1.
Một máy bay thương mại của hãng hàng không Hàn Quốc Jeju Air phát nổ làm 179 người trên tổng số 181 hành khách thiệt mạng, khi hạ cánh xuống sân bay Muan của nước này vào sáng ngày 29.12, là một dấu lặng buồn trong những ngày cuối cùng của năm 2024. Với đất nước Hàn Quốc nói riêng, trong một thế giới đầy rủi ro và bất trắc nói chung.
Nguyên nhân chính xác của thảm họa đang được các nhà chức trách nước này điều tra. Nhưng theo các nguồn tin ban đầu được công bố thì một con chim đã bị kẹt dưới cánh máy bay khiến cho chiếc Boeing 737- 800 không thả được càng và phi công đã phải tiếp đất bằng bụng trong lần hạ cánh thứ hai. Tuy nhiên, phi cơ không thể giảm tốc độ nên đã lao ra khỏi đường băng, đâm vào bức tường bê tông và bốc cháy.
Cho đến nay hàng không vẫn được xem là phương thức di chuyển nhanh và an toàn nhất. Một phân tích thống kê cho thấy xác suất một người bị chết trong một tai nạn hàng không là 1/45.000.000 nghĩa là nếu ngày nào cũng bay thì một người có thể bay an toàn trong suốt 123.000 năm mà không gặp tai nạn.
Tuy nhiên, một sự cố dù là nhỏ đối với máy bay hoặc một sự bất cẩn nào đó ở phía tổ điều hành bay cả ở trên không và dưới mặt đất, hoặc đơn giản như gặp thời tiết xấu, đều có thể gây ra những thảm họa khốc liệt. Đó là lý do giải thích vì sao hành khách khi bước chân lên những con chim bằng sắt này đều phải trải qua một quá trình kiểm tra kỹ lưỡng và các thủ tục phức tạp hơn so với các phương tiện vận tải khác.
Và phi công hay đội ngũ tiếp viên cũng đều phải là những người đủ sức khỏe, kỹ năng và sự nhanh nhẹn cần thiết để đối phó với những tình huống khẩn cấp, khó lường. Khi xưa, thời điểm mà giá vé còn cao và nhiều người chưa tiếp cận được với những chuyến bay thương mại, thì việc được “cưỡi mây” một lần trong đời là một điều gì đó rất là xa xỉ, nói gì đến việc được trở thành phi công hay tiếp viên.
Những người trưởng thành ở thập niên 90 hẳn còn nhớ đến bộ phim truyền hình Nhật Bản “Cố lên, Chiaki” kể về cô tiếp viên của hãng Japan Airlines (JAL). Xem phim nhiều người như mình mới phần nào hiểu được những thử thách, khó khăn mà mỗi nhân viên hàng không phải đối phó. Làm việc trong môi trường đầu chạm đến “trời xanh” và tay với được đến “mây trắng”, mơ mộng và lãng mạn thật đấy nhưng việc liên tục ở trong một vùng không khí loãng đều chứa đựng những yếu tố bào mòn sức khỏe con người.
Không khỏe không thể làm việc được đâu, cho nên Chiaki và các bạn của cô trong học viện hàng không đã phải học đủ thứ, từ bơi lội đến các bộ môn nâng cao thể lực. Chưa hết, do ở môi trường đặc biệt, tít tận trên cao nên nếu có xảy ra bất trắc gì, khủng bố chẳng hạn, gần như chỉ có mình họ xử lý. Các nhân viên và phương tiện ứng cứu chuyên nghiệp, bình thường vẫn rất dễ dàng khi ở dưới mặt đất, thì giờ đây khó mà có thể tiếp cận được.
Hành khách thì đều là đám đông, giữ cho họ ổn định tinh thần và tuân thủ hướng dẫn đã là tốt lắm rồi. Thế nên, ngoài khỏe tiếp viên còn phải học cả giao tiếp, tiếng anh, sơ cứu,…
Và trong nhiều trường hợp sự mưu trí và ứng phó linh hoạt, thông minh của cả đoàn phục vụ bay đã cứu cho chuyến bay cùng hàng trăm con người tránh khỏi những thảm họa khốc liệt. Như vài năm trước một phi công đã khẩn cấp cho hạ cánh xuống sông thay vì trên đường băng khi động cơ máy bay có vấn đề vì đâm phải chim, mình nhớ không nhầm ở Mỹ thì phải.
Tất nhiên, trong nhiều trường hợp, thì dù cố gắng đến mấy con người cũng lực bất tòng tâm. Thảm họa vẫn cứ xảy ra, giống như cuộc sống luôn là như thế, luôn có những điều tốt đẹp và những thứ tồi tệ, bất ngờ và không thể tránh khỏi.
Nên dù gan dạ đến thế nào thì cũng phải thừa nhận rằng, chỉ khi nào bước xuống hẳn mặt đất thì mỗi người khách mới cảm thấy thở phào nhẹ nhõm, dù là chuyến bay ngắn chỉ vài chục phút hay là dài đến cả nửa vòng Trái đất.
Trước đó chỉ ít ngày, một chiếc máy bay đã bị rơi trên địa phận Azerbaijan, khiến 38 người tử vong.
Với gia đình của các nạn nhân của những vụ tai nạn thảm khốc trên, có lẽ mùa đông này là một mùa đông ảm đạm, buồn bã, và dài hơn bất cứ mùa đông nào trong cuộc đời họ.
2.
Ngọn lửa Prometheus đã giúp con người sống sót và bảo vệ được bản thân mình trước những hiểm họa rình rập từ các loài khác. Ngọn lửa nấu chín thức ăn, ngọn lửa sưởi ấm con người trước cái giá lạnh.
Ai mà không rung động trước “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm. Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” của người bà tần tảo, trong hàng triệu người bà thương quý ở muôn nẻo vùng quê nước Việt.
Nhà thơ Bằng Việt lớn lên với tràn đầy sự chăm sóc, yêu thương của bà để rồi khi đi xa ông luôn mang trong tim mình hình ảnh của bà. Người bà bên chiếc bếp lửa quen thuộc, nhưng bản thân bà cũng chính là ngọn lửa thắp sáng trái tim người cháu “Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn, Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Ai mà không cảm thấy thổn thức với những khát khao bên ngọn lửa thiêng cao nguyên “Một ngọn lửa hồng còn bên ta; Một ngọn lửa hồng sáng rừng già; Một ngọn lửa hồng bồi hồi cháy mãi”.
Nhạc sĩ Trần Tiến là một gã du ca đúng nghĩa, ngôn từ âm nhạc của ông hoang dã như một ngọn lửa hừng hực nhưng cực lãng mạn.
Còn đàn chim Chơ-rao bay qua bay qua giữa bầu trời
Còn dòng sông Ayun Pa trôi qua trôi qua dưới mặt trời
Còn yêu em anh còn thương em mãi người hỡi
Hẳn là vào một đêm tối nào đó, trên vùng đất cao nguyên ngập tràn nắng gió, ở một buôn làng với những chiếc nhà sàn to lớn có những đỉnh chóp vút thẳng lên bầu trời sao, ông đã được dự một cuộc lửa trại đầy mê hoặc, chỉ có thể được tìm thấy ở đây. Bên ngọn lửa rừng rực như những bó đuốc ấy, người ta cảm thấy nóng lên, hay nói theo ngôn ngữ mà các anh chàng chủ trò hay bắt các đại biểu hoa chân mua tay một chút, trước khi các cuộc hội thảo bắt đầu để “warm up”.
Sức nóng tỏa ra từ ngọn lửa, từ những ché rượu cần nồng say, từ những điệu múa quyến rũ như ảo ảnh dưới ánh sáng màu đồng của những chàng trai cô gái dân tộc với cơ thể cũng như được đúc bằng đồng, từ những âm thanh cồng chiêng âm vang dội vào những vách núi hùng vĩ, có lẽ khiến nhạc sĩ không thể không bật lên những giai điệu muốn “đốt cháy” trái tim:
Cháy lên ơi lửa thiêng
Cháy mãi cho bóng em hiện ra
Giữa ngọn lửa em trao bầu rượu
Em trao lời nói nhớ mãi nhớ
Lời nói lửa cháy rượu đắng ngày nào
Đó là những ngọn lửa của những thứ đẹp đẽ, làm say đắm lòng người.
Nhưng lửa cháy còn có thể thấy trong những thứ tồi tệ: Một chiếc máy bay nổ tung, một ngôi nhà bốc cháy, một ngôi làng bị thiêu rụi…tất cả đều có thể thấy ánh lửa và khói bụi và chết chóc.
Trong những bức ảnh được hãng thông tấn CNN lựa chọn là những khung hình tiêu biểu của năm 2024 (The year 2024 in picture) ta có thể thấy rất nhiều trong số đó hiển hiện những ngọn lửa: Dung nham phun trào của một ngọn núi lửa ở Indonexia; một nhóm người Mexico di cư bất hợp xua tan giá lạnh bên ngọn lửa ở vùng biên giới Mexico-Mỹ; Lính cứu hỏa dập lửa tại sàn giao dịch chứng khoán cũ của Copenhagen, một trong những địa danh nổi tiếng nhất thủ đô Đan Mạch; một người đàn ông chứng kiến ngôi nhà bị cháy trong trận hỏa hoạn lớn thiêu rụi một thị trấn tồi tàn ven biển ở thủ đô Manila Philippines…
Nhưng có lẽ không có ngọn lửa nào kinh hoàng và gây ám ảnh hơn là ngọn lửa chiến tranh!
Chiến tranh và bạo động xảy ra rải rác khắp nơi vẫn là những tin tức đáng chú ý nhất xét toàn cảnh thế giới năm qua, như thể nó hiển nhiên ở đó và luôn luôn vẫn sẽ ở đó chừng nào loài người còn tồn tại.
Nên không ngạc nhiên khi 2/4 tiêu điểm trong “2024 The year in picture” là những bức ảnh phản ánh hai khu vực chiến sự khốc liệt nhất hiện giờ: Trung Đông và Ukraine.
Thử xem chương trình tin tức hàng ngày nào mà không có những thông tin về chiến sự Trung Đông, trong suốt mấy chục năm qua ?
Vậy có lúc nào đó chúng ta tự hỏi vậy chiến tranh bắt đầu từ đâu và từ khi nào ?
