Mấy nay đúng trời nóng như thiêu đốt các bạn nhỉ ? Khiếp quá, mấy chục năm mình mới thấy miền Nam oi bức cả về đêm lẫn sáng sớm. Nước máy nhà mình đến 10 giờ tối vẫn còn nóng hừng hực. Có khi giữa trưa nó sôi sùng sục thật chứ chả chơi!
Nhưng nền nhiệt cả khu vực Nam Á và Đông Nam Á đỏ rực chứ đâu chỉ mỗi nước ta
-Alo Monster hả, mày đang lang thang chốn nào vậy? Đã về đến Vườn địa đàng chưa?
-Chưa
-Sao lâu dữ zậy?
-Ở trên hồ Dầu Tiếng mát quá mày ơi, tao dựng tạm cái chòi ngay giữa hồ thưởng ngoạn gió mát trăng thanh. Cũng chỉ định cư ngụ khoảng hai, ba ngày mà chill quá nên …quên lối về :))
-Ôi zời, mày tha hóa nhanh quá đấy, thôi thế mày quay lại núi luôn đi
-Quay là quay thế nào? Mày tưởng tao ở trên đây chơi chắc. Trong 10 ngày ở đây, tao đã làm được 10 bài thơ “Hoa đồng tiền” cứu nguy cho chủ tịch Hội thơ của chúng mày đấy. Chả phải chúng mày kêu nóng quá không thằng nào thở nổi chứ đừng nói là làm ther :)) sao ?
Nghe thử thơ tao nhé Skeleton:
Ôi! Tháng tư là lời nói dối của em
Cô gái có đôi núm đồng tiền duyên ấy
Cô đã làm tôi ngất ngây với bao đòi hỏi
“-Hãy mang đến cho tôi một lon Coca
À không, thứ tôi cần phải là ly trà đá
Cậu nhớ nhé kèm theo một đĩa giá
Thôi, tôi đổi ý rồi làm ơn mang đi cho”
Hãy trả lời tôi, cô là ai, cô gái hay nàng tiên
Mà sao cô khí chất chẳng khác hoa đồng tiền :))
-Mày thấy sao hả Skeleton, thơ tao ổn không, đấy mới chỉ là bài số 1 của tao thôi đấy, còn những 9 kiệt tác nữa lận. Alo, Skeleton mày có đang nghe không đấy, alo, alo
“Cụ xứ” ơi, thằng Skeleton nó chả ngất nãy giờ rồi, chứ chả có ngây đâu :)). Là do bài thơ trên của cụ đấy chứ sao? Chết dở dồi, bữa nay cụ sáng tác cả ngôn tình thế nhẽ cụ định “xuống núi” thật chăng? :)).
Chỉ tội thằng Skeleton, người ta lại tưởng nó xỉu vì…nóng :))
Vâng ạ, nhiệt độ ngoài trời đúng là như ở sa mạc thật: Không dưới 45 độ đâu!
Thư Monster,
Dù biết là thế, là dưới Vườn Địa đàng đang nóng bỏng ấy mà, thì thôi tôi cũng phải nhổ neo. Chứ ở mãi đây cũng không thể nào yên ổn với mấy thằng bạn zời của tôi đâu.
Từ Dầu Tiếng tôi theo dòng sông Sài Gòn trực chỉ về thành phố. Con sông chảy qua một khu vực địa hình tương đối cao ráo, một địa danh tôi không thể không dừng chân:
Củ Chi
ĐỊA ĐẠO CỦ CHI
By Tom Mangold & John Penycate
1.
Huyện Củ Chi
Các đường hầm dưới lòng đất Củ Chi là phần phức tạp nhất của mạng lưới – ở đỉnh điểm của Chiến tranh Việt Nam vào giữa những năm 60 – trải dài từ cửa ngõ Sài Gòn đến biên giới với Campuchia. Có hàng trăm km đường hầm nối các làng, huyện, thậm chí cả các tỉnh.
Chúng chứa các khu vực sinh hoạt, kho hàng, nhà máy sản xuất vũ khí, bệnh viện, các cơ quan chỉ huy và hầu hết mọi cơ sở khác cần thiết cho Quân giải phóng và có thể được bố trí dưới lòng đất.
Không có một kỹ sư quân sự đơn lẻ nào có thể thiết kế mê cung rộng lớn này, cũng như – bất chấp quyền tướng lĩnh của tướng Võ Nguyên Giáp ở Hà Nội – cũng không có một chỉ huy nào ra lệnh xây dựng được nó. Các đường hầm phát triển như một phản ứng tự nhiên của một đội quân du kích địa phương được trang bị kém trước cuộc chiến công nghệ giữa thế kỷ 20.
Máy bay, bom, pháo binh và hóa chất buộc Quân giải phóng phải sống và chiến đấu dưới lòng đất. Trớ trêu thay, bằng việc trở thành một đội quân dưới lòng đất chống lại các đội quân được điều động bằng trực thăng, du kích Quân giải phóng, đã kéo dài cuộc chiến đến mức Hoa Kỳ đã phải thừa nhận rằng còn sa lầy vào cuộc chiến này thì còn tổn thất, và họ không có khả năng giành chiến thắng. Và một khi Hoa Kỳ bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam, chiến thắng hoàn toàn của bên Cộng sản đã đến gần hơn một cách không thể cưỡng lại được.
Huyện Củ Chi, thuộc miền Nam Việt Nam, đã trở thành khu vực bị ném bom, pháo kích, khí độc, làm cho cây cối rụng lá và bị tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử chiến tranh.
Nhiều năm qua, phần lớn Củ Chi chịu số phận là “vùng đột kích tự do”. Điều đó có nghĩa là hỏa lực pháo binh ngẫu nhiên, được gọi là “quấy rối và ngăn chặn”, trút xuống khu vực này vào ban đêm; Các phi công máy bay ném bom được khuyến khích thả chất nổ chưa sử dụng và bom napalm xuống Củ Chi trước khi trở về căn cứ.
Kể từ đó, khu vực này đã được tôn vinh trong lời kể của những người chiến thắng với những danh hiệu kính trọng, chẳng hạn như Vùng đất thép hoặc Vùng đất lửa. Gần như làng, thôn nào cũng là “làng anh hùng” hoặc những huân chương hoặc tuyên dương khác. Khu vực này còn có rải rác những ngôi mộ của các “anh hùng” của cả hai giới đã ngã xuống, tập trung xung quanh các đài tưởng niệm có khắc dòng chữ “Tổ quốc ghi công”.
Trong lịch sử ngắn ngủi của nước Việt Nam độc lập, cái tên Củ Chi đã mang âm hưởng huyền bí và lịch sử của “Agincourt và Bunker Hill” (Chiến thắng của người Anh trước quân đội của vua Pháp vào ngày 25 tháng 10 năm 1415 trong Chiến tranh Trăm năm đã trở thành bất tử trong vở kịch “Henry V” của Williams Shakespeare).
Người Việt Nam đã chiến đấu ba mươi năm suốt chiều dài hàng ngàn dặm của đất nước để thống nhất được lãnh thổ như hiện nay. Nhưng cuộc chiến ở Củ Chi đã trở thành hình ảnh thu nhỏ của nỗi kinh hoàng, chủ nghĩa anh hùng và sự bền bỉ của cuộc đấu tranh của người Việt Nam vì giấc mơ tự do và độc lập của Hồ Chí Minh.
Huyện Củ Chi, được quản lý từ thị trấn chợ nhỏ cùng tên, ngày nay là một phần của Thành phố Hồ Chí Minh mở rộng, nằm ở phía đông nam Sài Gòn. Phía nam là đồng bằng sông Mê Kông, vựa lúa của Đông Nam Á, một vùng có nhiều ruộng lúa, đầm lầy và kênh rạch.
