu, bên trong vẫn còn chất bột trắng.

– Tránh ra, nhìn cái gì. Chết vì sốc ma tuý đấy! Lũ trẻ bây giờ điên hết cả rồi!

Tôi và Iris giật mình quay lại khi nghe tiếng của một bác trung niên đạp xe buổi sáng. Người thanh niên đã chết rồi ư, trời ơi sợ quá. Tôi và Iris khiếp đảm, ba chân bốn cẳng bỏ chạy.

Cơn lốc ma tuý đang càn quét vùng quê yên bình của tôi. Nó thật thảm khốc, hơn bất kỳ đại dịch nào!

Giờ đây khi chuẩn bị vượt qua đoạn đường tăm tối này tự nhiên trong tôi lại hiện ra hình ảnh gã thanh niên nghiện ngập chết rũ ven đường. Nó làm tôi sởn gai ốc. May thay lúc đó có tiếng của mấy bác công nhân lớn tuổi chắc đi làm về nên tôi bám theo ngay để đi cùng. Khi nhìn thấy cái đài phun nước thấp thoáng trước mặt tôi mới thở phào.

Tôi không khó để nhận ra ngay bóng dáng của Hùng ở khu vực bán hàng nước ngay trước cửa nhà khách năm tầng. Nó cao, gầy đang đứng quạt mấy bắp ngô. Bên cạnh xe nước mía là nơi để để bắp, khoai. Chắc trời lạnh nên Hùng không bán nước mía mà bán ngô nướng và trà nóng.

Hùng có vầng trán cùng đôi mắt rất thông minh. Nó có nụ cười vừa đẹp vừa ấm áp, một phần cũng nhờ chiếc răng khểnh. Có lẽ hoàn cảnh gia đình của Hùng khó khăn nên đã tôi luyện cho nó ý chí và sự tự lập. Ngay từ khi còn rất nhỏ Hùng đã luôn là một người đàn ông trụ cột của gia đình vì bố nó thường xuyên ốm đau xem như đã mất sức lao động.

Không việc gì mà nó không biết làm, từ đi chợ, nấu nướng, sửa chữa đồ dùng trong gia đình đến những việc nặng nhọc hơn như đóng gạch, chở than tổ ong đi bán. Ngoài giờ học ra về nhà là nó luôn chân luôn tay giúp mẹ nó kiếm thêm tiền.

Nó mang vẻ ngoài hơi lạnh, cứng cỏi, giàu lòng tự trọng nhưng thẳm sâu bên trong lại là con người vô cùng sâu sắc. Hùng đặc biệt thương mẹ.

Tôi không biết nó lấy đâu thời gian để học. Giờ đây nó lại học ở trường chuyên xa nhà, đi đi về về trong ngày đã mất bao nhiêu thời gian rồi mà buổi tối lại phải bán hàng thế này thì mấy giờ nó mới ngồi vào bàn học được đây?

Tôi gạt chân chống, dựng xe đang định tiến về chỗ Hùng thì bỗng thấy Iris từ hướng trên lao xuống:

– Ơ Daisy mày cũng ra đây à?

– Ơ chị cũng không về ngay à?

Chúng tôi cười phá lên. Đúng là tư tưởng lớn gặp nhau.

– Hùng ơi, mày thấy chúng tao yêu quý mày thế nào chưa?

Iris nói to lên.

Hùng giờ mới để ý đến hai cô bạn vì nó bận lúi húi nướng ngô:

– Ơ, Iris,  Daisy đi đâu giờ này lại qua đây vậy?

– Đi thăm ông bạn lâu ngày quá rồi. Ông bây giờ học ở nơi sang trọng lên quên hết chúng tôi rồi

– Quý hoá ghê cơ, hai cậu ngồi xuống đây. Đợi tớ chút.