Nguồn gốc của chiến tranh
By Gwynne Dyer
(1)
Người lính là một trong những phát minh đầu tiên của nền văn minh, và anh ta đã thay đổi rất ít trong khoảng mười nghìn năm kể từ khi quân đội tồn tại. Những tình nguyện viên trẻ tuổi người Iran tình cờ băng qua các bãi mìn phía đông Basra năm 1984 hay các tiểu đoàn Anh thất bại khi vượt lên phía trên trong Cuộc đua tháng 7 trên sông Somme năm 1916 đều tham gia vào hành động hy sinh và tàn sát tương tự đã tiêu diệt những chiến binh trẻ của Rome tại Cannae vào năm 216 trước Công nguyên: cảm xúc, khả năng xảy ra và kết quả về cơ bản là giống nhau.
Trận chiến, hành động trung tâm của chiến tranh, là một sự kiện duy nhất trong đó những người bình thường sẵn sàng giết và chết như thể những hành động khác thường đó là bình thường và có thể chấp nhận được, và việc thay đổi vũ khí cũng như chiến thuật không làm thay đổi những yếu tố thiết yếu đó trong đặc điểm của nó.
Tuy nhiên, hậu quả của chiến tranh có thể và thực sự thay đổi. Ở thời đại chúng ta, những hậu quả có thể xảy ra của chiến tranh đã gia tăng mạnh mẽ và không thể đảo ngược, đến mức chúng có khả năng bao gồm sự tàn phá toàn bộ môi trường sống của con người: chiến tranh và nền văn minh, vốn được sinh ra như cặp song sinh không thể tách rời, cũng có thể kết thúc cùng nhau.
Nhưng sự thay đổi mạnh mẽ về quy mô chiến tranh trong thời đại chúng ta là do việc áp dụng khoa học, công nghiệp và kỹ năng tổ chức hiện đại vào một thể chế cổ xưa vẫn tuân theo các quy tắc cổ xưa của nó.
Hơn nữa, chiến tranh luôn có xu hướng bẩm sinh là mở rộng đến giới hạn tuyệt đối về nguồn lực sẵn có của các xã hội tiến hành chiến tranh, và đôi khi vượt xa khả năng chấp nhận hình phạt của nó.
Sức mạnh là lý lẽ tối thượng, và một khi nó đã được viện dẫn, câu trả lời hiệu quả duy nhất là sức mạnh vượt trội; logic nội tại của chiến tranh thường khiến nó phát triển về quy mô lớn hơn nhiều so với tầm quan trọng của vấn đề tranh chấp ban đầu có thể biện minh. Thế chiến thứ nhất là một ví dụ nổi bật; chiến tranh thế giới thứ ba sẽ còn thuyết phục hơn nữa, khi mà chẳng còn ai để thuyết phục nữa.
Tuy nhiên, những người lính hiện đại không hành xử tàn nhẫn hơn tổ tiên của họ. Cư dân Dresden và Hiroshima năm 1945 chịu số phận không tệ hơn công dân Babylon năm 680 trước Công nguyên, khi thành phố rơi vào tay Sennacherib của Assyriam, người đã khoe khoang: “Ta đã san bằng thành phố và nhà cửa từ nền móng đến đỉnh, ta đã phá hủy chúng và đốt chúng bằng lửa, ta phá bỏ và dỡ bỏ các bức tường bên ngoài và bên trong, các ngôi đền và các tháp ziggurat được xây bằng gạch, rồi đổ đống đổ nát xuống kênh Arahtu. Và sau khi ta đã tiêu diệt Babylon, đập nát các vị thần của nó và tàn sát dân cư của nó, ta đã xé đất của nó và ném nó xuống sông Euphrates để nó bị dòng sông cuốn trôi ra biển. “
Đó là một phương pháp hủy diệt tốn nhiều công sức hơn so với vũ khí hạt nhân, nhưng hiệu quả (ít nhất là đối với một thành phố riêng lẻ) là như nhau.
Hầu hết các thành phố lớn thời cổ đại sớm hay muộn cũng đã gặp số phận tương tự như Babylon – một số trong số đó đã nhiều lần, qua nhiều thế kỷ – khi vận mệnh chiến tranh cuối cùng khiến họ phải đối mặt với kẻ thù. Sự khác biệt giữa sự hủy diệt của các chỉ huy quân sự thời cổ đại trong chiến tranh được xác định chủ yếu bởi công nghệ và tài nguyên tương ứng của họ chứ không phải bởi tâm lý khác.
Và “tâm lý quân sự” đó, bất chấp chủ nghĩa lý tưởng và tình cảm mà nó thường theo đuổi để làm dịu đi thực tế của thương mại, luôn có một nhận thức lạnh lùng và kiên định ở cấp độ chuyên nghiệp rằng chìa khóa thành công của quân sự là giết chóc hiệu quả.
Ngày nay, bom chùm hoặc tên lửa tầm nhiệt tốt hơn, nhưng việc tìm kiếm tính hiệu quả vẫn như cũ khi phương tiện duy nhất để đưa những mảnh kim loại gây chết người vào cơ thể kẻ thù là bằng sức mạnh cơ bắp. Ví dụ, sau đây là hướng dẫn sử dụng kiếm trong sổ tay huấn luyện quân đội La Mã:
“ Một nhát chém hiếm khi giết chết, dù được tung ra mạnh mẽ đến đâu, bởi vì những điểm quan trọng được bảo vệ bởi vũ khí của kẻ thù và cả xương của hắn. Tuy nhiên, một lực đẩy trong khoảng cách 2 inch có thể gây tử vong. Bạn phải thâm nhập vào các điểm quan trọng để giết một người. Hơn nữa, khi chém, cánh tay phải và bên hông để lộ ra ngoài. Tuy nhiên, khi đâm, cơ thể bị bao phủ và kẻ thù bị thương trước khi kịp nhận ra chuyện gì đã xảy ra. Vì vậy phương pháp chiến đấu này được người La Mã đặc biệt ưa chuộng.”
Nhưng nếu sự sẵn sàng giết chóc của binh lính và xu hướng chiến tranh trở nên tàn khốc như công nghệ và tài nguyên hiện có cho phép đều tương đối ổn định trong suốt lịch sử loài người, thì chúng ta phải xem xét một khả năng không mong muốn: rằng chiến tranh là điều không thể tránh khỏi của bất kỳ nền văn minh nhân loại nào, và một nền văn hóa công nghệ tiên tiến như của chúng ta sớm muộn gì cũng sẽ tham gia vào một cuộc chiến trong đó tất cả công nghệ và tài nguyên sẵn có đều được dồn vào nhiệm vụ hủy diệt.
Có rất nhiều bằng chứng ủng hộ niềm tin này, nhưng cũng có một thực tế cơ bản quan trọng mang lại hy vọng nào đó. Chiến tranh là một phần lịch sử của chúng ta, nhưng nó hoàn toàn không phải là một phần lịch sử của chúng ta theo cùng một nghĩa.
Đó là một trong những đổi mới xảy ra từ chín đến mười một nghìn năm trước, khi các xã hội văn minh đầu tiên hình thành. Những gì đã được phát minh có thể được thay đổi; chiến tranh không có trong gen của chúng ta.
“Xã hội Walbiri không nhấn mạnh đến chủ nghĩa quân phiệt – không có tầng lớp chiến binh thường trực hay chuyên nghiệp; không có hệ thống chỉ huy quân sự; và các nhóm hiếm khi tham gia vào các cuộc chiến tranh chinh phục…. Trong mọi trường hợp, có rất ít lý do cho một cuộc chiến tranh tổng lực giữa các cộng đồng. Chế độ nô lệ chưa được biết đến; hàng có thể mang theo rất ít; và lãnh thổ bị chiếm giữ trong một trận chiến gần như là một nỗi bối rối đối với những người chiến thắng, những người có mối quan hệ tinh thần với các địa phương khác”.
Chỉ cách đây một thế hệ, thổ dân Walbiri ở Úc vẫn sống thành từng nhóm nhỏ trong nền kinh tế săn bắn và hái lượm, giống như toàn bộ loài người đã sống trong ít nhất 98% lịch sử của mình, và mặc dù mọi nam giới Walbiri đều là một chiến binh, nhưng cách chiến đấu của họ không giống với cái mà chúng ta gọi là “chiến tranh”.
Rất ít người bị giết; không có người lãnh đạo, không có chiến lược và không có chiến thuật; và chỉ nhóm họ hàng bị ảnh hưởng bởi vấn đề đang bị đe dọa – thường là để trả thù cho một vụ giết người hoặc một hành vi vi phạm nghi lễ do một nhóm khác thực hiện và hiếm khi chiếm lãnh thổ – mới tham gia vào cuộc chiến.
Chúng ta không thể kiểm tra trực tiếp các xã hội nguyên thủy nơi các nền văn minh đầu tiên xuất hiện (vì chúng đã biến mất trong quá trình này), nhưng hàng trăm xã hội thời đồ đá cũ đã tồn tại trong quá khứ hoặc hiện tại gần đây ở Tây bán cầu và Châu Đại Dương, ở hầu hết các khu vực trong đó “ nền văn minh” đã đến với người châu Âu trong vài trăm năm qua.
Không có lý do gì để tin rằng những tấm gương hiện đại về văn hóa săn bắn và hái lượm này khác biệt đáng kể so với những người khác từng sinh sống ở Trung Đông cách đây mười hay mười lăm nghìn năm, và hầu như tất cả họ đều có cùng thái độ đối với “chiến tranh”: đó là một nghi lễ quan trọng, một trò chơi thú vị và nguy hiểm, và thậm chí có thể là một cơ hội để thể hiện bản thân, nhưng đó không phải là sự tàn sát.
Không có gì ngạc nhiên khi một chủng tộc sống chủ yếu bằng săn bắn và biết các kỹ thuật giết động vật hiệu quả lại có những kỹ thuật tương tự để giết các thành viên của chính mình. Vì xung đột là không thể tránh khỏi nên cũng không có gì ngạc nhiên khi con người đôi khi giết người.
Một số nhà đạo đức cho rằng đây là tội lỗi nguyên thủy của loài người, chỉ ra rằng rất ít loài cao cấp khác cố tình giết chết các thành viên của mình, nhưng lý do cho sự khác biệt tương đối của chúng ta trong lĩnh vực này dường như chỉ đơn giản là con người là kẻ tiến hóa muộn hơn trong việc giết chóc, xuất phát từ một hàng dài những người không ăn thịt.