Về phía Bắc Sài Gòn là chân đồi của vùng Tây Nguyên, trải dài dọc theo con đường huyết mạch của Việt Nam qua đường phân giới năm 1954 (được gọi là khu phi quân sự, hay DMZ) và đến miền Bắc Việt Nam. Những ngọn đồi dốc, gồ ghề, được bao phủ bởi rừng sâu, cằn cỗi và dân cư thưa thớt với các bộ lạc bản địa.
Giữa vùng đồng bằng và vùng núi là vùng đất bằng phẳng, được gọi là piedmont, hay bậc thang Mê Kông. Nó chạy theo hướng Tây Bắc từ Sài Gòn đến biên giới Campuchia như một miếng bánh khổng lồ có đỉnh ở cố đô. Ở cuối hẹp của tam giác này là Củ Chi.
Ít màu mỡ hơn vùng đồng bằng, nhưng có nhiều người định cư và canh tác, huyện Củ Chi là một mạng lưới các làng nằm dọc theo Quốc lộ 1, con đường nối Sài Gòn với Phnom Penh (thuộc Campuchia) và với Tây Ninh, tỉnh biên giới liền kề.
Huyện Củ Chi phía Bắc giáp sông Sài Gòn. Ngay bên kia là một huyện lấy tên từ thị trấn lớn nhất, Bến Cát. Huyện Bến Cát – cộng với các vùng chồng lấn lân cận – đã trở thành Tam giác sắt của Việt Nam. Xa hơn về phía bắc là thị trấn Lộc Ninh, nơi đã bị Quân giải phóng kiểm soát hoàn toàn trong nhiều năm. Củ Chi và Tam giác sắt nằm giữa nó và thủ đô của miền Nam Việt Nam – theo cách nói của một vị tướng Mỹ là “một con dao chĩa vào Sài Gòn”.
Ý nghĩa chiến lược của phần này của miền Nam Việt Nam là hiển nhiên: Nó nằm trên các tuyến đường bộ và đường sông chính vào Sài Gòn. Trong chiến tranh, đây là những tuyến đường tiếp tế của Quân giải phóng từ Campuchia, nơi kết thúc đường mòn Hồ Chí Minh từ miền Bắc Việt Nam.
Thứ hai, huyện Củ Chi bao gồm lãnh thổ rộng lớn duy nhất ở miền Nam Việt Nam mà quân đội và phương tiện có thể di chuyển dễ dàng, ngay cả trong những cơn mưa gió mùa đổ xuống khu vực này vào những tháng hè hàng năm.
Tầm quan trọng của điều này không bị mất đi đối với bất kỳ bên tham chiến và quốc gia nào đã nhấn chìm Việt Nam trong xung đột trong ba mươi năm, và khu vực này có rải rác các căn cứ quân sự và cơ quan chỉ huy của tất cả họ. Nó được quân đội miền Nam Việt Nam gọi là khu chiến thuật Quân đoàn III, chia miền Nam thành bốn khu. Mặt khác, Quân giải phóng gọi toàn bộ khu vực xung quanh Sài Gòn là Quân khu IV.
Mai Chí Thọ, nguyên Bí thư Thành ủy Tp.HCM nhớ lại: “Củ Chi là bàn đạp đánh Sài Gòn, trung tâm đầu não của địch. Nó giống như một cái gai đâm vào mắt. Địch phải tìm cách quét sạch các huyện Củ Chi, Bến Cát; cuộc chiến diễn ra khốc liệt. Chúng tôi lợi dụng địa bàn để xâm nhập Sài Gòn – tình báo, cán bộ đảng, đội hoạt động ngầm. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 (vào Sài Gòn và các thị trấn khác) đã được chuẩn bị – tập hợp quân và vật tư cần thiết – tại địa đạo Củ Chi. Người Mỹ đánh giá cao tầm quan trọng của khu vực này vì nó liên tục đe dọa an ninh Sài Gòn, trụ sở chính của họ. Nếu họ không giải quyết được vấn đề địa đạo Củ Chi thì làm sao giải quyết được vấn đề Việt Nam?
Người dân Củ Chi nổi tiếng về hoạt động cách mạng bí mật và phản kháng đến nỗi Ngô Đình Diệm, cựu quan lại triều đình và là tổng thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam, từ năm 1955 cho đến khi bị sát hại vào năm 1963, đã bãi bỏ chính quyền huyện. Các tỉnh mới được thành lập vào năm 1956, các thị trấn và làng mạc được đổi tên để xóa sạch ký ức về cuộc nổi dậy chống Pháp.
Củ Chi được chia thành các tỉnh Hậu Nghĩa ở phía Nam và Bình Dương ở phía Bắc. Tuy nhiên, những người Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng những tên cũ và đặt cơ sở cho các tổ chức khu vực, huyện và làng, dân sự và quân sự của họ theo các hình thức cũ.
Quân đội Hoa Kỳ nhận thấy các địa danh là một vấn đề đau đầu nên đã điều chỉnh một số địa danh và tạo nên những địa danh khác. Họ mô tả hai làng quan trọng của Củ Chi là An Nhơn Tây và Phú Mỹ Hưng (sau này là sở chỉ huy khu vực Sài Gòn của Quân giải phóng) là “Rừng Hố Bò”
Củ Chi từng là vùng xanh của nền nông nghiệp thâm canh, đặc biệt là cánh đồng lúa, vườn cây ăn trái, cây lấy hạt và đồn điền cao su. Người dân nuôi gà, heo, trâu nước kéo cày hoặc đắm mình trong các kênh tưới tiêu giữa ruộng. Khi làm việc, những người nông dân mặc bộ đồ lụa đen và đội những chiếc nón lá rộng.
Đồn điền cao su Fil Hol khổng lồ từng nằm ở phía Bắc thị trấn Củ Chi, ven sông Sài Gòn, đối diện với Tam giác sắt. Sự quản lý của người Pháp có phần nơi lỏng ở cuối những năm 40, nhưng những hàng cây cao su ngay ngắn đã trở thành nơi trú ẩn của bộ đội Quân giải phóng.
Xa hơn về phía Bắc, gần Dầu Tiếng, tỉnh Tây Ninh, là đồn điền cao su Michelin. Nó tiếp tục sản xuất trong suốt cuộc chiến. Một số chủ đồn điền người Pháp đã nộp thuế một cách nghiêm túc cho cả chính quyền Sài Gòn và chính phủ hoạt động về đêm không chính thức của quân giải phóng. Vì người Pháp vẫn còn ở đó nên quân Mỹ để yên cho đồn điền Michelin hoạt động.
Nơi nào việc trồng trọt chấm dứt, thảm thực vật hoang dã bắt đầu: bụi tre hoặc rừng rậm. Nhưng vào thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh Việt Nam, Củ Chi đã bị biến thành một sa mạc hóa học cằn cỗi, với những hố bom hang động, cây cối trơ trụi, nơi không khí chứa đầy khí độc hại. Người Mỹ gọi đó là vùng trắng vì việc giám sát từ trên không rất dễ dàng.
Trên bản đồ quân sự của họ, trên những nơi từng là làng mạc và đồn điền, họ in – lặp đi lặp lại và một cách tàn bạo – từ “bị phá hủy”. Tuy nhiên, nó vẫn là một chiến trường. Du kích Quân giải phóng vẫn ở lại khu vực này trong phần lớn thời gian của cuộc chiến trong hệ thống đường hầm.
Cả chiến tranh du kích và việc quân đội sử dụng đường hầm ở Việt Nam đều có trước khi có sự can thiệp của Mỹ. Có một bối cảnh lịch sử của cuộc chiến đường hầm.