Nó nói rồi đẩy hai cái ghế con con đặt cạnh một cái bàn nhựa nhỏ cho chúng tôi ngồi

Tôi và Iris ngồi xuống nói chuyện trong lúc đợi Hùng. Nó nướng xong một vài bắp ngô giao khách xong nhanh chóng kéo ghế ra chỗ chúng tôi

– Bọn tớ mới qua nhà cậu Hùng ạ. Mà chỉ có mẹ cậu ở nhà. Bác nói cậu với bố ở ngoài này….

– Ừ, tớ cũng mới giúp bố mới mấy tháng gần đây thôi. Bố tớ cũng mới từ đây về. Tớ làm muộn hơn chút, tí về sau

Hùng cười nhẹ, nó rót hai cốc nước trà nóng và để mấy cái bắp mới nướng còn thơm phức lên bàn

– Các cậu ăn đi cho nóng

Hùng lúc nào cũng thế ở nó luôn có một cái gì đó rât trưởng thành, chững chạc

– Hùng học trên đó thế nào? Học chuyên có vất vả lắm không?

Iris hỏi, cũng đã hơn hai tháng chúng tôi mới gặp lại Hùng

– Cũng không có vấn đề gì lắm đâu Iris. Học với toàn người giỏi thì mình cũng khắc phải cố gắng thôi. Các cậu thì sao?

– Bọn tớ vẫn ổn thôi. À, Hùng ơi bọn tớ báo cậu nhá. Hơi buồn đấy, tháng sau Azalea chuyển về Hà Nội rồi

– Vậy sao Iris? Hùng mở to mắt. Tớ bất ngờ qúa.

– Bọn tớ cũng mới biết hôm qua thôi nên hôm nay tính báo cho các cậu

– Ừ thế thì phải tổ chức một buổi chia tay chứ nhỉ.

– Đúng vậy để bọn tớ lên chương trình rồi cho các cậu biết sau nhé!

Chúng tôi ngồi chuyện trò rôm rả hồi lâu rồi tạm biệt Hùng. Khi tôi và Iris đứng lên thì bỗng loá mắt vì ánh đèn pha xe máy rọi vào. Cùng với đó là tiếng xe phanh két.

Thằng Kha, học cùng lớp với Iris, nhà nó ở gần nhà tôi, đang tiến đến cùng mấy thằng bạn. Kha nổi tiếng nghich ngợm, bố nó khổ sở đến bất lực vì sở thích đua xe của nó 

Kha ngồi xuống bàn kêu Hùng phục vụ trà nóng và ngô nướng. Nó nhận ra tôi và Iris thì mỉm cười và nói lời chào.

Tôi không ngờ đó cũng là lần cuối cùng chúng tôi còn nhìn thấy nó.

Nhật thực của tình bạn

By Hugh Black

11.

Người ý thức được rằng mình đã đánh mất những ngày tươi đẹp nhất, những năng lực tốt nhất, những người bạn tốt nhất của mình, tất nhiên là sống rất nhiều trong quá khứ.

Một người như vậy đã chuẩn bị sẵn sàng cho những mất mát sâu sắc hơn; anh ta đã tự điều chỉnh mình theo thực tế của cái chết. Lúc đầu, chúng ta không thể tin rằng điều đó có thể xảy ra với chúng ta và với tình yêu thuơng của chúng ta;

hoặc, nếu ý nghĩ đó đến với chúng ta, thì đó là một sự kiện quá xa trong tương lai để có thể làm xáo trộn bề mặt tĩnh lặng trong trái tim chúng ta. Tuy nhiên, nó phải đến; không ai có thể thoát khỏi nó.

Hầu hết đều có thể nhớ lại một đêm chờ đợi, quá mệt mỏi để cầu nguyện, quá tê cứng đến mức không thể cảm nhận được, mơ hồ mong đợi một cú đánh sẽ giáng xuống chúng ta từ bóng tối. Một cảm giác kỳ lạ về sự không thực của mọi thứ ập đến với chúng ta khi làn sóng tối tăm nhấn chìm chúng ta và trôi đi.