Điều đó có nghĩa là những loại vũ khí mà tổ tiên chúng ta đã học cách sử dụng để săn bắn trong vài triệu năm qua không đi kèm với những lệnh cấm sử dụng chúng đối với đồng loại của chúng ta mà những kẻ săn mồi di truyền thường có. Không còn nghi ngờ gì nữa, sự thiếu sót này có thể chứng tỏ là khiếm khuyết chết người trong bản chất con người, nhưng điểm quan trọng về các xã hội tiền văn minh là con người không giết người nhiều.
Xu hướng chủ đạo trong lịch sử (và thời tiền sử) của văn hóa nhân loại là việc tạo ra các nhóm ngày càng lớn hơn, trong đó mỗi thành viên được xác định là “một trong chúng ta”: một người bà con, một người cùng bộ lạc, một công dân.
Mười nghìn năm trước, chân trời xã hội của con người trung bình là từ năm mươi đến hai trăm thành viên trong nhóm săn bắn hái lượm của chính họ, tất cả đều biết nhau; ngày nay trên thế giới có mười quốc gia với hơn một trăm triệu người được coi là “một trong chúng ta”.
Lợi ích của việc sống trong những xã hội nơi có nhiều người có thể hợp tác với nhau theo vô số cách và đóng góp mọi thành tựu cá nhân và tập thể của họ cho một nguồn của cải và kiến thức ngày càng tăng là điều không thể bàn cãi; chúng ta có được hầu hết mọi thứ có giá trị nhờ vào di sản tích lũy này. Nhưng cũng có mặt tối của việc sống theo nhóm lớn.
Trong mỗi nhóm, điều đó có nghĩa là tạo ra các biện pháp kiểm soát khách quan và thường khắc nghiệt để thực thi sự hợp tác và giữ hòa bình xã hội. Hầu hết các xã hội quy mô lớn trong lịch sử (và hiện tại) ở mức độ ít nhiều đều là những chế độ chuyên chế.
Và khi các xã hội chúng ta đang sống ngày càng phát triển thì những xung đột giữa chúng cũng tăng theo; thực sự chúng đã thay đổi hoàn toàn và đã trở thành hiện tượng hay chiến tranh hiện đại.
Điểm cuối hợp lý của việc sống trong các nhóm lớn hơn bao giờ hết là sự phát triển của một xã hội thế giới thống nhất về mặt chính trị, trong đó mỗi con người được coi là “một trong chúng ta”, nhưng là giai đoạn áp chót mà chúng ta đang sống, với thế giới được chia thành khoảng ba chục các quốc gia hùng mạnh và hơn một trăm quốc gia thịnh vượng, có lẽ là giai đoạn bạo lực nhất và chắc chắn là nguy hiểm nhất trong lịch sử loài người.
Lúc đầu, có rất ít bạo lực chống lại các cá nhân và không gây nguy hiểm cho nhân loại. Tất cả loài người sống thành từng nhóm nhỏ kiếm sống bằng săn bắn và hái lượm, mỗi nhóm di chuyển trong một lãnh thổ tương đối rộng lớn và ít liên lạc với bất kỳ nhóm nào khác.
Ví dụ, dân số Bushman ở Nam Phi trước khi người da đen và da trắng đến được ước tính là khoảng mười hoặc hai mươi nghìn người sống thành một hoặc hai trăm nhóm, chiếm một lãnh thổ rộng khoảng 350.000 dặm vuông – khoảng hai hoặc ba nghìn dặm vuông mỗi dải.
Trong mỗi nhóm Bushman, bao gồm khoảng hơn chục gia đình có quan hệ họ hàng với nhau, không có trung tâm quyền lực và rất ít sự chuyên môn hóa về vai trò ngoài thực tế là đàn ông đi săn và phụ nữ thu thập thức ăn từ thực vật và chăm sóc trẻ em.
Có một số hợp tác giữa những người thợ săn trong các dự án lớn hơn, như xây hàng rào để bẫy thú, nhưng mỗi gia đình chủ yếu phụ thuộc vào nỗ lực kiếm thức ăn của chính mình. Sự biệt lập tột cùng của mỗi nhóm được thể hiện qua sự đa dạng lớn trong các ngôn ngữ Bushman; trong một số trường hợp, ngay cả các nhóm lân cận cũng không thể hiểu nhau.
Vì mọi gia đình về cơ bản đều có quyền tự trị nên có rất ít nguyên nhân gây ra xung đột bạo lực giữa các thành viên trong cùng một nhóm. Mỗi nhóm đều có ý thức mạnh mẽ về lãnh thổ của mình và phản ứng mạnh mẽ trước những hành vi xâm phạm ranh giới của mình, nhưng thực tế là vũ khí chính của Bushman là mũi tên tẩm độc, tác dụng chậm nhưng chắc chắn gây tử vong, khiến họ phải kiềm chế rất nhiều ngay cả khi đụng độ giữa các nhóm khác nhau.
“Trong các nhóm Bushman cho đến ngày nay, mọi thứ có thể đều được thực hiện để xoa dịu các tình huống có thể dẫn đến xung đột giữa các cá nhân mà cuối cùng có thể phải dùng mũi tên tẩm độc. Nếu đến giai đoạn này, cả hai kẻ hiếu chiến đều có khả năng chết trong đau đớn kéo dài… Trong mối quan hệ của họ với các nhóm khác….mũi tên tẩm độc tương đương với một biện pháp răn đe hạt nhân thời kỳ đồ đá…..Tác động chậm chạp của chất độc đã khiến kẻ thù bị ảnh hưởng rất nhiều thời gian để trả thù cho những đau khổ đang chờ đợi anh ta”.
Có một số bạo lực, nhưng không có cái gọi là chiến tranh trong thế giới của người Bushman trước khi những nền văn hóa phức tạp hơn đến Nam Phi, và điều tương tự cũng đúng với những người săn bắn hái lượm khác sống trong những xã hội về cơ bản chỉ giới hạn trong một nhóm duy nhất. Họ hiếm khi có khả năng tưởng tượng ra một mức độ phối hợp có thể giúp chinh phục nhóm của họ và giữ lãnh thổ của nó, và thực sự cũng không có ích gì nhiều.
Các nhóm khác có ít tài sản vật chất đáng để chiếm giữ, nô lệ thực tế có giá trị trong loại nền kinh tế tự cung tự cấp đó (nơi họ có thể làm gì nhiều hơn ngoài việc nuôi sống bản thân), và lãnh thổ bổ sung nói chung chỉ được sử dụng ở mức độ nhỏ đối với những thợ săn di cư.
Nhưng chắc hẳn đã có đủ áp lực dân số lên nguồn lương thực, đây đó trong quá khứ xa xưa, để đẩy một số nhóm săn bắt hái lượm vào xung đột nghiêm trọng, vì ngay cả sự gia tăng quy mô đầu tiên của các nhóm người gần như chắc chắn là do những cân nhắc về quân sự thúc đẩy.
Không có cách nào chúng ta có thể biết khi nào các nhóm đầu tiên liên kết với nhau thành các bộ lạc bao gồm hàng nghìn cá nhân, vì nó không liên quan đến sự thay đổi cơ sở kinh tế của xã hội mà lẽ ra sẽ để lại bằng chứng vật chất.
Nó phải xảy ra cách đây ít nhất là mười nghìn năm, vì bộ lạc là bước trung gian cần thiết giữa nhóm đi săn nhỏ bé và các quốc gia văn minh đầu tiên, nhưng ở một số khu vực, nó có thể là cách đây năm mươi nghìn năm hoặc hơn.
Bản chất của sự thay đổi là các nhóm săn bắn khác nhau đã tạo ra một bản sắc chung rộng hơn, chủ yếu bằng cách thiết lập các mối quan hệ họ hàng phức tạp với nhau (không nhất thiết phải có bất kỳ người đứng đầu hoặc cơ quan trung ương nào), nhằm tăng sức mạnh chiến đấu của họ.
Và hậu quả là những người thợ săn tự xác định lại mình là những chiến binh, những người có niềm tự hào và lòng tự trọng chính đến từ khả năng giết người không phải động vật mà là những người khác.
Nhiều xã hội bộ lạc hiện đại sở hữu những đàn động vật hoặc thực hành nền nông nghiệp nguyên thủy, điều này mang lại cho họ một số động lực vật chất để tấn công lẫn nhau, nhưng tất cả các bộ lạc đầu tiên vẫn là những người săn bắn hái lượm, vì vậy nguồn xung đột nghiêm trọng duy nhất có thể xảy ra giữa họ là vì những bãi săn khan hiếm.
Điều này có lẽ không xảy ra thường xuyên, nhưng một khi hình thức tổ chức xã hội mới đã được tạo ra, nó có xu hướng tồn tại dai dẳng. Đặc điểm nổi bật nhất của nó là sự thống trị của tầng lớp chiến binh – và sự phi chính trị hóa phụ nữ.
Trong nhóm săn bắn nhỏ truyền thống, nơi cả nam và nữ đều cung cấp lương thực và trung tâm quyền lực là từng gia đình, quyền lực chính trị thực tế của phụ nữ có lẽ không kém nhiều so với nam giới.
Nhưng trong các xã hội bộ lạc mới, nơi mà quân đội được coi trọng nhất và các chiến binh đưa ra những quyết định quan trọng theo tập thể, phụ nữ tự động bị loại khỏi quyền lực, vì nam giới có thể là chiến binh, còn phụ nữ – ít nhất là vào thời điểm đó – thì không.
“Bởi vì đàn ông đã tham gia chiến tranh nên chính họ là người tái khẳng định quyền quyết định giữa chiến tranh và hòa bình. Những quyết định như vậy đòi hỏi quyền lực chính trị cao. Theo một nghĩa nào đó, đàn ông trở nên ưu việt về mặt chính trị vì họ vượt trội về mặt quân sự. Và họ trở nên vượt trội về mặt quân sự bởi vì… nền văn hóa họ hàng nguyên thủy… đã trao cho người phối ngẫu cây gậy hoặc ngọn giáo với sức ném cơ bắp lớn hơn…Đàn ông ở trên phụ nữ trong chính trị vì đàn ông là chiến binh chứ không phải vì đàn ông trong một số xã hội là trụ cột gia đình.”