Tôi đang đặt chân trên đất Củ Chi, vùng đất nổi tiếng đã lâu qua các trang sách lịch sử. Thực ra năm học cấp hai tôi đã đi được đi tham quan Củ Chi rồi nên lần trở lại này với tôi như là được về lại nhà,về lại một nơi mà tôi đã biết.
Có điều bây giờ tôi đã lớn hơn rất nhiều so với ba năm trước đây:
-Xin lỗi, bạn có thể bớt chút thời gian chụp giùm tôi một vài bức ảnh ở đây không?
Nắng quá, tôi đang đứng tại một khu rừng tre thì một anh thanh niên ngoại quốc còn rất trẻ cũng ở ngay đấy quay qua nói với tôi. Qua giọng điệu tôi đoán anh là người Mỹ
-Được thôi, không có chi
Tôi chụp cho anh theo đề nghị ở ngay trước cổng chào bạt ngàn những cây tre. Những cây tre Việt Nam xanh tươi và bất khuất
Tre xanh,
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh.
Thân gầy guộc, lá mong manh,
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi,
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu.
Tôi rất yêu thích hình ảnh cây tre, bởi như nhà thơ Nguyễn Duy đã nói nếu đứng tách biệt nhìn cây tre có vẻ mỏng mảnh, yếu ớt lắm. Phải chăng vì ý thức được thân phận của mình nên khi một cây tre mọc lên rồi thì sẽ nhanh chóng sinh sôi lên những búp măng ở bao quanh gốc của nó. Để rồi nhiều những búp măng lại nhanh chóng vươn mình thành những cây tre mới. Dần dần chúng tạo thành những thành lũy tre vững chắc, khó có cơn bão nào có thể quật đổ
-Tôi đã đi khắp đất nước của các bạn, ở đâu tôi cũng thấy những lũy tre xanh rì rào gọi gió. Ngay cả đến một nơi được xem như là Đất thép này
-Chúng giống như là tính cách của dân tộc chúng tôi vậy
Vươn mình trong gió tre đu,
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành.Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh,
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm.
Anh đến từ vùng nào của nước Mỹ ?
-Thủ đô Washington
-Wow, tôi cũng rất thích thủ đô cổ kính của các anh, nơi có con sông Potomac rợp bóng hoa anh đào, nơi có thư viện quốc hội nổi tiếng với hàng triệu bản sách. Tôi nghĩ thật là hợp làm sao khi các anh vừa có hoa vừa có sách ở cùng một nơi thơ mộng như thế
-Cám ơn bạn đã khen quê hương tôi. Thành phố của tôi còn rất nhiều địa điểm nổi tiếng như Nhà Trắng hay Điện Capitol. Và một nơi chúng tôi cũng rất trân trọng là Đài tưởng niệm Abraham Lincoln và Khu tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam.
-Tôi mong ước một lần được đến thăm những nơi đầy ý nghĩa như vậy ở Hoa Kỳ. Đây có phải là lần đầu tiên anh đến Việt Nam?
-Là lần thứ hai. Cách đây ba năm tôi đi cùng ông nội của tôi. Ông là lính thủy đánh bộ cuối cùng được cử đến tham chiến tại chiến trường Việt Nam, mà sau này đã được ghi trong nhật ký của ông như là những Ký ức kinh hoàng
-Tôi hiểu, chiến tranh luôn là một thứ gì đó rất đáng sợ
-Tôi nghĩ thứ mà giúp cho những người lính như ông tôi vượt qua được những hội chứng như là “Hội chứng chiến tranh” hay như ở thế hệ của ông là “Hội chứng Việt Nam” chính là sự bao dung nhân ái giữa con người với con người, giữa chủng tộc này với chủng tộc khác, giữa các bên đã từng ở phía bên kia chiến tuyến với nhau. Khi ông tôi trở lại thăm Việt Nam vào đầu thập kỷ 90, lúc đó đất nước các bạn vẫn chưa hoàn toàn mở cửa với thế giới, nhưng ông đã được người dân đón tiếp rất nồng hậu, trái ngược hẳn với sự thoáng lo ngại ban đầu của ông về một sự phản ứng nào đó từ phía người dân ở những nơi từng được xem là chiến trường khốc liệt
-Và rõ ràng là sự lo lắng, nếu có, của ông ấy là thừa?
-Đúng vậy, ông tôi mô tả trong nhật ký rằng người dân Việt Nam rất hay cười, những nụ cười chân chất và hồn hậu. Ông nghĩ hiếm có ở đâu mà người dân vừa can trường lại vừa rộng lượng như dân tộc các bạn.
– Một trong những nhân vật được xem như là hình mẫu đáng học tập của tôi là bà Helen Keller, đến từ đất nước của anh. Bà có một câu nói để cho tôi nhiều suy ngẫm, đó là: Kết quả cao nhất của giáo dục là sự khoan dung. Khoan dung có nghĩa là chấp nhận và tôn trọng những người khác biệt với bạn, ngay cả khi bạn bất đồng quan điểm với họ. Nó có nghĩa là cởi mở và hiểu biết. Bà tin rằng nếu mọi người có thể học cách khoan dung thì thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
– Tôi nghĩ dân tộc anh đã là một dân tộc khoan dung!
– Cám ơn anh! Chúc anh có một chuyến hành trình vui vẻ ở đất nước chúng tôi!
Tạm biệt anh bạn sinh viên người Mỹ, tôi đi sâu hơn vào Vùng địa đạo, nơi ghi dấu những con đường hầm lịch sử.
ĐỊA ĐẠO CỦ CHI
By Tom Mangold & John Penycate
2.
Đường hầm Củ Chi
Đại úy Nguyễn Thanh Linh của Quân đội nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trải qua 5 năm trong địa đạo Củ Chi, ngồi thoải mái trên nền đất đỏ bụi bặm đánh dấu một trong những địa điểm đường hầm lớn, ông giải thích các đường hầm trong bối cảnh lịch sử và xã hội học.
“Chúng có cái gì đó rất Việt Nam,” ông nói, “và người ta phải hiểu mối quan hệ giữa người nông dân Việt Nam và trái đất, trái đất của anh ta là gì. Không có điều đó thì mọi thứ ở đây” – bàn tay ông lướt qua khu phức hợp hầm trú ẩn – “không có ý nghĩa thực sự. Nhưng tôi sợ anh sẽ không hiểu.”. “Anh đến từ phương Tây.”
Nó không có ý xúc phạm; nó được nói với vẻ nhẹ nhàng, giống như sự pha trộn giữa nỗi buồn và sự tức giận mà người Ireland thể hiện khi cố gắng giải thích lịch sử của họ cho người Anh.
Việt Nam chủ yếu là một xã hội nông nghiệp, không phải là vùng đất của các thành phố hay thị trấn quan trọng, cũng như không có công nghệ dựa trên đô thị. Việt Nam là vùng đất của những người nông dân có đời sống truyền thống sâu sắc với đặc điểm là sự lặp đi lặp lại không ngừng, việc gieo trồng và gặt lúa và việc duy trì luật tục.
Người Việt thờ cúng tổ tiên như cội nguồn của cuộc sống, của cải và nền văn minh của họ. Trong nghi thức thờ cúng tổ tiên, cái chết của một người không đánh dấu sự kết thúc cuối cùng. Được chôn cất trên những cánh đồng lúa nuôi sống gia đình, người cha vẫn sống trong cơ thể của con cháu.
Trong sự liên tục của gia đình này, tài sản cá nhân và tài sản riêng hầu như không tồn tại. Người cha không phải là chủ sở hữu mà là người được ủy thác đất đai, mảnh đất này chắc chắn sẽ được truyền lại cho con cái. Đối với người Việt, đất đai là yếu tố thiêng liêng, bất biến.