Chúng ta đi ra ngoài nắng, và nó dường như đang chế nhạo chúng ta. Chúng ta lại bước vào giữa những con đường bận rộn của con người, và tiếng gầm rú của cuộc sống đập vào não và trái tim chúng ta.

Có đáng để chúng ta liên kết cuộc sống của chúng ta với những cuộc sống khác và sẵn sàng đón nhận sự buồn phiền như vậy không? Sẽ tốt hơn nếu đi khắp thế giới mà không gắn kết bản thân quá chặt chẽ với những mối ràng buộc phù du của những tình yêu thương khác?

Tại sao lại cố tình làm tăng thêm khuyết tật của chúng ta? Nhưng đó không phải là khuyết tật; đúng hơn, mục đích lớn lao của cuộc đời chúng ta là học cách yêu thương, mặc dù chúng ta phải trải qua những nỗi đau cũng như những niềm vui trong tình yêu thương.

Cắt đứt bản thân khỏi phần lớn con người này sẽ là làm nghèo nàn cuộc sống của chúng ta và tước đi nền văn hóa của trái tim, mà nếu một người không học, anh ta sẽ không học được gì. Bất kể rủi ro đối với hạnh phúc của chúng ta là gì, chúng ta không thể đứng lên từ số đông con người nếu không còn là con người theo đúng nghĩa.

Không dễ để giải quyết vấn đề đau buồn. Quả thực không có giải pháp nào cho nó trừ khi linh hồn cá nhân tự tìm ra giải pháp cho riêng mình. Hầu hết những nỗ lực nhằm đạt tới một triết lý về nỗi buồn đều chỉ kết thúc bằng những lời lẽ khoa trương.

Những lời giải thích, tự cho là bao trùm mọi mặt, cũng vô ích như những nỗ lực an ủi sai lầm thông thường, chỉ xoa dịu nỗi đau bằng âm thanh và vá víu nỗi đau bằng những câu tục ngữ. Nỗi buồn trong lòng chúng ta không thể giảm đi đáng kể nhờ tranh luận. Bất kỳ loại triết lý nào – bất kỳ lời giải thích dài dòng nào về vấn đề – đều không mang lại sự thoải mái nhất.

Vấn đề không phải là nguyên nhân gây đau đớn ngay từ đầu: chính nỗi đau mới là vấn đề. Sự cay đắng của trái tim không được xoa dịu bằng cách trình bày học thuyết về ý trời. Rachel, người đang khóc thương các con mình, người cha có đứa con gái nhỏ nằm chết ở nhà, sẽ không thể xoa dịu nỗi thống khổ của họ bằng một hệ thống tư duy cân bằng độc đáo.

Do đó, sự nguôi ngoai nỗi buồn cũng không phải là một sự mất mát hay một chuỗi mất mát nối tiếp nhau đối với người mà khiến anh ta cảm thấy rằng tất cả vinh quang và niềm vui của cuộc sống, tình bạn, tình yêu và hy vọng của nó, đã đi xuống nấm mồ, để anh ta có thể nói, “Tôi đã yêu ba người đàn ông đã chết. Và anh là người cuối cùng trong ba người đó.

Đồng thời, nếu đúng là tình bạn có ý nghĩa, là kỷ luật tinh thần để giáo dục tâm hồn và rèn luyện cuộc sống thì cũng phải có ý nghĩa không kém trong sự lu mờ tạm thời của tình bạn.

Nếu chúng ta có đủ niềm tin để thấy cái chết là tốt, chúng ta sẽ tự mình tìm ra tại sao nó lại tốt. Nó có thể dạy cho chúng ta biết chúng ta đang có nguy cơ quên đi điều gì, một thiếu sót nào đó trong cuộc sống khiến chúng ta trở nên nông cạn và nghèo nàn.

Đối với người này đó có thể là một cái nhìn sâu sắc về bí ẩn của tội lỗi; đối với người khác đó là một cái nhìn vào bí ẩn của tình yêu thương.