-Ali A. Mazrui
Tất cả đều có vẻ hoàn toàn hợp lý, và chắc chắn đã có những trường hợp trong quá khứ khi các nhóm nhỏ thực sự bị thúc đẩy để hợp nhất thành các xã hội bộ lạc lớn hơn do đạo đức chiến binh thống trị thông qua nhu cầu kinh tế và quân sự rõ ràng. (Nếu không, tại sao họ lại bận tâm?).
Tuy nhiên, người ta vẫn âm thầm nghi ngờ rằng đây chủ yếu là một trò lừa đảo thời tiền sử rộng lớn, vì thực tế là hầu hết thời gian vẫn không có nhiều thứ để chiến đấu cho đại đa số các xã hội bộ lạc sống trong nền kinh tế săn bắn và hái lượm.
Trong số hàng trăm xã hội thuộc loại này gặp phải trong giai đoạn lớn của sự bành trướng hàng hải của châu Âu vào thế giới Thời kỳ đồ đá ở Tây bán cầu, Châu Đại Dương và một phần châu Phi, hiếm có một ví dụ nào được ghi lại về một bộ lạc bị nhốt vào một cuộc đấu tranh sinh tử với các nước láng giềng vì áp lực dân số và sự khan hiếm kinh tế.
Hầu như tất cả họ đều liên tục tham gia vào các cuộc chiến tranh cấp thấp chống lại các nước láng giềng trong thời gian rảnh rỗi, nhưng không ai nghĩ rằng “chiến thắng” là đủ quan trọng để phải suy nghĩ nhiều về việc tổ chức chiến tranh một cách hiệu quả; đúng hơn, nó đưa ra lời biện minh cho thực tế là các chiến binh đã điều hành mọi thứ và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ.
Kiểu chiến tranh giữa các bộ tộc này hầu như luôn rất hạn chế và bị ràng buộc bởi nghi lễ. “Trận chiến” thường được sắp xếp trước, nhưng một khi bắt đầu, chúng không khác gì tổng các hành động cá nhân của nhiều chiến binh tự mình hành động mà không có sự chỉ đạo hay phối hợp. Cuộc giao tranh thường dừng lại một ngày sau khi một bên đã chết, bên thua thương tiếc về sự mất mát của họ và bên kia ăn mừng chiến thắng trước mặt nhau.
Thường có những bước có chủ ý được thực hiện để đảm bảo rằng việc giết người không quá hiệu quả. Ví dụ, có một bộ lạc ở New Guinea nhận thức rõ rằng những mũi tên có đường bay chính xác hơn và luôn gắn lông vũ vào những mũi tên đi săn của họ – nhưng lại loại bỏ chúng khỏi những mũi tên chiến tranh.
Tương tự như vậy, người da đỏ Piegan và Shoshoni, những người đã tham gia vào các trận chiến quy mô lớn bằng cách đi bộ trước khi sử dụng ngựa lan sang các vùng đồng bằng của Mỹ, thường xếp thành các hàng đối diện nhau chỉ trong tầm bắn của mũi tên và bắn vào đối thủ của họ trong khi ẩn nấp đằng sau những tấm khiên có đường kính ba feet.
Mặc dù họ cũng có nhiều vũ khí sát thương hơn – giáo và rìu chiến – nhưng họ không bao giờ tiếp cận việc sử dụng chúng trừ khi họ có ưu thế áp đảo về số lượng.
Không có con số nào về số người mà loại chiến tranh này đã giết chết, mặc dù trong suốt hàng nghìn năm không dấu vết của thời tiền sử của chúng ta, con số này phải lên tới hàng chục triệu.
Đối với người Eskimo, thời tiền sử của họ kết thúc vào thế kỷ này, nó hầu như không giết chết ai, nhưng trong những nền văn hóa hiếu chiến hơn, nó có thể là nguyên nhân cuối cùng gây ra cái chết cho một tỷ lệ khá lớn đàn ông trưởng thành.
Nhưng vẫn có một điểm khác biệt quan trọng: chiến tranh nguyên thủy không gây chết người, thậm chí không có sức tàn phá lớn đối với những xã hội đam mê nó. Các cá nhân bị giết, mỗi lần một số ít – chủ yếu là nam thanh niên, cả về mặt sinh học và kinh tế, là những thành viên không thể thiếu nhất trong bộ tộc – nhưng xã hội vẫn tồn tại nguyên vẹn.
Ngay cả những người hiếu chiến nhất trong thời kỳ đồ đá cũ, như người da đỏ ở Bắc Mỹ, coi chiến tranh là một hoạt động nghi lễ – một phần là nghệ thuật, một phần là bài tập thể dục ngoài trời lành mạnh – hơn là một công cụ thực tế để đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị, và do đó nó chưa bao giờ trở thành đối tượng cho sự khéo léo của con người tìm cách làm cho nó hiệu quả hơn.
Nhà nhân chủng học Ruth Benedict viết vào năm 1959: “Ý tưởng chinh phục chưa bao giờ nảy sinh ở thổ dân Bắc Mỹ, và điều này khiến hầu hết các bộ lạc da đỏ này có thể làm một điều rất cực đoan: tách chiến tranh ra khỏi nhà nước”; đó là điều bình thường và tự nhiên ở các dân tộc nguyên thủy.
“Nhà nước được nhân cách hóa thành Tù trưởng hòa bình…nhưng ông ta không liên quan gì đến chiến tranh…Bất kỳ người nào có thể thu hút được người theo đều lãnh đạo một nhóm chiến tranh khi nào và ở đâu có thể, và ở một số bộ lạc, ông ấy có toàn quyền kiểm soát trong suốt thời gian của chuyến thám hiểm.
Nhưng điều này chỉ kéo dài cho đến khi nhóm chiến tranh trở lại. Nhà nước… không có mối quan tâm nào có thể hình dung được đối với những dự án mạo hiểm này, vốn chỉ là những minh chứng rất đáng mong đợi của chủ nghĩa cá nhân thô bạo.”
Trên thực tế, vinh dự cao nhất mà một chiến binh có thể đạt được đối với người da đỏ ở Great Plains không phải là giết kẻ thù mà là “đảo chính” – tiếp cận kẻ thù mà không có vũ khí và chạm vào kẻ thù bằng gậy hoặc tay. Mục đích của chiến tranh giữa các bộ tộc là tạo cơ hội cho các chiến binh thể hiện lòng dũng cảm của mình.
Chiến binh Comanche nổi tiếng và được kính trọng nhất trong thời đại của ông là một người đàn ông đã mua được một chiếc chăn do người Utes, kẻ thù trong bộ tộc của ông, làm ra và dùng nó để bước vào giữa họ mà không có vũ khí.
“Sau khi trời tối, anh ta kéo chăn qua đầu và đi vào trại Ute. Từ trong một túp lều, anh nghe thấy tiếng hát. Được bảo vệ bởi sự cải trang của mình, anh bước thẳng qua cửa để tham gia cùng khán giả. Không ai chú ý đến anh ta. Di chuyển một cách ngẫu nhiên và chậm rãi, anh chạm vào từng người Ute trong túp lều. Khi đã chạm vào tất cả, anh bước ra ngoài và quay lại với bạn mình. Anh ta đã tính toán một cuộc đảo chính vào hai mươi kẻ thù. Đó là một hành động tuyệt vời.”
Mặc dù chiến tranh tiền văn minh phục vụ nhiều mục đích nghi lễ và ma thuật khác nhau và có thể có chức năng xã hội rộng lớn hơn, nhưng nó chủ yếu là một môn thể thao thô bạo dành cho nam giới cho những thợ săn thiếu việc làm, với các loại quy tắc hạn chế thiệt hại mà tất cả các môn thể thao cạnh tranh đều có.
Điều này được chứng minh bởi thực tế là chiến tranh có xu hướng lan rộng hơn và có sức tàn phá lớn hơn đối với những thổ dân tinh vi hơn, những người đã chuyển sang nền nông nghiệp hoặc chăn nuôi nguyên thủy; các chiến binh thậm chí còn có nhiều thời gian rảnh hơn và họ bắt đầu có được lợi ích vật chất để bảo vệ.
Quincy Wright, người đã nghiên cứu dữ liệu từ 633 nền văn hóa nguyên thủy, đã kết luận rằng “những người thu thập, thợ săn cấp thấp và nhà nông học Jower là những người ít hiếu chiến nhất. Những thợ săn bậc cao và những nhà nông nghiệp bậc cao thì hiếu chiến hơn, trong khi những người nông dân bậc cao nhất và [các dân tộc mục vụ] lại hiếu chiến nhất”.
Có vẻ như chúng ta đang dần dần chuẩn bị cho một loại chiến tranh mà nền văn minh sẽ mang lại, và có lẽ chúng ta đã như vậy. Nhưng hố sâu ngăn cách giữa xã hội nguyên thủy và xã hội văn minh cũng rất lớn trong chiến tranh cũng như ở các khía cạnh khác.
Bản chất của cuộc cách mạng thời kỳ đồ đá mới không phải là sự khám phá, giữa những năm 9000 và 7000 trước Công nguyên ở nhiều vùng khác nhau của Lưỡi liềm Phì nhiêu, người ta có thể kiếm được thực phẩm một cách chắc chắn hơn và dồi dào hơn nhiều bằng cách trồng và thu hoạch cây trồng cũng như thuần hóa và chăn nuôi động vật, thậm chí cả việc sự gia tăng lớn về mật độ dân số mà những khám phá này có thể thực hiện được.
Đó là sự hiểu biết sâu sắc rằng ý chí và tổ chức của con người có thể thực hiện quyền kiểm soát thế giới tự nhiên – và đối với số lượng lớn con người.
“Phát huy quyền lực dưới mọi hình thức là bản chất của nền văn minh; thành phố đã tìm ra nhiều cách để thể hiện sự đấu tranh, xâm lược, thống trị, chinh phục – và nô lệ,” Lewis Mumford viết về những nền văn minh đầu tiên của nhân loại. Cội rễ của nền văn minh nhân loại nằm ở những quốc gia chuyên chế và tàn ác đến mức ngay cả những trại tử thần của Đức Quốc xã cũng bị coi là một điều bình thường về mặt đạo đức. Nền văn minh, trước hết, là việc khám phá ra cách đạt được quyền lực đối với cả thiên nhiên và con người, và không thể phủ nhận rằng nó đã đi vào đầu chúng ta: một mặt là kim tự tháp và kênh tưới tiêu; mặt khác, các cuộc chiến tranh hủy diệt.”