Các khái niệm của phương Tây về trục lợi đất đai, về xã hội di động, về phát triển hay bỏ bê đất đai, đều nằm ngoài tầm hiểu biết của nông dân Việt Nam. Đối với dân làng truyền thống, những người dành thời gian ở một nơi, gắn bó với truyền thống lâu đời trên mảnh đất lúa của tổ tiên, thế giới là một nơi nhỏ bé.
Đất được ưu tiên hàng đầu, vì là nguồn gốc của sự sống, nó là cơ sở cho khế ước xã hội giữa các thành viên trong gia đình với xóm, làng. Không có đất, người dân làng sẽ không có bản sắc xã hội; anh ta sẽ là một kẻ lang thang, một kẻ lang thang không đất đai. Người dân tin rằng nếu một người đàn ông rời khỏi mảnh đất của mình và vượt ra ngoài ranh giới làng, linh hồn của anh ta sẽ ở lại, chôn sâu trong lòng đất cùng với hài cốt của tổ tiên.
Không bao giờ chỉ vì nhu cầu quân sự hay sự phù hợp của địa hình địa phương đã dẫn đến việc xây dựng địa đạo Củ Chi; đây là những yếu tố cốt yếu nhưng cũng là những chiến thuật khôn ngoan của các cán bộ Quân giải phóng mới trở về miền Nam vào đầu những năm sáu mươi để lên kế hoạch cho một cuộc sống dưới lòng đất – một sự tồn tại vừa có ý nghĩa thực tế vừa mang tính biểu tượng.
Chiến lược đòi hỏi điều đó, đất đai cho phép điều đó, và trên hết, lịch sử đã tích cực khuyến khích điều đó. Tướng Võ Nguyên Giáp tin rằng, kẻ thù chiếm giữ mặt đất của ông thì dân tộc ông sẽ chiếm giữ lòng đất đó.
Đối với các kỹ sư, cán bộ, nông dân cộng sản, đất Củ Chi có lợi thế môi trường tự nhiên rất lớn cho việc đào hầm. Do phần lớn nằm gần sông Sài Gòn nên nơi đây chủ yếu là đất sét đá ong, một loại đất chứa sắt có chất kết dính bằng đất sét, cho phép không khí xâm nhập.
Theo Trung tá Công binh Jerry Sinn, người đã kiểm tra chi tiết các đường hầm ở Củ Chi vào mùa thu năm 1969, đất sét không bị ảnh hưởng đặc biệt bởi những thay đổi lớn về lượng nước có trong nó, và do đó là một cấu trúc rất ổn định cho đào hầm.
Nó được gia cố thêm, giống như bê tông cốt thép, bởi rễ của nhiều loại cây khác nhau, một hệ thống xây dựng tự nhiên mà người Mỹ gọi là quá sinh. “Đó là một lớp đất siêu đào hầm,” Jerry Sinn nói một cách u ám.
Đại úy Linh còn nói đơn giản hơn: “Đất ở Củ Chi dính và không vỡ vụn. Khu vực này cao hơn mực nước biển từ 15 đến 20 mét và ở độ sâu khoảng 6 mét, chúng tôi biết là không có nước. Mực nước ngầm thường được tìm thấy ở độ cao khoảng mười đến hai mươi mét. Chúng tôi không thể mong đợi điều kiện tốt hơn.
Đất sét đá ong khô có màu đỏ xỉn. Mùa khô ở Củ Chi, mặt đường làng trở nên bụi bặm, khó chịu và thấm như cát. Tuy nhiên, kết cấu của đất sét đá ong quanh các đường hầm cứng như gạch và dường như không thấm nước.
Không có gì mới về việc quân phòng thủ sử dụng đường hầm để chống lại kẻ tấn công. Quả thực, quân du kích Trung Quốc đã sử dụng thành công các đường hầm ở tỉnh Hopei trong cuộc chiến tranh Nhật Bản vào những năm 1930.
Toàn bộ các quận được liên kết bởi mạng lưới thông tin và phòng thủ dưới lòng đất. Đối với phương Tây, các chiến hào và đường hầm gợi lại cơn ác mộng trong Thế chiến thứ nhất, với bùn, khí gas và cái chết của hàng ngàn người khi những người đàn ông bị mắc kẹt trong các hố trên mặt đất bởi khí gas và hỏa lực pháo binh.
Các đường hầm rộng lớn do quân đội Triều Tiên và Trung Quốc xây dựng dọc eo biển Triều Tiên gần vĩ tuyến 38, được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Triều Tiên vào đầu những năm 50. Tuy nhiên, chưa bao giờ có một kế hoạch táo bạo như vậy được hình thành, kết quả là chính quyền trung ương không mở rộng ra một khu vực rộng lớn 70 dặm vuông ngay bên ngoài thủ đô của đất nước.
Các đường hầm khiến Củ Chi trở thành một khu vực cấm đi lại vào ban đêm và thực sự nằm ngoài giới hạn vào ban ngày mà không cần sử dụng sự hỗ trợ quân sự rộng rãi. Cứ như thể quyền lực của Washington không đến được Philadelphia, hay lệnh của London không thể gửi tới Croydon.
Cơ sở hạ tầng đường hầm cơ bản, được đào vào giữa những năm 40, chỉ là một loạt những nơi trú ẩn phía sau và những đường hầm thông tin liên lạc ngắn nối liền các thôn. Tuy nhiên, các đường hầm của những năm 60 không chỉ là những nơi ẩn náu tiện lợi, những ngôi nhà an toàn cho những người Cộng sản hay những kho vũ khí an toàn.
Chúng phải là trụ cột của toàn bộ chiến dịch có tính khu vực và chúng sẽ phải sống sót sau cuộc tấn công công nghệ cao của cỗ máy quân sự mạnh mẽ và tinh vi nhất trên thế giới.
“Đường hầm nhằm mục đích tăng cường sức sống chiến đấu cho các ngôi làng của chúng ta. Chúng cũng mang lại sự an toàn hơn cho các đơn vị chính trị và vũ trang của chúng ta cũng như cho quần chúng. Nhưng mục đích che chở của chúng chỉ có ý nghĩa khi phục vụ bộ đội ta trong hoạt động chiến đấu. Chỉ là nơi trú ẩn đơn thuần, lợi thế to lớn của chúng bị lãng phí. Và quan trọng hơn nữa là “Phải có các chốt chiến đấu và thiết bị bên trong các đường hầm dưới lòng đất để hỗ trợ liên tục cho quân ta – ngay cả khi kẻ thù chiếm đóng làng.”
Nếu đào địa đạo để phát huy hết công dụng thì dân làng, thôn xóm sẽ trở thành pháo đài cực kỳ vững chắc. Địch có thể hơn chúng ta gấp mấy lần về sức mạnh và vũ khí hiện đại nhưng sẽ không đuổi chúng ta ra khỏi chiến trường, vì chúng ta sẽ mở các cuộc tấn công bất ngờ từ bên trong các địa đạo dưới lòng đất, rất thuận lợi cho lực lượng vũ trang hạn hẹp như chúng ta về sức mạnh và vũ khí.
Các đường hầm sẽ rất quan trọng để tiến hành các cuộc tấn công tầm gần vào người Mỹ và cũng sẽ tạo cơ hội để thu giữ vũ khí của họ; chúng sẽ mang lại khả năng cơ động tuyệt vời và “chúng ta có thể tấn công kẻ thù ngay giữa sân nhà của chúng hoặc tiếp tục chiến đấu từ những nơi khác nhau.”