Đối với người này, nó đi kèm với bài học về sự kiên nhẫn, vốn chỉ là một mặt của bài học về đức tin; đối với người khác nó mang thông điệp của sự đồng cảm. Khi chúng ta hướng đối tượng về phía ánh sáng, sẽ có những tia màu sắc phát ra từ các vùng ánh sáng khác nhau.

Tất cả cuộc sống là một lý lẽ cho cái chết. Chúng ta không thể kiên trì lâu dài trong nỗ lực sống đời sống Kitô hữu mà không cảm thấy cần phải chết. Mục tiêu càng cao và khát vọng càng chân thực thì gánh nặng cuộc sống càng lớn, cho đến khi nó trở nên không thể chịu đựng được.

Sớm hay muộn chúng ta buộc phải thú nhận với Job, ‘* Tôi sẽ không sống mãi.” Sống mãi trong sự bẩn thỉu này, không được thoát khỏi sự diệt vong của tội lỗi, không ngừng đấu tranh với tội lỗi, sẽ là một số phận đáng sợ.

Vì vậy, đối với người theo đạo Cơ đốc, cái chết không thể bị coi là xấu xa; trước hết, bởi vì nó có tính phổ quát, và nó có tính phổ quát vì nó được Chúa quy định. Tại St. Peter’s, ở Rome, có rất nhiều ngôi mộ, trong đó cái chết được tượng trưng theo hình thức truyền thống là một bộ xương, với chiếc đồng hồ cát định mệnh và chiếc lưỡi hái đáng sợ.

Cái chết là tên thợ gặt thô lỗ, tàn nhẫn cắt đứt sự sống và mọi niềm vui của cuộc sống. Nhưng có một bộ phim trong đó cái chết được khắc họa như một người mẹ dịu dàng ngọt ngào, người đưa đứa con mệt mỏi của mình về nhà để được bảo vệ an toàn và chắc chắn hơn.

Đó là một suy nghĩ đúng đắn hơn những suy nghĩ khác. Cái chết là một thừa tác viên của Thiên Chúa, làm theo ý muốn của Ngài và làm điều tốt cho chúng ta.

Một lần nữa, nó không thể xấu xa vì nó có nghĩa là một cuộc sống trọn vẹn hơn, và do đó là một cơ hội để phục vụ trọn vẹn hơn và xa hơn. Niềm tin sẽ không để con người đạt đến cực đỉnh; vì nó nằm trong tay tình yêu thương, giống như chính anh ta vậy.

Nhưng cái chết là đỉnh cao của cuộc sống. Vì nếu tất cả sự sống đều là lý lẽ cho cái chết, thì tất cả cái chết cũng là lý lẽ cho sự sống.

Jowett nói, trong một trong những bức thư của mình, “Tôi không thể thông cảm với tất cả những lý do an ủi đôi khi được đưa ra trong những dịp u sầu này, nhưng có hai điều đối với tôi dường như luôn không thể thay đổi: thứ nhất, người chết đang ở trong tay của Chúa, Đấng có thể làm cho họ nhiều hơn những gì chúng ta có thể yêu cầu hoặc có được; và thứ hai, đối với bản thân chúng ta, những mất mát đó làm sâu sắc thêm quan điểm của chúng ta về cuộc sống và khiến chúng ta cảm thấy rằng chúng ta sẽ không luôn ở đây.” Đây là hai lý do an ủi cao quý, và như vậy là đủ.

Cái chết là lý lẽ lớn nhất cho sự bất tử. Chúng ta không thể tin rằng linh hồn sống động, yêu thương đã không còn tồn tại.

Chúng ta không thể tin rằng tất cả những kho báu của tâm trí bị lãng phí trong không khí trống rỗng. Chúng ta sẽ không tin điều đó.

Khi hiểu được ý nghĩa tâm linh, chúng ta thấy được sự chắc chắn tuyệt đối của cuộc sống vĩnh cửu; chúng ta không cần tranh luận về sự tồn tại dai dẳng.