Điều đó không có nghĩa là nền văn minh là một điều xấu hoặc nó nhất thiết phải tự hủy diệt. Chính nền văn minh đã mang lại thí nghiệm của con người ý nghĩa của nó và có thể vượt qua được quá trình nuôi dạy sớm không may mắn. Dù sao thì có lẽ cũng không bao giờ có bất kỳ sự lựa chọn nào trong vấn đề này; thật khó để tưởng tượng ra bất kỳ cơ sở nào cho các nền văn minh đầu tiên ngoài việc thực thi quyền lực tuyệt đối một cách tàn bạo.
Nhưng chúng ta mang theo lịch sử bên trong mình, và mười nghìn năm sau, nền văn minh của chúng ta phải đối mặt với viễn cảnh bị kết thúc đột ngột vì thể chế lâu dài vốn là phát minh then chốt của những con người văn minh đầu tiên: sức mạnh quân sự.
Tôi e rằng có rất ít người chết trong trận chiến.
Shakespeare, Henry V.
Để tránh cái chết, anh ta rút lui vào những bạn đồng hành của mình; nhưng khi anh ta quay trở lại Meriones, bám theo anh ta, ném ngọn giáo và đâm vào giữa rốn và bộ phận sinh dục, nơi vượt xa mọi nơi, cái chết trong trận chiến đến với những con người đáng thương. Ở đó, ngọn giáo đâm rất nhanh và anh ta, quằn quại về nó…..bị chém một lúc, nhưng không lâu, cho đến khi cuộc chiến của Meriones đến gần và giật ngọn giáo ra khỏi cơ thể anh ta.
-Homer, Illiad
3.
Thư Leo,
Những ngày cuối năm
Tuy không phải là thi sĩ nhưng tôi cũng say mê Romeo và Juliet (ah, phải rồi, bạn sẽ cho là dĩ nhiên đúng không, dù sao thì tôi cũng là nhà tình yêu học kiêm Giám đốc Quỹ tài trợ “Mũi tên của thần Cupid” :))
và tôi cũng biết đến trường ca Illiad của Homer
Nhưng tôi không ngờ rằng có ngày tôi lại nhận được một món quà thế này từ thằng Skeleton:
-Gửi Leo,
Mày dạo này khỏe không?
Có còn hay tương tư những nàng thơ cũ?
Trái tim của mày thế nào?
Chỉ rung nhẹ hay vẫn đập mạnh kinh niên?
Hôm nay là một ngày đẹp trời. Noel thì đã qua, năm mới lại chưa đến. Hôm qua chỉ có mưa nhẹ và ngày mai lại được dự báo là nắng tươi. Trong lòng cảm thấy phấn chấn, yêu đời nên tao bỏ hẳn ra cả ngày để dọn dẹp cái tiệm sách thân yêu của mình. Thôi thì đã có “Tiệm sách của nàng”, tao cũng phải quyết xây nên cái “Tiệm sách của chàng” cho nó cân xứng. Nghĩ vậy nên không ngần ngừ, tao thay liền tên biển. Công hiệu ngay lập tức mày ạ, “chàng” có phải lãng sờ mạn hơn không chứ “Skeleton” nghe khiếp quá bảo sao các nàng cứ chạy hết ráo cả :)).
Kể từ khi thay tên mới, chỉ trong vài ngày tao đã bán được cả trăm cuốn sách, nói chung là ấm rồi, đủ tiền đi chơi bằng tàu điện lên đường hoa Nguyễn Huệ tết này dù Metro có miễn phí hay không :)).
Nhưng tao gửi thư này cho mày không phải là để kể lể về mình, mà chỉ muốn tặng mày một món quá nhân dịp năm mới. Mày mở ra thì biết nhá, và chịu khó đọc đi, sẽ có ích cho mày đấy, ít nhất là trong ngắn hạn!
P/S: Nhớ có bắn mũi tên nào về phía nhà tao thì bắn cho chính xác, đừng lệch sang nhà thằng William, nó thừa mứa lắm rồi :))
Skeleton
Với cái đầu đầy tò mò, tôi không ngần ngại mà xé toạc ngay mảnh bìa bọc món quà mà thằng Skeleton chuyển cho tôi. Nhưng đúng lúc đó thì điện thoại tôi rung. Số của thằng chả Monster:
-Leo, mày còn đang ở Vườn Địa Đàng đấy chứ?
-Chứ mày nghĩ tao ở đâu ?
-Giờ mày thu xếp ngay cho tao, vé tao đã book rồi, check tin nhắn đi. Rồi lên đường gấp
Biết tôi còn ngơ ngác không hiểu gì nó làm một tràng
-Lên đường gấp sang xứ sở Catalan để “giải cứu binh nhì Roberto”, anh ta đang bị mắc kẹt trong một sườn núi sau vụ đánh sập cây cầu ở Sierra de Guadarrama. Tao sẽ có hướng dẫn cụ thể cho mày sau. Vậy nhé, nhớ thực thi nhiệm vụ cho tốt, về biết đâu mày lại được điều động làm bác sĩ tim mạch.
Monster chỉ nói có thế rồi tắt máy cái rụp. Tôi còn lạ gì tính nó nên thôi, không thắc mắc nhiều tốt hơn là đi làm nhiệm vụ.
Chuẩn bị hành lý xong xuôi tôi mở gói quà của thằng Skeleton. Ôi giời ơi, tôi có phải là Monster đâu mà nó lại đi tặng tôi sách thế này, chắc là quyển sách nào đó bán ế của nó đây mà. Chán nản, nhưng tôi vẫn phải nghía cái tiêu đề của nó:
“Chuông nguyện hồn ai”
Chà, cái tên sao lại hay thế cơ chứ nhỉ, bìa lại mới đẹp thế thì không thể do ế được :)). Tôi lật vào trang đầu “Một tác phẩm của Ernest Hemingway”. Công nhận, từ nguyên gốc “For Whom the Bell Tolls” mà người ta dịch ra được cái tên đầy chất thơ như thế thì khả năng chuyện cũng có tính thơ, à quên, nàng thơ đây :))). Nên tôi thử đọc ngẫu nhiên một đoạn xem nó nói về cái quái quỷ gì nào:
– Đúng rồi. Một cái tên mà tôi không tài nào nhớ nổi. Bọn tôi có hai người với một khẩu liên thanh Bọn họ cũng được quân đội phái tới. Họ không mang nổi khẩu liên thanh, họ đã đánh mất nó rồi. Chắc chắn nó không nặng nề bằng cô bé kia đâu và nếu có mụ già trên lưng thì hẳn là họ đã mang theo khí giới được rồi. (Hắn lắc đầu khi nhớ lại chuyện này, đoạn nói tiếp). Trong đời tôi chưa từng thấy một trận nào như vậy.
Chuyến xe lửa lù lù tới. Người ta trông thấy nó từ đàng xa. Và tôi đã sống trong một trạng thái căng thẳng đến không nói năng gì được nữa. Bọn tôi trông thấy khói xe lửa bay lên và rồi có tiếng còi rúc lên. Đoạn nó tiến tới gần và kêu xình xịt, xình xịt, xình xịt, mỗi lúc một to hơn. Sau đó lúc xảy ra tiếng nổ, những bánh trước của chiếc xe lửa tung lên cao. Có thể nói là tất cả đất cát đều tung lên trong một vùng mây mù đen kịt.
Đầu xe lửa nổ tung trong đám bụi, những thanh gỗ bay lên trong không khí như có một phép mầu kỳ lạ và tiếp theo, đầu máy rơi xuống một bên chẳng khác gì một con vật khổng lồ bị trọng thương và khi đất cát lần lượt rơi xuống hết, người ta còn nghe tiếng nổ của hơi nước… Súng bắt đầu nổ tạch! tạch! – Tên du mục nói tiếp, vừa gặt mạnh hai nắm tay khi giơ cao khi hạ thấp, với hai ngón tay chỉ lên không với một khẩu liên thanh tưởng tượng – Tạch! Tạch tạch tạch! – Hắn kêu lên, ngây ngất –
Trong đời tôi chưa hề thấy cảnh nào như vậy, với bọn lính ào ạt nhảy ra khỏi xe lửa và với khẩu máquina khạc đạn trên đầu chúng và với bọn người ngã gục. Chính lúc đó tôi đặt bàn tay lên khẩu máquina, tôi bị khích động làm sao và tôi nhận ra nồng súng nóng bỏng. Trong lúc đó, mụ già đã cho tôi một cái tát tai và bảo: bắn đi, đồ ngu! Mi có chịu bắn hay không, hay là ta đập mi vỡ sọ! Do đó tôi mới bắt đầu bắn, nhưng tôi phải vất vả lắm mới giữ chặt khẩu súng được thăng bằng, và bọn lính xô nhau lủi trốn trên ngọn núi xa.
Sau đó, khi bọn tôi bước xuống chỗ chiếc xe lửa xem có gì để lấy không. Một viên sĩ quan cầm súng lục trong tay đang uy hiếp bọn lính chống lại bọn này. Hắn lăm le khẩu súng và la hét ầm ĩ ở phía sau, bọn này ai nấy cũng đều nhắm vào hắn mà bắn, nhưng không trúng.
Bọn lính đều nằm rạp xuống đất và bắt đầu bắn, tên sĩ quan đi tới đi lui ở đàng sau bọn chúng, nhưng bọn này vẫn không bắn trúng hắn, và khẩu máquina thì không thể bắn vào hắn được vì bị chiếc xe lửa án ngữ. Tên sĩ quan kia đã giết chết hai người của hắn ở dưới đất và mặc dầu vậy, những tên khác vẫn không muốn đứng dậy, hắn mắng nhiếc bọn chúng thậm tệ và sau cùng bọn chúng cũng đứng dậy được, một, hai, ba đứa cùng một lúc, và chúng vừa đi vừa chạy về phía bọn này và phía chiếc xe lửa.
Đoạn chúng hè nhau nằm rạp xuống mặt đất và bắn. Sau đó bọn này rút lui với khẩu máquina tiếp tục khạc đạn trên đầu chúng. Chính lúc đó, tôi bắt gặp cô bé vừa thoát khỏi chiếc xe lửa chạy trốn trong các kẹt đá và cô ta chạy thoát được với bọn này. Chính bọn lính kia đã đuổi theo bọn này tới tối.
Hóa ra là một tác phẩm nói về một cuộc chiến nào đó các bạn ạ. Chắc mẩm có ích cho những giờ vạ vật trong khoang máy bay nên tôi bỏ nó vào balo.