Không ai, kể cả những nhà hoạch định chính sách tập trung ở Hà Nội, có thể dự đoán được diễn biến của cuộc chiến ở Quân khu IV, khu vực xung quanh và trong đó có Sài Gòn, từ năm 1965 trở đi. Ở mức độ đó, việc xây dựng các đường hầm liên quan đến chủ nghĩa kinh nghiệm kỹ thuật và mở rộng đáng kể.
“Chúng ta phải lên kế hoạch cho trường hợp cuối cùng không thể chiến đấu từ bên trong các đường hầm dưới lòng đất. Khi đó phải có một lối đi bí mật để quân ta có thể trốn thoát và chiến đấu ngoài trời, hoặc quay lại đường hầm dưới lòng đất nếu cần thiết. Các lối đi của địa đạo không được thẳng hoặc “như con rắn” mà phải ngoằn ngoèo một góc từ 60 đến 120 độ, vì nếu địch phát hiện được lối vào hầm dưới lòng đất, chúng sẽ gài mìn và banglores (chuỗi nổ) hoặc đổ hóa chất, cả hai đều chắc chắn sẽ gây ra hậu quả tai hại cho quân đội của chúng ta.”
Trên thực tế, việc sử dụng chất nổ, hóa chất không gây “tác hại tai hại”; Tuy nhiên, việc di chuyển theo hình zigzag đã làm cho đường bắn thẳng bên trong không thể thực hiện được và giúp làm chệch hướng các vụ nổ.
Kích thước của các lối đi liên lạc đã được xác định rõ ràng. Chúng không được rộng hơn 1,2 mét, không hẹp hơn 0,8 mét, không cao hơn 1,8 mét, không thấp hơn 0,8 mét. Độ dày tối thiểu của mái nhà là 1,5 mét – “để tránh chấn động do vụ nổ bom đạn và âm thanh của các đơn vị cơ giới di chuyển phía trên”.
Một hệ thống cửa sập thông minh và được thiết kế tinh xảo đã được nghĩ ra để tạo ra lối vào và lối ra cho các lối đi bí mật và từ tầng hầm này sang tầng hầm khác. Ở những nơi có mực nước ngầm cho phép và điều kiện địa phương đòi hỏi, các tổ hợp đường hầm gồm bốn tầng riêng biệt đã được xây dựng.
Chiến công đáng chú ý này không chỉ là sự tôn vinh cho sức chịu đựng của những người thợ đào mà còn cho việc ứng dụng thực tế một cách phi thường của họ một số nguyên tắc vật lý nhất định, cho phép con người sống sót trong nhiều năm sâu trong lòng đất, bởi vì các biện pháp hỗ trợ sự sống rất thô sơ đã thực sự có hiệu quả.
Không khí, vệ sinh, cung cấp nước và phương tiện nấu nướng là đủ để duy trì sự tồn tại nguyên sơ nhưng an toàn hợp lý. Điều quan trọng đối với toàn bộ kế hoạch là ngay cả khi tầng hầm đầu tiên bị phát hiện, cửa sập bí mật dẫn xuống tầng tiếp theo sẽ vẫn được giấu kín khỏi kẻ thù. Điều đó có nghĩa là phải tạo ra những cửa sập gần như vô hình.
Một trong những màn trình diễn yêu thích của Đại úy Linh là đưa khách vào khu rừng rậm của khu phức hợp đường hầm Phú Mỹ Hưng, xếp họ thành một vòng tròn có đường kính khoảng 20 feet và thách thức họ tìm ra cửa sập đường hầm trong khu vực đó. Chưa có ai từng làm điều đó.
Sau đó Linh dậm chân xuống đất thì bất ngờ một đồng đội đang cười toe toét nhấc cửa sập lao ra ngoài. Vấn đề đã được thực hiện. Chỉ có việc thăm dò tốn nhiều công sức, tốn thời gian và nguy hiểm nhất bằng dao hoặc lưỡi lê mới phát hiện ra một cửa sập tốt. Bản thiết kế xây dựng cửa sập như sau:
“ Với những tấm ván dày 1 cm và rộng 2-3 cm, làm hai khung, một khung bằng ván ngang và khung kia bằng ván dọc. Chèn một tấm nylon vào giữa hai khung, sau này sẽ được dán lại với nhau. Che nó bằng cao su xốp và lấp đầy tất cả các lỗ bằng sáp. Không bao giờ nên dùng một tấm ván duy nhất làm khung [cửa sập] vì nó không đủ chắc chắn.
Các cạnh của cửa sập thường được vát xuống một góc để có thể chịu được áp lực quá lớn. Không có độ võng. Nếu cửa sập ở bên trong đường hầm, thì những người thi công sẽ đặt đất lên trên và giấu trong đất những sợi dây nhỏ để binh sĩ có thể nhấc cửa lên. Nếu cửa sập ở bên ngoài thì những cây nhỏ sẽ được khuyến khích mọc trên đó, hoặc những tán lá chết sẽ được “trồng” một cách khéo léo để hòa làm một với môi trường.
Bản thân các lỗ thông gió lại đơn giản. Chúng chạy xiên từ mặt nước lên tầng một – xiên để tránh mưa gió mùa tràn vào. Một số luôn hướng về phía đông, hướng về nơi có ánh sáng ưa thích của một ngày mới. Những cái khác, theo sự hướng dẫn, “phải quay ngược chiều gió”.
Trong bóng tối chết chóc của các đường hầm, những lỗ thông gió này là lời nhắc nhở vật lý duy nhất về sự tồn tại của thế giới thực, với không khí và ánh sáng, cách đó vài feet. Các lỗ thông gió bên trong đã được khoan xuống các tầng hầm thấp hơn.
Lối vào đường hầm được thiết kế cẩn thận và chính xác để phục vụ cho nhiều tình huống dự phòng khác nhau.
“Vì hoạt động của dân quân, du kích đòi hỏi phải linh hoạt và nhanh chóng biến mất nên các lối vào địa đạo phải bố trí như các góc của hình tam giác để có thể hỗ trợ lẫn nhau trong chiến đấu. Quân ta cũng phải thoát ra khỏi đường hầm dưới lòng đất thông qua một lối mở bí mật để có thể tiếp tục chiến đấu.
Các lối vào cũng phải có khả năng chống cháy, lũ lụt và chiến tranh hóa học: “Vì lý do này, chúng ta phải xác định vị trí các lối vào địa đạo ở những khu vực khô ráo, trên cao và thông gió tốt. Lối vào như vậy sẽ không bị chặn bởi các hóa chất có thể giết chết người cư ngụ. Ngoài ra nước mưa sẽ không đọng lại ở lối vào nằm như vậy.
Ba cửa sập trong hệ thống lối vào hình tam giác phải cách nhau trung bình từ 40 đến 50 mét và lối vào phải chắc chắn. “Chúng ta cần phải tiêu tốn rất nhiều nhân lực, thời gian và vật chất để làm được điều đó. Kích thước như sau: lối vào hình vuông mỗi cạnh 1,5 mét, lối vào hình chữ nhật 1 mét x 1,8 mét, lối vào hình tròn đường kính 1,5 mét.
“Gần đây các địa phương nhận thấy không có quy trình đào một cách có hệ thống, một số lối vào quá lớn và yếu, do đó lãng phí thời gian, nhân lực và vật liệu….Ở một số địa phương, các lối vào [đường hầm] chỉ cách nhau một khoảng nhỏ … .đôi khi chỉ cách nhau 5 đến 7 mét. Lý do là việc đào bới được giao cho các gia đình hoặc nhóm người riêng biệt, những người không thể lường trước được hậu quả tai hại do sự thiếu suy nghĩ của mình….họ dường như phớt lờ thực tế rằng những lối vào gần sẽ thu hút sự chú ý của kẻ thù và không làm gì khác ngoài việc hỗ trợ việc phát hiện của kẻ thù.