Xuất hiện một lúc rồi biến mất, đó là tiểu sử bên ngoài của mọi người, một vòng khói tan, một bong bóng trên dòng nước vỡ ra, một tia lửa tắt bởi một hơi thở.

Nhưng còn có một tiểu sử khác, sâu sắc và lâu dài hơn, đó là tiểu sử của tâm hồn. Mọi thứ xuất hiện đều tan biến: đó là số phận của nó, số phận của những ngọn đồi vĩnh cửu cũng như của hơi nước xâm chiếm chúng.

Nhưng điều không xuất hiện, tâm linh và vô hình, mà đôi khi chúng ta điên cuồng nghi ngờ vì nó không xuất hiện, mới là thực tại duy nhất; nó là vĩnh cửu và không qua đi.

Vật chất trong tự nhiên chỉ là trang phục của tinh thần, cũng như lời nói là trang phục của suy nghĩ.

Với những tiêu chuẩn thô tục của mình, chúng ta thường cho rằng ý nghĩ là cái không có thực chất và mơ hồ, còn lời nói là cái có thật. Nhưng lời nói chết theo cơn gió thổi qua; chỉ còn lại ý nghĩ. Chúng ta coi âm thanh là âm nhạc, trong khi nó chỉ là sự biểu hiện của âm nhạc và biến mất.

Đằng sau thế giới vật chất, cũ kỹ như một chiếc áo, có một nguyên lý vĩnh cửu, tư tưởng của Chúa mà nó đại diện. Phía trên những âm thanh là thứ âm nhạc không bao giờ chết. Bên dưới cuộc sống của chúng ta, vốn đang tan biến, có một thứ quan trọng, đó là tinh thần. Chúng ta không thể xác định được nó và dò tìm nó; đó là lý do tại sao nó là vĩnh viễn.

Những thứ chúng ta có thể đặt tay lên là những thứ xuất hiện và do đó mờ nhạt và chết đi.

Vì vậy, cái chết đối với tâm trí tâm linh chỉ là nhật thực. Khi có nhật thực, điều đó không có nghĩa là mặt trời bị che khuất khỏi bầu trời: điều đó chỉ có nghĩa là có một vật cản tạm thời giữa nó và chúng ta. Nếu chúng ta chờ đợi một chút, nó sẽ trôi qua.

Tình yêu thương không thể chết. Hình dạng của nó có thể thay đổi, ngay cả đối tượng của nó, nhưng sự sống của nó là sự sống của vũ trụ. Đó không phải là cái chết mà là giấc ngủ: không phải mất mát mà chỉ là tạm thời khuất đi.

Tình yêu thương chỉ được biến đổi thành một thứ gì đó thanh tao và thiêng liêng hơn bao giờ hết. Hạnh phúc khi có bạn bè trên trái đất, nhưng hạnh phúc hơn khi có bạn bè trên thiên đường.

Và nó thậm chí không cần phải lu mờ, ngoại trừ hình thức bên ngoài. Hiệp thông với những điều vô hình có thể có nghĩa là sự tương ứng thực sự với tất cả những gì chúng ta đã yêu thương và đã mất, chỉ cần tâm hồn chúng ta đáp lại.

Tình yêu thương cao nhất không bị đói khát vì không có đối tượng; đúng hơn là nó trở nên dịu dàng và thiêng liêng hơn, chứa đựng nhiều lý tưởng hơn.

Tình cảm thông thường, ở một bình diện thấp hơn, phụ thuộc vào sự hấp dẫn thể xác, hoặc ở khía cạnh trần thế của cuộc sống, tự nhiên sẽ tan thành cát bụi khi nền tảng của nó bị mất đi. Nhưng tình yêu thương không phụ thuộc vào thời gian hay không gian, và thực tế là nó được thanh lọc và tăng cường bởi sự vắng mặt.