Và lên đường.
Đó là lý do sao tôi phải phái thằng William đi thám thính cái đoạn đường hỏng hóc chứ nào có phải tôi chừa gì việc cho nó. Haizza, số tôi nó vất vả lắm, phải đâu sung sướng như “cụ xứ” suốt ngày chỉ cỏ cây hoa lá trên núi :)).
Chiến tranh cứ xảy ra ở đẩu ở đâu, chứ chắc chắn nó chừa cái am của cụ :))
Nguồn gốc của chiến tranh
By Gwynne Dyer
(2)
Điều đó không bao giờ có thể được chứng minh, nhưng có một giả định an toàn rằng lần đầu tiên năm nghìn người đàn ông tập trung lại một nơi, họ thuộc về một đội quân. Sự kiện đó có lẽ đã xảy ra vào khoảng năm 7000 trước Công nguyên – dù phải mất một nghìn năm – và có thể chắc chắn rằng vụ tàn sát con người quy mô lớn thực sự đầu tiên trong lịch sử loài người đã xảy ra rất sớm sau đó.
Đội quân đầu tiên gần như chắc chắn mang theo vũ khí không khác gì những vũ khí mà thợ săn đã sử dụng cho động vật và với nhau hàng nghìn năm trước – giáo, dao, rìu, có lẽ cả cung tên. Sức mạnh của nó không chỉ nằm ở số lượng; điều làm nên một đội quân là kỷ luật và tổ chức.
Vô số người này tuân theo một chỉ huy duy nhất và tiêu diệt kẻ thù của anh ta để đạt được mục tiêu của mình. Đó là sự tập trung sức mạnh khủng khiếp nhất mà thế giới loài người từng chứng kiến, và không gì ngoại trừ một đội quân khác có thể hy vọng chống lại được nó.
Trận chiến xảy ra khi hai đội quân như vậy giao chiến có rất ít điểm chung với những cuộc đụng độ trong chiến tranh nguyên thủy. Hàng nghìn người tập trung lại thành đội hình chặt chẽ, di chuyển theo lệnh và hành quân từng bước. Cuộc tập trận, được luyện tập trong nhiều ngày nhiều tháng cho đến khi trở nên tự động, là thứ đã biến những người này từ một đám đông gồm những chiến binh riêng lẻ thành một đội quân.
(Các hình thức cơ bản của diễn tập quân sự là một trong những yếu tố phổ biến và không thay đổi nhất của nền văn minh nhân loại. Quân đội Ai Cập thuộc Vương triều thứ mười hai vào năm 1900 trước Công nguyên đã bước từ “bên trái” và mọi đội quân cũng vậy cho đến ngày nay.)
Và khi đội hình gồm những người được đào tạo bài bản va chạm trên các chiến trường bị lãng quên của các vương quốc đầu tiên, những gì đã xảy ra khá khách quan, mặc dù mỗi người đều chết theo cái chết của chính mình. Đó không phải là cuộc chiến truyền thống giữa các chiến binh riêng lẻ.
Những người lính bị ép về phía trước bởi hàng ngũ phía sau họ để chống lại những người lạ vô danh trong phần chiến tuyến của kẻ thù đang đối mặt với họ, và mặc dù cuối cùng, có những cặp cá nhân đâm nhau bằng giáo trong giây lát trước khi một người gục xuống, không có gì cá nhân trong cuộc giao chiến. “Khiên của họ bị khóa, họ xô đẩy, chiến đấu, giết và chết. Không có tiếng la hét, cũng không có sự im lặng, mà là tiếng động có thể được tạo ra bởi cuộc đụng độ giận dữ hoặc của những người có vũ trang.”
Kết quả của cuộc đấu tranh tàn nhẫn như vậy trong một không gian hạn chế là giết chóc ở quy mô chưa từng có. Hàng trăm hoặc hàng nghìn người sẽ chết trong nửa giờ ở một khu vực không lớn hơn vài sân bóng đá. “Trận chiến kết thúc, người ta có thể thấy tại nơi diễn ra cuộc giao tranh, mặt đất đầy máu, bạn và thù nằm chết trên nhau, khiên gãy, giáo gãy và kiếm tuốt vỏ, một số nằm trên mặt đất, một số nằm cố định trong xác chết, một số vẫn còn được giữ trong tay người chết. Lúc này trời đã khuya nên họ kéo xác địch vào trong phòng tuyến, dùng bữa rồi đi nghỉ.”
Và câu hỏi mà chúng ta hiếm khi đặt ra, bởi vì lịch sử của chúng ta đầy rẫy những cảnh tượng như vậy, đó là, Làm sao con người có thể làm được điều này? Rốt cuộc, trong nền văn hóa bộ lạc mà tất cả chúng ta đều xuất thân, họ đã không thể làm được điều đó.
Trở thành một chiến binh và tham gia vào một “trận chiến” mang tính nghi lễ với yếu tố rủi ro tuy nhỏ nhưng tiếp thêm sinh lực là một chuyện; cuộc tàn sát hàng loạt mang tính cơ học và ẩn danh trong chiến tranh văn minh lại là một chuyện hoàn toàn khác, và bất kỳ chiến binh truyền thống nào cũng sẽ làm điều hợp lý và rời đi ngay lập tức.
Tuy nhiên, những con người văn minh, từ năm 5000 trước Công nguyên hoặc kể từ hôm nay, sẽ chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng như vậy ngay cả khi biết rằng họ có thể sẽ chết trong vòng vài phút tới.
Những phát minh của quân đội đòi hỏi nhiều thứ hơn là chỉ tìm ra cách tập hợp một số lượng lớn người để hành động cùng nhau, mặc dù đó chắc chắn là ngang bằng với công thức. Đội hình gồm những người được huấn luyện có tâm lý khác – một dạng tâm lý đám đông được kiểm soát – có xu hướng chế ngự bản sắc cá nhân và nỗi sợ hãi của những cá nhân tạo nên nó.
“Ở đây bạn đang phải đối mặt với những trạng thái tâm lý phức tạp. Không có người nào trong trận chiến thực sự tỉnh táo. Tâm trí của người lính trên chiến trường là một tâm trí rất xáo trộn, và đây là một bệnh dịch điên rồ ảnh hưởng đến mọi người ở đó, và những người không bị ảnh hưởng bởi nó sẽ chết rất nhanh.”
William Manchester, cựu chiến binh Thế chiến thứ hai
Vào thời điểm cá nhân người lính lần đầu tiên nhìn thấy chiến tranh văn minh thấy rõ rằng trận chiến không phải là nơi dành cho một người tỉnh táo, thì về mặt thể chất thường không có cách nào để rời đi – và trong tất cả các quân đội, hình phạt cho việc cố gắng rời đi là là cái chết dưới bàn tay của chính phe bạn.
Nhưng ngay cả những người lính giàu kinh nghiệm, những người biết điều gì sẽ xảy ra, vẫn phải cam chịu thử thách của trận chiến hết lần này đến lần khác, ít nhiều sẵn lòng, bởi vì làm ngược lại là bất đồng quan điểm trước những người mà sự tôn trọng của họ là nền tảng cho lòng tự trọng của chính họ: người lính của họ.
Con người sẽ giết và chết còn hơn là mất mặt, nhưng khuôn mặt đang được cứu, hình ảnh đang được bảo tồn, là khuôn mặt của chiến binh bộ lạc của quá khứ tiền văn minh, người đã chiến đấu vì vinh quang cá nhân và có cơ hội rất tốt để sống sót sau trận đánh.
Sự hung hãn chắc chắn là một phần trong cấu trúc di truyền của chúng ta, và nhất thiết phải như vậy, nhưng mức độ hung hãn của một con người bình thường thậm chí sẽ không khiến anh ta giết người quen, chứ đừng nói đến việc gây chiến với những người lạ đến từ một quốc gia khác.
Chúng ta sống giữa hàng triệu người đã giết hại đồng loại một cách tàn nhẫn – dùng súng máy, súng phun lửa vào họ, thả bom nổ vào họ từ độ cao 20.000 feet trở lên – nhưng chúng ta không sợ những người này.
Phần lớn những người đã giết người, bây giờ hoặc bất cứ lúc nào trong quá khứ, đã giết người với tư cách là những người lính trong chiến tranh, và chúng ta nhận ra rằng điều đó thực tế không liên quan gì đến kiểu gây hấn cá nhân có thể gây nguy hiểm cho chúng ta với tư cách là đồng bào của họ.
Chúng ta cho rằng mọi người sẽ giết người nếu họ rơi vào tình huống mà sự sống còn của chính họ bị đe dọa và không ai cần những bài học để học cách chết. Điều ít rõ ràng hơn là trên thực tế, bất kỳ ai cũng có thể bị thuyết phục và thao túng theo cách mà ít nhiều anh ta sẽ tự nguyện rơi vào tình huống phải giết và có thể phải chết. Tuy nhiên, điều chắc chắn là các trận chiến sẽ không thể xảy ra và nền văn minh sẽ đi theo một hướng rất khác (nếu thực sự nó đã xuất hiện).
“Hỡi bạn, giả sử bạn và tôi thoát khỏi trận chiến này, có thể sống mãi, không già, bất tử, thì bản thân tôi sẽ không tiếp tục chiến đấu trước hết cũng như không thúc giục bạn tham gia vào cuộc chiến mà loài người giành được vinh quang. Nhưng bây giờ, khi thấy hàng ngàn thần chết đứng gần chúng ta xung quanh chúng ta, không ai có thể tránh né hoặc thoát khỏi chúng, chúng ta hãy tiếp tục giành lấy vinh quang cho chính mình hoặc nhường nó cho người khác.”
Sarpedon của người Lykians
Lòng yêu nước, tôn giáo, niềm tin rằng bạn đang bảo vệ tổ ấm và gia đình của mình, là những lý do mạnh mẽ để con người chiến đấu, nhưng những đội lính đánh thuê không có động cơ nào để duy trì chúng cũng thường chiến đấu đến chết. Yếu tố quan trọng nhất giúp những người văn minh có thể chiến đấu trong các cuộc chiến của nền văn minh là tất cả quân đội ở khắp mọi nơi luôn khai thác và thao túng đạo đức chiến binh đã ăn sâu vốn là di sản của mỗi nam thanh niên.