Sự chú ý đến từng chi tiết là giáo điều, nhưng sự thật nằm ở chỗ các đường hầm Củ Chi là yếu tố chính trong chiến dịch chống Mỹ, và nếu sự cẩu thả hoặc thiếu chính xác về kỹ thuật ảnh hưởng đến việc xây dựng hệ thống, Quân giải phóng sẽ thua.
Nơi đường hầm trở thành hầm trú ẩn hở, những mái nhà đặc biệt đã được xây dựng bằng cách sử dụng những cọc tre dày 50 cm, sau đó là một lớp “trấu” dày 50 cm khác. Sau đó có một lớp đất dày 50 cm. Trên nền đất, họ đã trồng hoa hoặc dùng cây đổ để ngụy trang.
Điều đáng kinh ngạc là, nếu một quả bom nặng 200 kg rơi cách đường hầm chỉ 10m thì không gây thiệt hại gì. Vỏ trấu và lá được sử dụng có tác dụng bảo vệ tuyệt vời khỏi vụ nổ bom. Cọc tre cũng được sử dụng vì khả năng phục hồi của chúng. “Tháng 4 năm 1966, một chiếc máy bay thả một quả bom nặng 200 kg xuống ấp Chùa, quả bom đã đánh trúng ngay loại đường hầm này. Đất trấu rơi xuống nhưng cán bộ [bên trong] không bị thương.”
Nhưng ngay cả khi sự điều chỉnh đã được phân loại ở một mức độ nào đó, thì thực tế vẫn là do vô tình, do thiết kế hoặc kết hợp cả hai, Quân giải phóng đã tạo ra một loạt công sự dưới lòng đất đủ vững chắc để chống chọi với hầu hết các loại hình chiến tranh hủy diệt.
Đối với người Mỹ, sự thất vọng về mặt quân sự đối với việc xử lý các đường hầm ngày càng trở nên mãnh liệt. Cứ như thể Goliath có cả dùi cui và súng cao su, trong khi tất cả những gì David làm là đào một cái hố và trốn, thỉnh thoảng bật lên để chiến đấu và bỏ chạy.
Các đường hầm thường được đào bằng tay một cách khó khăn.
“Các lối đi được đào theo các cách sau:
Với thiết bị đào
Với bàn tay
Chúng tôi xin giới thiệu ở đây cách đào đường bằng tay
Đào thủ công: Các lối đi thường được đào bằng:
2 người luân phiên đào và xúc đất
2 đến 3 người dỡ đất (tuỳ theo khoảng cách phải dỡ đất).
Có một thiết bị nâng đất thô sơ trên các lỗ đường hầm trong quá trình đào và cho phép loại bỏ đất bán cơ học, nhưng không phải đào.
Thiếu tá Nguyễn Quớt hôm nay có mặt tại Bộ chỉ huy Quân khu 7 tại TP.HCM. Là một chỉ huy trẻ, ông được phân công đến địa đạo Củ Chi. Giống như Đại úy Linh, ông phải mất 5 năm cho nhiệm vụ đó.
Đôi mắt của ông bị ảnh hưởng nặng nề vì thiếu ánh sáng và ngày nay ông hiếm khi tháo chiếc kính râm ra. Mặc dù định mức công việc cho việc đào đất là khoảng một mét khối mỗi người mỗi ngày, nhưng điều này rõ ràng thay đổi tùy theo sức khỏe, tuổi tác, khí hậu và tình trạng đất của người đào.
Theo kinh nghiệm của Thiếu tá Quớt, chỉ có khoảng nửa mét khối đất được đào mỗi ngày, “mặc dù ở gần lỗ thông gió nhưng họ có thể đào nhanh hơn và lấy ra nhiều hơn”. Ông ấy nói rằng mọi người đều tham gia đào đường hầm: các cụ già, phụ nữ, thanh niên và các cô gái, thậm chí cả trẻ em. Quá trình loại bỏ đất khá đơn giản. Một bức tranh treo ở Phú Mỹ Hưng thể hiện khá rõ phương pháp này.
Đầu tiên một cái hầm được đào từ mặt đất xuống từ ba đến năm mét. Một người sẽ ở lại miệng giếng khô, như cái hố đầu tiên được gọi, với một cái sọt gắn vào một cây gậy dài. Người thợ đào hầm sẽ đặt đất vào sọt, sau đó sẽ được kéo lên. Đồng thời, một quá trình tương tự sẽ bắt đầu cách giếng khô đầu tiên khoảng mười mét.
Khi cả hai thợ đào đã đạt đến độ sâu cần thiết, họ sẽ bắt đầu đào hầm về phía nhau dưới lòng đất. Họ chỉ dựa vào âm thanh để giúp họ gặp nhau ở giữa. Theo Thiếu tá Quớt. “Những người đào hầm của chúng tôi có đôi tai thính; họ luôn gặp nhau, và nếu họ cách nhau vài cm cũng không thành vấn đề.
Mỗi cái giếng khô đều được lấp đầy sau khi đào xong, và hãy nhớ rằng, chúng tôi không bao giờ có thể đào đường hầm theo hướng đi lên vì bạn không thể vứt bỏ đất. Nó luôn luôn đi xuống. Để đối phó với những cơn mưa, chúng tôi đã cho phép độ dốc đi xuống một chút trong các đường hầm thông tin liên lạc để nước thoát vào giếng.
Để đào hầm chúng tôi phân chia công việc một cách khoa học”, đại úy Linh giải thích. “Cụ ông đan thúng để gánh đất, cụ bà nấu ăn, thanh niên nam nữ dùng sức để đào đất. Ngay cả trẻ em cũng làm phần việc của mình bằng cách thu thập lá cây để che các cửa sập.
Dụng cụ đào đất yêu thích của chúng tôi là thuổng cũ và cuốc cũ. Một chiếc cuốc mới có kích thước khoảng 15 x 25 cm, nhưng sau khi được nông dân sử dụng để đào đất trên đồng một thời gian dài, nó đã thu nhỏ lại thành kích thước của một cái tô”.
Nhà thơ, nhà văn Sài Gòn Viễn Phương trải qua phần lớn thời gian chiến tranh trong địa đạo. Ông là một người đàn ông tầm thước với mái tóc hoa râm, cánh tay gầy gò và đôi mắt lờ đờ đằng sau cặp kính cận dày.
“Đào đường hầm là công việc hàng ngày của chúng tôi; Ngoài địa đạo nơi tôi ở, tôi phải có hai, ba địa đạo dự phòng vì nếu địch tới một địa đạo, hoặc bom phá hủy địa đạo kia thì tôi vẫn cần một địa đạo để đi. Vì thế chúng tôi phải đào hàng ngày. Đất Củ Chi là hỗn hợp của cát và đất. Mùa mưa thì mềm như đường, mùa khô thì cứng như đá.
Nếu tôi đào được 30 cm mỗi ngày trong sáu giờ thì đó đã là một thành tựu lớn. Việc đào đất dễ dàng hơn vào mùa mưa. Tôi có một cái cuốc nhỏ như cái đĩa, phải quỳ hoặc ngồi xuống đất. Tôi phải tìm đất cứng ở gốc cây tre hoặc nơi có tổ mối. Đất như vậy có thể chịu được trọng lượng của một chiếc xe tăng. Chúng tôi đào theo đội ba người: một người đào đất, người thứ hai kéo đất ra và người thứ ba kéo đất lên.
Và hàng nghìn, hàng nghìn tấn đất được đưa ra khỏi đường hầm để tiêu hủy, giấu kín để người Mỹ không tìm ra bằng chứng lộ liễu? Quân giải phóng biết rất rõ rằng người Mỹ có máy bay dò tìm và các kỹ thuật giám sát trên không mới tinh vi có thể dễ dàng “nhìn thấy” những ụ đất mới đào lớn.