Sự chia ly của bạn bè không phải là một điều vật chất. Cuộc sống có thể bị chia cắt như thể bị chia cắt bởi khoảng cách vô tận, mặc dù về mặt vật chất họ ở gần nhau. Thảm kịch này thường xảy ra ở giữa chúng ta.

Các điều ngược lại cũng đúng ; để tình bạn không thực sự mất đi vì cái chết: nó tích trữ kho báu trên trời và để lại cho trái đất một nơi thiêng liêng, được thánh hóa bởi những kỷ niệm hạnh phúc.

William Blake nói: “Những tàn tích của Thời gian xây dựng nên những lâu đài ở Eternity,” khi nói về cái chết của một người anh yêu quý, người mà anh ấy không bao giờ ngừng trò chuyện theo cách của tinh thần.

Có những người trong nhà và trên đường phố của chúng ta có cuộc sống cao quý nhất với người chết. Họ sống ở một thế giới khác. Chúng ta có thể nhìn thấy trong mắt họ rằng trái tim họ không ở đây. Như thể họ đã nhìn thấy vùng đất rất xa. Nó chỉ khác xa với những giác quan vô cảm thô thiển của chúng ta.

Thế giới tâm linh không nằm ngoài trái đất này của chúng ta. Nó bao gồm nó và lan tỏa nó, tìm ra một trung tâm mới cho một chu vi mới trong mỗi tâm hồn yêu thương có đôi mắt để nhìn thấy Vương quốc. Vì vậy, nắm giữ sự trao đổi với người chết không chỉ là một cách nói tu từ.

Thiên đường nằm ở chúng ta không chỉ trong thời thơ ấu mà trong suốt cuộc đời của chúng ta. Chúng ta che mắt mình bằng bụi bặm, và trong sự mù quáng của chúng ta, chúng ta cuống cuồng bám lấy bên ngoài cuộc sống, nhầm tưởng kẻ chạy trốn và phù du là cái thực sự vĩnh viễn.

Nếu chúng ta chỉ sử dụng khả năng của mình, chúng ta sẽ có cái nhìn sáng suốt hơn về cái chết. Chúng ta sẽ coi đó là lối vào một cuộc sống rạng rỡ hơn và phong phú hơn không chỉ đối với người bạn đi trước mà còn đối với người còn lại ở phía sau.

Sự hiệp thông thiêng liêng không thể bị gián đoạn bởi một sự thay đổi về thể chất. Chính vì có quá ít điều thiêng liêng trong sự giao tiếp thông thường của chúng ta nên cái chết có nghĩa là sự im lặng và chấm dứt sự hiệp thông.

Có một bức tranh về cái chết, khi nhìn bằng góc nhìn thông thường, nó có vẻ là một hộp sọ gớm ghiếc, nhưng khi nhìn gần thì nó được tạo thành từ những bông hoa, với những con mắt, trong hốc sọ dường như trống rỗng, được tạo thành bởi hai khuôn mặt xinh xắn của trẻ em.

Cái chết từ xa trông thật khủng khiếp, bóng ma ma quái của chủng tộc; nhưng với tầm nhìn gần, nó đẹp với tuổi trẻ và hoa lá, và khi nhìn vào mắt nó, chúng ta thấy được những rung động của cuộc sống.

Tình yêu thương là mối quan hệ lâu dài duy nhất giữa con người với nhau, và sự lâu dài không phải là ngẫu nhiên mà là bản chất của nó. Khi được giải phóng khỏi từ lực đơn thuần của giác quan, thay vì ngừng tồn tại, chỉ khi đó nó mới thực sự bước vào cuộc sống lớn nhất của mình.