Không phải là những người lính tự lừa dối mình về khả năng chết trong trận chiến hay về những điều khủng khiếp mà vũ khí gây ra cho cơ thể sống; ngược lại, tất cả họ đều quá ý thức về điều đó. Ngay cả những tường thuật sớm nhất còn sót lại về trận chiến cũng chứa đựng những chi tiết giải phẫu gần như ám ảnh về cách cái chết đến với những người lính:
“Ideomeneus đâm vào miệng Erymas bằng thanh đồng tàn nhẫn, đến nỗi ngọn giáo trơ trọi đâm xuyên qua não dưới một cú đánh hướng lên trên, xương trắng vỡ vụn, răng lung lay vì cú đánh, cả hai mắt đầy máu, há hốc mồm thổi một dòng máu qua lỗ mũi và qua miệng, rồi chết trong màn sương mù tối tăm đóng cửa lại với anh ta.”
Những người lính biết về cái chết bạo lực dưới mọi hình thức, và mặc dù họ có sở thích riêng về các hình thức đó – chẳng hạn, có một sở thích phi lý nhưng có thể hiểu được trong các chiến hào trong Thế chiến thứ nhất là chết bằng đạn hơn là bằng đạn pháo, bởi vì một Vụ nổ vỏ đạn ở cự ly gần sẽ làm biến dạng và xé xác nạn nhân thành những mảnh xương gần như không còn của con người – tuy nhiên họ chấp nhận nguy cơ tử vong.
Nhưng điều họ yêu cầu đổi lại là sự đảm bảo (hoặc ảo tưởng) rằng cái chết của họ sẽ không lãng phí, không được chú ý hay vô nghĩa. Tuy nhiên, hầu hết những cái chết của binh lính trong chiến tranh văn minh đều là những điều đó. Bộ tộc sẽ không thương tiếc cái chết của chiến binh đã hy sinh hay hát những bài hát về sức mạnh của anh ta, và mục đích của cuộc chiến không liên quan nhiều đến cuộc sống cá nhân của anh ta, ngay cả trong trường hợp khó xảy ra là cái chết của anh ta ảnh hưởng đến kết quả của nó.
Vì vậy, để làm cho thực tế ảm đạm của chiến tranh văn minh trở nên dễ chấp nhận hơn đối với những người lính của nền văn minh, có một âm mưu phổ biến nhằm giả vờ rằng họ vẫn sống trong một bối cảnh đạo đức và tâm lý ở quy mô con người dễ chịu hơn: đó là quá khứ bộ lạc xa xôi.
Từ lịch sử sớm nhất được ghi lại, ngôn ngữ mà quân đội văn minh thường xuyên sử dụng để mô tả các trận chiến trong lò mổ của họ đều sử dụng vốn từ vựng cổ xưa của chiến binh nguyên thủy. Những người lính là những anh hùng làm việc dũng cảm, không phải là số năm mươi bốn ở hàng thứ hai của đội ngũ thứ năm.
Các trận chiến được quyết định bởi những hành động dũng cảm như vậy, không phải bởi các nữ tu hay vũ khí tốt hơn hay cơ hội tuyệt đối; mọi con người đều có giá trị. Và tất nhiên, nạn nhân của những sự giả dối này thường hợp tác để lừa dối, ngay cả khi họ là những cựu chiến binh đã từng tham chiến trước đây, bởi vì tra hỏi họ sẽ làm giảm giá trị lòng dũng cảm và tính chuyên nghiệp của chính họ.
Người ta nghi ngờ rằng một thiên tài hoài nghi nào đó trong quá khứ xa xôi đã phát minh ra lối suy nghĩ kép này, theo đó nghề nghiệp của người lính luôn được mô tả bằng thuật ngữ của chiến binh. Nhiều khả năng là nó đã phát triển qua nhiều thế hệ do sự cần thiết, nhưng tuy nhiên nó vẫn chắc chắn về phần lớn các mô tả về trận chiến từ thời Sargon xứ Akkad cho đến các bộ phim chiến tranh của John Wayne. Ngay cả bây giờ từ vựng cũ và quan điểm cũ vẫn chiếm ưu thế, đặc biệt là trong quân đội. Họ phải làm vậy, nếu không binh lính sẽ không làm công việc của họ. Nhưng thực tế lại khác, và luôn luôn như vậy.
“Aramu the Urartian, bị kinh hãi trước nỗi kinh hoàng của đội quân hùng mạnh của tôi….đã rút lui khỏi thành phố của mình và đi lên vùng núi Abdduri. Sau đó tôi đuổi theo anh ta và đánh một trận lớn trên núi. Với quân đội của mình, tôi đã lật đổ 3.400 chiến binh; giống như Adad, tôi đã mang một đám mây mưa lớn xuống trên họ; Bằng máu kẻ thù, tôi nhuộm ngọn núi như nhuộm len, và tôi chiếm được trại của chúng. Sau đó Aramu, để cứu mạng mình, đã trốn đến một ngọn núi không thể tiếp cận được. Với sức mạnh phi thường của mình, tôi đã giày đạp đất của hắn như một con bò rừng, và biến các thành phố của hắn thành đống đổ nát và bị lửa thiêu rụi.”
Shalmaneser Illl của Assyria, trong chiến dịch chống lại Urartu
Khi Shalmaneser chiếm Arzashku, thủ đô hoàng gia của Urartu (gần Hồ Van ở miền đông Thổ Nhĩ Kỳ), ông ta đã dùng những chiếc cọc nhọn đâm vào những người phòng thủ và sau đó đóng những cái đầu bị chặt của họ vào các bức tường của thành phố.
Chúng ta biết điều này bởi vì ông ta đã khoe khoang về hành động của mình đối với những cánh cổng bằng đồng mà ông ta đã dựng lên ở thành phố Imgur -Enlil, gần thủ đô Nineveh của ông ta. Người Assyria nổi tiếng là đặc biệt tàn nhẫn ngay cả trong thế giới cổ đại, nhưng hành vi của Shalmaneser không có gì là bất thường.
Một trong những ghi chép sớm nhất về Ai Cập, có niên đại khoảng năm 3200 trước Công nguyên, cho thấy Pharaoh Narmer (người có thể là người đã thống nhất toàn bộ vương quốc lần đầu tiên) với thi thể không đầu của những kẻ thù bị giết. Dòng chữ cổ nhất còn sót lại từ Lưỡng Hà là Tấm bia Kền kền, cho thấy những con chim ăn thịt đang tranh giành nội tạng của những người lính thiệt mạng trong trận chiến mà Eannatum của Lagash đánh bại thành phố đối thủ – bang Umma.
Chiến tranh luôn là bạn đồng hành của nền văn minh, và hầu hết thời gian nó diễn ra với sự tàn ác dã man đối với kẻ bại trận – sự tàn ác tàn nhẫn và hiệu quả hơn nhiều so với hầu hết những “sự man rợ” trên thế giới từng thể hiện. Và lý do của điều này nằm ở cách mà nền văn minh ra đời.
Thực tế không có bằng chứng trực tiếp nào về cấu trúc chính trị và quân sự của các nền văn minh sớm nhất, khi các bộ lạc khác nhau ở Trung Đông lần đầu tiên học cách trồng trọt và thuần hóa động vật, cũng như khi những ngôi làng đầu tiên bắt đầu phát triển thành các thị trấn. Nhưng chiến tranh chắc hẳn đã chuyển thành một hoạt động kinh doanh có kỷ luật với các mục đích chính trị và kinh tế mà chúng ta có thể hiểu được, vì gần 7000 năm trước Công nguyên đã có ít nhất một thị trấn kiên cố: Jericho.
Dân số có lẽ không quá hai nghìn người, chen chúc trong một không gian rộng khoảng mười mẫu Anh, nhưng Jericho được bao quanh bởi một bức tường khổng lồ cao 12 feet và dày 6 feet rưỡi, hai bên là một tháp đá hình tròn và được bao quanh bởi một con mương sâu. Công dân Jericho cảm thấy họ có của cải đáng được bảo vệ, và họ sống trong một thế giới mà những người khác sẽ cố gắng lấy nó bằng vũ lực và không thể bị ngăn chặn bởi những biện pháp phòng thủ kém hơn.
Chính trong thời kỳ đầu tiên này và trong bốn nghìn năm tiếp theo – một nửa lịch sử của nền văn minh – quân đội và các quốc gia ít nhiều đã phát triển thành những hình thức mà chúng ta biết ngày nay, nhưng chúng ta không biết gì về chi tiết của chúng, vì chữ viết chưa được phát minh.
Vào thời điểm các ghi chép bằng văn bản bắt đầu cách đây khoảng năm nghìn năm, nhà nước và quân đội đã là những thể chế hoàn chỉnh có từ thời cổ đại. Tuy nhiên, có thể suy ra làm thế nào mà hai tổ chức song sinh này nổi lên và phát triển ổn định về quy mô cũng như quyền lực cho đến khi chúng vượt lên trên những người phàm đã ủng hộ chúng.
Nền tảng của nền văn minh là nông nghiệp, biến đất đai thành tài sản có giá trị cần được bảo vệ. Ở nhiều nơi ở Trung Đông cổ đại, sự bảo vệ này ban đầu có lẽ được cung cấp đơn giản bằng cách biến các chiến binh bộ lạc thành một lực lượng dân quân được tổ chức lỏng lẻo. Đây đã là một sự thay đổi quan trọng.
Chiến tranh đã trở thành một hoạt động có chủ đích, gây hậu quả nghiêm trọng cho cả cộng đồng trong trường hợp thất bại, và do đó có mọi động lực để vận dụng sự khéo léo của con người vào việc cải thiện tổ chức và chiến thuật của dân quân bộ lạc. Nhưng ở những vùng đất màu mỡ nhất, ở các thung lũng sông lớn Nile và Eupharates, cần có tổ chức ở quy mô rộng hơn nhiều.
Cả hai khu vực này đều là vùng đồng bằng ngập nước, nơi các con sông, nếu được tự vận hành, sẽ làm ngập đất trong một vài tháng trong năm và khiến đất tương đối khô cằn trong thời gian còn lại. Để canh tác những khu vực này một cách hiệu quả, con người phải nâng đê để giữ dòng sông trong giới hạn và sau đó xây dựng mạng lưới kênh tưới tiêu và đê điều phức tạp để dẫn nước vào đồng và giữ nước.