Chụp ảnh độ phân giải cao kết hợp với kỹ thuật cảm biến hồng ngoại đã được cải tiến đầy đủ vào đầu những năm 60 để gây ra mối đe dọa nghiêm trọng.
Nhưng quân Giải phóng đã có cách
Chú ý: Đất lấy ra khỏi hầm phải làm tầng hầm cho nhà ở, làm luống trồng khoai tây, làm bờ hào thông tin, chiến đấu. Nó cũng có thể được đổ ra suối nhưng không bao giờ được chất thành đống. Tóm lại, phải hết sức cẩn thận để che giấu đường hầm dưới lòng đất khỏi bị kẻ thù phát hiện.
Và họ đã làm như vậy.
Những người thợ đào hầm đã cải tiến việc xử lý đất thành một ngành khoa học mới. Khi các cuộc ném bom B-52 của Mỹ lần đầu tiên bắt đầu, quân giải phóng chỉ đơn giản xúc đất vào các miệng hố mới.
Khi các đội tuần tra trên bộ của Hoa Kỳ hoặc quân đội VNCH gặp khó khăn trong việc xử lý, họ đã sử dụng trâu nước đã được huấn luyện để mang đất ra khỏi địa đạo.
MacDonald Valentine, người đã trải qua 19 tháng gắn bó với các tiểu đoàn Biệt động quân Nam Việt Nam và đóng quân tại Củ Chi, được trinh sát người Việt Nam của ông, Phúc Long, cho biết rằng nếu áp lực của kẻ thù khiến họ không còn lựa chọn nào khác, họ sẽ vận chuyển đất ra ngay trước mũi tuần tra quân Mỹ bên trong chiếc sành thông thường của người Việt thường đựng nước mắm.
Chiếc bình có kích thước bằng một bình cà phê, bên dưới lớp nước mắm, những người phụ nữ sẽ giấu một cái ruột đầy đất. Nó gần giống như người ta có thể làm trống một cái hồ chỉ bằng một thìa canh.
Cứ hai mươi hoặc ba mươi mét, thợ đào hầm lại đào một hố thoát nước để chống ngập. Nó rộng 20 cm, sâu 15 cm. Nhưng quan trọng hơn, cứ mỗi trăm mét, ở những vị trí chiến lược trong đường hầm, những bẫy nước đặc biệt lại được đào.
Những hố hôi thối ứ đọng này, lần đầu tiên được phát hiện trong Chiến dịch Crimp, dùng để ngăn chặn khói ăn mòn và thường gây chết người từ bom khói và lựu đạn chống bạo động CS mà người Mỹ ném vào đường hầm nhằm cố gắng làm ô nhiễm chúng.
Trên thực tế, một số thiết bị hiện đại và độc hại nhất do các phòng thí nghiệm chiến tranh hóa học phương Tây sản xuất thường gặp khó khăn bởi sự tương đương với việc uốn cong hình chữ U trong nhà vệ sinh trong đường hầm. Các cửa sập thông thường nối các tầng riêng biệt cũng có tác dụng chặn khói khí rất hiệu quả.
Theo Thiếu tá Quớt, một trong những bí mật quan trọng nhất được giữ kín với người Mỹ trong suốt cuộc chiến là việc xây dựng đường hầm sao cho mỗi phần có thể được phong tỏa. “Người Mỹ nghĩ rằng lực lượng vũ trang của chúng tôi bị giới hạn trong một đường hầm và rằng họ có thể giết tất cả mọi người ở dưới đó bằng cách xả khí hoặc bơm một lượng lớn nước xuống. Nhưng điều này không phải vậy. Điều quan trọng là họ không bao giờ hiểu được điều này.”
Trên thực tế, tuyên bố này là sự thật. Trong những ngày đầu của chiến tranh đường hầm, người Mỹ chắc chắn không biết về những lối thoát bí mật. Nhưng rõ ràng là quân giải phóng bị mắc kẹt không phải lúc nào cũng bị bắt tại các lối vào đường hầm đã bị lính GI tấn công phong tỏa. Lời giải thích khả dĩ duy nhất rõ ràng là sự tồn tại của những lối thoát ẩn giấu mà người Mỹ chỉ tìm thấy nhờ may mắn hoặc sự khéo léo đáng kể.
Mặc dù các đường hầm là nơi trú ẩn tự nhiên chống lại các cuộc tấn công ném bom của Mỹ, nhưng việc bảo vệ đặc biệt hơn nữa trở nên cần thiết khi các cuộc ném bom gia tăng dữ dội. Vì vậy, những người thợ đào hầm đã đào những hầm trú ẩn hình nón chữ A được thiết kế về mặt hình học để chống lại cả đạn pháo và vụ nổ bom.
Quan trọng hơn, hình nón của chúng đóng vai trò như một bộ khuếch đại và phóng đại âm thanh từ xa khi B-52 tấn công. Đây là cảnh báo thực sự duy nhất mà cư dân trong đường hầm có thể nhận được về một cuộc tấn công sắp xảy ra.
Cuối cùng, an ninh thực sự cho hệ thống đường hầm phụ thuộc vào cách sử dụng ngụy trang chính xác và khéo léo.
“Nếu thời gian sử dụng (đường hầm) dài thì nên trồng cây sống được. Thay lá khô trước khi trời tối và xóa mọi dấu vết đáng ngờ trước bình minh. Tạo sự tương phản cho việc ngụy trang bằng cách sử dụng các loại cây cao và thấp. Đừng để lộ một đống đất buồn tẻ và nổi bật. Cây, cành phải hái xa công sự và vị trí đóng quân. Khi cần sửa chữa khẩn cấp không bao giờ nhặt cành lá giữa địch và ta, và đặc biệt không tập hợp số lượng lớn vào một chỗ.
Kinh nghiệm đã cho cán bộ quân giải phóng thấy rằng khi các lực lượng thiện chiến phát hiện ra bất kỳ nơi ẩn náu nào, họ có xu hướng phá hủy nó và di chuyển mà không cần tìm kiếm kỹ lưỡng…..các lối vào đường hầm và kho lưu trữ nằm trong khu dân cư thường được đặt dưới một nơi nấu ăn, và nếu khả thi, hãy đặt ở chuồng heo, chuồng heo sẽ được ưa chuộng hơn vì người Mỹ ngại tìm đến những nơi như vậy. Một trụ ở góc lớn của một tòa nhà hoặc nơi trú ẩn động vật có mái che đôi khi được sử dụng để che lối vào đường hầm hoặc địa điểm cất giữ.
Có một quy tắc chung (mặc dù không phải lúc nào cũng tuân thủ) là những tán lá dùng để ngụy trang phải được thay ba ngày một lần. Người ta thường nỗ lực để sử dụng “những bụi cây nhỏ có nhiều lá” làm vật ngụy trang và nếu có thể, những chồi cây sống sẽ phát triển và giữ nguyên màu xanh.
Những người lính Lực lượng đặc biệt của Mỹ được đào tạo bài bản, Mũ nồi xanh, được huấn luyện đặc biệt để vượt qua ngay cả những hệ thống ngụy trang khéo léo nhất. Họ sống khó khăn, thường ở những khu vực do Quân giải phóng thống trị, và trở nên nổi tiếng về kỹ năng chiến đấu và chiến trường của mình.
Một số được bổ sung vào các đơn vị bộ binh tham gia các hoạt động tìm kiếm và tiêu diệt, và khả năng phát hiện lối vào đường hầm của Mũ nồi xanh là rất đặc biệt. Nhưng không bao giờ có đủ NCO liên lạc của Lực lượng Đặc biệt để đi khắp nơi, và nếu được lựa chọn, họ luôn ưu tiên quay trở lại nhiệm vụ chính của mình càng nhanh càng tốt.