Nếu cuộc sống của chúng ta thiên về tinh thần hơn, chúng ta chắc chắn rằng cái chết có thể là điều tồi tệ nhất nhưng lại là nhật thực của tình bạn. Tennyson cảm nhận được sự thật này trong trải nghiệm của chính mình và thể hiện nó một cách cao quý nhiều lần trong In Afemoriam –

Bàn tay, đôi môi và đôi mắt của con người ngọt ngào, Người bạn trên trời thân yêu không thể chết ;

Người bạn xa lạ, quá khứ, hiện tại và tương lai ; Được yêu sâu hơn, được hiểu sâu hơn; Kìa tôi đang mơ một giấc mơ tốt lành. Và hòa nhập tất cả thế giới với bạn.

Giọng nói của bạn vang lên trong không khí; Tôi nghe thấy tiếng nước nơi bạn đứng dưới ánh mặt trời mọc. Và trong khung cảnh, bạn thật toả sáng.

Đó không phải là mất mát mà là sự biến mất tạm thời, và vấn đề cuối cùng là nhận thức rõ ràng hơn về tình yêu thương bất diệt, và ý thức sâu sắc hơn về cuộc sống vĩnh cửu.

Do đó, thái độ của tâm trí trước bất kỳ sự mất mát nào như vậy – hẳn là đau đớn như cơn đột quỵ đầu tiên, vì chúng ta là sinh vật của thói quen và thật khó để điều chỉnh bản thân theo mối quan hệ mới – không thể chỉ là thái độ cam chịu. Đó là mức độ mà sự mặc khải không hoàn hảo của Cựu Ước mang lại cho con người.

Họ phải yên nghỉ trong sự hiểu biết về sự thành tín và tốt lành của Thiên Chúa. Giới hạn đức tin của họ là, **Chúa đã ban cho, và Chúa đã lấy đi. “Nhưng với sự cam chịu, chúng ta có thể thêm niềm vui. ‘*Không chết, nhưng ngủ,” Chủ nhân của cái chết và sự sống nói với một người  đang đau buồn.

Trước hết, nó phải có nghĩa là sự thiêng liêng của ký ức. Nhật thực tình yêu thương khiến tình yêu thương trở nên sáng hơn  hơn khi nhật thực đi qua. Sự mất mát bề ngoài sẽ thanh lọc tình cảm và làm dịu đi trái tim.

 Nó hiện thực hóa những gì thường chỉ tiềm ẩn trong cảm xúc. Ký ức thêm vinh quang dịu dàng vào quá khứ. Chúng ta chỉ nghĩ đến đức tính của người chết: chúng ta quên mất lỗi lầm của họ. Điều này là vì nó nên được.

Chúng ta yêu thích phần bất tử của họ một cách đúng đắn; lửa đã đốt hết cặn bã và để lại vàng ròng. Nếu đó là sự lý tưởng hóa, nó đại diện cho cái sẽ tồn tại và cái thực sự là.

Chúng ta không yêu cầu để quên; chúng ta không muốn những cái gọi là an ủi mà thời gian mang lại. Sự xúc phạm đến quá khứ như sự lãng quên có nghĩa là chúng ta đã không đạt được khả năng hiệp thông tinh thần mà chúng ta có được trong hiện tại.

Chúng ta thà rằng vết thương luôn tươi mới còn hơn là hình ảnh quá khứ thân yêu phai mờ. Sẽ là một mất mát cho cuộc sống tốt đẹp nhất của chúng ta nếu nó phai nhạt. Không có gì đau đớn trong một đức tin như vậy. Sự tưởng nhớ như vậy giữ cho tâm hồn xanh tươi, sẽ không cản trở cuộc sống.

Tình cảm đích thực không hề yếu đi mà trở thành nguồn cảm hứng khiến cuộc sống của chúng ta trở nên xứng đáng với tình yêu của chúng ta. Nó thậm chí có thể cứu rất nhiều người khỏi sự xấu xa;

vì dù chúng ta nghèo về của cải thế gian, chúng ta vẫn giàu có trong những mối quan hệ hạnh phúc trong quá khứ, sự hiệp thông ngọt ngào trong hiện tại và niềm hy vọng hạnh phúc cho tương lai.

 

You may also like

Để lại bình luận