Thiếu tá Quớt giải thích: “Các đường hầm bắt đầu từ một chiến lược hợp lý. Đầu tiên là dành cho cá nhân, sau đó là dành cho gia đình. Mỗi gia đình phải chịu trách nhiệm về đoạn đường hầm của mình. Sau đó, nhiều túp lều khác nhau trong thôn được nối với nhau bằng đường hầm, và chẳng bao lâu sau, chúng tôi bắt đầu xây dựng những đường hầm nối thôn này với thôn khác. Cuối cùng là những đường hầm liên lạc chính, những đường hầm bí mật, những đường hầm giả. Người Mỹ càng cố xua đuổi chúng tôi ra khỏi đất đai của mình thì chúng tôi càng lún sâu vào đó.
Chúng tôi thậm chí còn có biển báo dưới lòng đất để người lạ biết họ đang ở đâu, mặc dù việc hướng dẫn người lạ (lính và cán bộ quân giải phóng ) là trách nhiệm của trưởng ấp địa phương. Nhiệm vụ của anh ta là cung cấp những hướng dẫn viên sẽ đưa người dân từ huyện này sang huyện khác trước khi giao họ cho một hướng dẫn viên khác.”
Khi cường độ chiến tranh ở Việt Nam ngày càng leo thang, huyện Củ Chi và khu vực Tam giác sắt ngày càng trở thành tâm điểm chú ý của những người Mỹ đang thất vọng. Không thể thống trị hoặc bảo vệ những khu vực này, họ phải sử dụng đến một yếu tố trong phương trình quân sự luôn có lợi cho họ – khả năng mang hỏa lực áp đảo xuống đất liền.
Bằng pháo binh và không kích, sử dụng chất nổ mạnh, chất hóa học làm rụng lá và khí CS, quân Mỹ tấn công bề mặt, trong khi bên dưới, toàn bộ tiểu đoàn quân khu vực và quân chính quy của Quân giải phóng kiên nhẫn chờ đợi.
Mặt đất nứt nẻ, rên rỉ và có nơi nhường chỗ. Cảnh quan thay đổi từ rừng rậm sang sa mạc bụi bặm; toàn bộ ngôi làng biến mất và cư dân của họ bị chuyển đi nơi khác.
Nhưng tính nguyên vẹn về mặt vật lý của các đường hầm phải tồn tại đủ lâu để một chính quyền dân sự và quân sự Quân giải phóng trong bóng tối có thể sống trong các đường hầm, tiến hành hoạt động của mình và thách thức gần như mọi nỗ lực buộc nó phải ra ngoài.
Đó là một chiến thắng phi thường của người nguyên thủy trong một thập kỷ chứng kiến con người đi bộ trên mặt trăng.
Đọc những mô tả của các cây viết phương Tây về Địa đạo Củ Chi của chúng ta các bạn thấy thế nào? Rõ ràng là ngay cả những nhà quân sự ở những cường quốc lớn nhất chắc chắn cũng phải kinh ngạc về khả năng của người Việt Nam.
Khi mình còn nhỏ, vì bố mình là người lính Quân đội nhân dân Việt Nam nên mình có được tiếp cận nhiều các bài viết, các sách báo trong lĩnh vực quân sự do bố mình mang từ đơn vị về.
Kiểu mình thì thích đọc, mà ngày xưa thì thiếu thốn phương tiện đọc, nên có cái gì trong nhà là đọc hết. Mình nhớ khi mình đọc một cuốn sách về chiến dịch Điện Biên Phủ, với nhiều chiến thuật và chiến lược phải nói là sáng tạo, có một không hai trên thế giới của quân đội Việt Nam thì mình đã rất là ngạc nhiên. Rất nhiều sự áp dụng các kiến thức về khoa học, công nghệ, kỹ thuật của nhiều lĩnh vực Lý, Hóa, Sinh vào Quốc phòng
Và rõ ràng các cụ nhà ta đánh nhau không phải theo kiểu võ biền, theo kiểu cậy sức to khỏe mà là dựa vào trí tuệ.
Nay tuy châu chấu đấu voi
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra
Chúng ta đã có một sự đoàn kết thành một khối vững bền không gì lay chuyển nổi. Bố mình thậm chí còn nói, miền Nam, thành đồng tổ quốc đã là nơi phải hy sinh nhiều nhất, người dân miền Nam, các bà má miền Nam phải nói là cực kỳ can trường, kiên trung và bất khuất, đến những người đàn ông và là người lính như bố cũng phải ngã mũ thán phục.
Ai đứng như bóng dừa
Tóc dài bay trong gió
Có phải người còn đó
Là con gái của Bến Tre
Năm xưa đi trong đạn lửa
Đi như nước lũ tràn về
Đến thế hệ mình thì sinh ra khi chiến tranh đã đi qua, nên dù là ngày nhỏ đọc bao nhiêu thơ, sách về thời chiến. Xem bao nhiêu phim về thời chiến, xem và khóc rất nhiều: Những Hẹn gặp lại Sài Gòn, Dòng sông hoa trắng, Cánh đồng hoang, Nổi gió, Mùa gió chướng, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm…
Thì minh nghĩ cũng là không đủ để mình hiểu hết về sự tàn khốc, đau thương hay mất mát của những cuộc chiến.
Chỉ những người đã đi qua nó, sống trong nó và trực tiếp chứng kiến tất cả những đớn đau, những chia ly, những nỗi sợ hãi, những sự tức giận, sự phản kháng, những tiếng nổ, những máu và nước mắt…mới thấm đến tận cùng sự phá hủy của hai chữ” Chiến tranh”, cả về thể xác và tinh thần
Và đó cũng là những người phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khi cuộc chiến đi qua. Hay như cách chúng ta gọi là những vấn đề “Hậu chiến”. Hậu chiến, có trăm người vui thì cũng có từng ấy người buồn. Có trăm người hân hoan, thì cũng từng ấy người nuối tiếc
Chỉ có mất mát là như nhau. Chúng ta mất con người, thời gian, mất của cải vật chất, mất nhiều cơ hội…. Chúng ta mất rất nhiều thứ mà lẽ ra chúng ta nên dồn nó cho việc kiến thiết đất nước:
-Tại sao trong quân sự ta giỏi ứng dụng các tri thức khoa học thế mà trong kinh tế xã hội lại không bằng ?
-Tại sao các nhà khoa học và rất nhiều các tầng lớp có thể phát huy đóng góp nhiều như thế trong thời chiến, còn trong thời bình vai trò của họ lại không được thể hiện rõ?
-Tại sao chúng ta giành được vinh quang như thế trong thời chiến mà thời bình thì lại không?
– Phải chăng tài năng của người Việt chỉ giới hạn trong quân sự? Nếu không, thì phải khai mở bằng cách nào, để tất cả mọi nguồn lực đều được sử dụng và sử dụng một cách hiệu quả?
Cựu Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đã từng phát biểu một câu kinh điển cả trăm năm rồi mà vẫn đúng, với bất cứ quốc gia nào “Khi viên đạn xuyên vào một người lính dù thuộc bên nào đi nữa, thực ra nó đã xuyên vào trái tim một người mẹ. Những người thua trận chẳng phải cũng là đồng bào của chúng ta hay sao?”
Và vì vậy trong ngày lễ thống nhất của họ, họ không làm cái gì quá rình rang, to tát cả.
Thay vào đó họ tưởng niệm, và ghi nhớ tất cả những người đã ngã xuống, dù là ở phía bên nào.