Do lũ lụt khó lường (bảy trong số mười năm sông Nile cung cấp quá nhiều nước hoặc quá ít nước), nông dân cũng phải dự trữ ngũ cốc trong những năm được mùa để chia sẻ cho những năm khó khăn. Tất cả điều này đòi hỏi một cơ quan trung ương có khả năng lập kế hoạch và điều phối công việc của một số lượng lớn người trên phạm vi rộng – và loài người chưa bao giờ thiếu những người sẵn sàng tình nguyện đảm nhận công việc điều hành mọi thứ.
Lợi ích cá nhân chắc chắn đã mang lại sự hợp tác tự nguyện ở một mức độ nào đó giữa các cộng đồng nông dân nhỏ sống cạnh nhau ở các thung lũng sông (trong nhiều trường hợp họ có thể thuộc cùng một bộ lạc hoặc có quan hệ họ hàng với nhau), nhưng cũng chắc chắn không kém rằng có một mức độ ép buộc đáng kể là cần thiết để đoàn kết những nỗ lực của họ.
Chúng ta biết rằng sự cưỡng bức được cung cấp bởi lực lượng quân sự, bởi vì đó là phương tiện chủ yếu để thực thi sự vâng phục vào thời điểm hồ sơ lịch sử bắt đầu. Nó cũng có ý nghĩa logic. Những người sử dụng thành công lực lượng quân sự sẽ giành được quyền kiểm soát một khu vực rộng lớn, khu vực này sẽ thịnh vượng nhờ sự phối hợp tốt hơn trong nỗ lực canh tác vùng đồng bằng ngập lụt.
Khi đó, những người cai trị khu vực sẽ có thêm quyền lực từ việc kiểm soát những nguồn tài nguyên ngày càng gia tăng này, và do đó hệ thống trở nên tự duy trì và tự tồn tại. Nhà nước và quân đội thực sự là cặp song sinh không thể tách rời.
Chính xác thì ai đã phát minh ra những đội quân thực sự đầu tiên và bằng cách nào thì chúng ta không bao giờ có thể biết được. Nó thậm chí có thể đã xảy ra theo những cách khác nhau ở những nơi khác nhau.
Trong một trường hợp, lực lượng dân quân làng có thể đã khám phá ra những nguyên tắc cơ bản của kỷ luật và thu được kinh nghiệm trong một loạt các cuộc tranh chấp giữa các làng, và sau đó được Naponeon thời tiền sử nắm giữ, người đã nhìn thấy các khả năng trong một chương trình hoặc cuộc chinh phục có hệ thống. (Anh ta có thể quan tâm đến cướp bóc, nô lệ và hãm hiếp hơn là tạo nền tảng cho một nền kinh tế nông nghiệp phức tạp và hiệu quả, nhưng những cuộc chinh phục của anh ta tuy nhiên sẽ tạo ra hiệu ứng thứ hai.)
Trong một trường hợp khác, một khu vực nông nghiệp có thể đã bị chinh phục bởi các chiến binh từ một bộ tộc gồm những người không phải là nông dân đói khát, những người sau đó tự biến mình thành một giai cấp thống trị quân sự.
Thậm chí có thể hình dung rằng trong một số trường hợp, công việc thống nhất chính trị và kinh tế ban đầu trên các khu vực khá rộng lớn được tiến hành mà không có bạo lực, nhưng trong một thế giới nơi quân đội đã ra đời, ngay cả một xã hội hòa bình như vậy cũng sẽ chỉ tồn tại nếu nó nhanh chóng phát triển một đội quân gồm của riêng nó.
Tất nhiên, có nhiều thứ ở những quốc gia đầu tiên này hơn là chỉ có một đội quân. Họ phải có một chính quyền tổ chức công việc tưới tiêu và thu thập phần mười ngũ cốc (hình thức đánh thuế phổ biến) để nuôi sống các tòa án của người cai trị, binh lính và chính các quan chức. Các trung tâm hành chính trở thành những thành phố đầu tiên, nơi dân cư phi nông nghiệp không chỉ theo đuổi các nhiệm vụ của chính phủ mà còn nhanh chóng đa dạng hóa nhiều loại hình thương mại và dịch vụ.
Và vì việc thực thi quyền lực vừa rẻ hơn vừa dễ dàng hơn nếu nó dựa trên một điều gì đó ngoài mối đe dọa đơn thuần bằng vũ lực (nghĩ rằng đó vẫn là biện pháp trừng phạt cuối cùng), các tôn giáo bộ lạc cũ đã được sửa đổi thành tôn giáo nhà nước trong đó các vị thần bảo vệ quyền lực của những người cai trị. Thông thường, bản thân những người cai trị được tuyên bố là các vị thần nhỏ, và thường thì chức tư tế và bộ máy quan liêu nhà nước đều giống nhau.
Ở các vương quốc cổ đại, còn có một hiện tượng dai dẳng đã quá quen thuộc với công dân của các quốc gia hiện đại: sự say mê quyền lực. Mặc dù không ai có thể có quyền lực tuyệt đối, nhưng ảo tưởng về quyền lực đó vẫn xuất hiện ở mọi cấp độ trong một nền hành chính nhà nước được hỗ trợ bởi quyền và khả năng trừng phạt hoặc thậm chí giết những người không tuân theo.
Cơ sở thực tế cho hành vi đạo đức thông thường là sự thừa nhận tính nhân đạo chung và sự dễ bị tổn thương lẫn nhau, điều này chính xác là điều đã bị phá hủy bởi ảo tưởng về quyền lực tuyệt đối. Do đó, những người kiểm soát các quốc gia văn minh đầu tiên – tất cả, không có ngoại lệ, là các chế độ chuyên chế toàn trị – cảm thấy có quyền tra tấn và giết chết thần dân của mình vì bất kỳ hành động thách thức nào và tàn sát toàn bộ dân cư nước ngoài đe dọa quyền lực của họ. Giả định trước vẫn còn rất phổ biến, và giả định sau vẫn còn phổ biến ở các nước ngày nay.
“Hãy kể cho tôi nghe một hành động chiến tranh có tính đạo đức…. Cắm lưỡi lê vào bụng một người, đó có phải là đạo đức không? Sau đó họ nói, tất nhiên, ném bom chiến lược có sự tham gia của dân thường. Dân thường luôn tham gia vào các cuộc chiến tranh lớn.
“Rốt cuộc, các cuộc chiến trước đây đều kết thúc bằng việc bao vây các thành phố lớn, và việc bao vây một thành phố có ý nghĩa gì? Để cắt đứt mọi nguồn cung cấp, và thành phố đã cầm cự nếu có thể cho đến khi họ ăn thịt con chó, con mèo, con chuột cống cuối cùng và tất cả đều chết đói, trong khi lực lượng bao vây phóng mọi tên lửa mà họ có thể chạm vào thành phố , ít nhiều bất kể tên lửa đó hạ cánh ở đâu, như một động lực bổ sung để đầu hàng….”
Ngài Arthur Harris, người đứng đầu Bộ chỉ huy Máy bay ném bom RAF, 1942-45
Không có sự khác biệt đáng kể giữa những gì Shalmanester III đã làm với Arzashku vào năm 858 trước Công nguyên và những gì Bộ Tư lệnh Máy bay ném bom của Anh và Lực lượng Không quân số 8 của Hoa Kỳ đã làm với Dresden vào năm 1945. Shalmaneser, là người Assyria, chắc chắn thích thú hơn với việc đó, và các phương tiện hành quyết dường như khá kỳ lạ hơn đối với chúng ta, nhưng hậu quả cuối cùng đối với các nạn nhân là giống nhau. Đó là cơ sở đạo đức cho cả hai hành vi.
Theo đạo đức thông thường của mọi xã hội văn minh, việc gây ra cái chết và đau khổ cho kẻ thù khi các quốc gia đang có chiến tranh với nhau là điều chính đáng và thực sự đáng khen ngợi. Đôi khi đã có những tranh cãi về việc xếp những người không chiến đấu vào danh mục “kẻ thù”, nhưng chúng không được coi trọng trong một thế giới vũ khí hạt nhân.
Không con người nào có thể thoát khỏi danh mục kẻ thù tiềm tàng, vì các quy tắc của hệ thống quốc tế quy định rằng tất cả các quốc gia luôn có khả năng xảy ra chiến tranh với nhau. Trong vòng hai trăm năm qua, Anh và Pháp, Pháp và Mỹ, Mỹ và Anh, đều vừa là kẻ thù vừa là đồng minh; Ý đã chuyển từ liên minh sang thù địch với Đức và ngược lại kể từ năm 1914.
Một số điều đã thay đổi kể từ thời cổ đại: các quy tắc ứng xử của những người cai trị đối với những người bị trị đã được sửa đổi đáng kể ở một số quốc gia, đặc biệt là trong vài thế kỷ qua. Nhưng những điều khác không hề thay đổi: môi trường quốc tế của tình trạng vô chính phủ có vũ trang và nguy hiểm mà tất cả các quốc gia đang sinh sống đã hình thành như hiện tại cách đây 5.000 năm.
Mỗi quốc gia hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự sống còn của mình và chỉ có thể đảm bảo điều đó bằng cách có đủ lực lượng quân sự, một mình hoặc liên minh với các quốc gia khác, để chống lại quân đội của những kẻ có khả năng đe dọa nó. Mối đe dọa là có thật: hơn 90% tất cả các quốc gia từng tồn tại đã bị tiêu diệt – và thường là cả người dân của họ – bởi vì họ không có đủ sức mạnh quân sự vào thời điểm quan trọng. Đó là bài học in sâu vào tâm thức của mọi chính quyền từ thời Pharaoh Narmer đến Thủ tướng Gorbachev.
Hiện nay không có ai còn sống, không có ai ở bên này chân trời lịch sử, đã “chọn” chiến tranh thay vì hòa bình; điều đó sẽ giống như nói rằng ai đó đã chọn hít thở không khí thay vì nước. Các nhà lãnh đạo cá nhân và thậm chí cả các quốc gia đôi khi có thể quyết định rằng họ muốn có một cuộc chiến tranh cụ thể (mặc dù có nhiều cuộc chiến tranh bắt đầu do tính toán sai lầm), và các nhà lãnh đạo và các quốc gia khác có thể cố gắng một cách tuyệt vọng để duy trì hòa bình, nhưng tất cả đều diễn ra trong một bối cảnh chính trị trong đó chiến tranh luôn là một lựa chọn.
Bối cảnh đó vẫn như vậy kể từ khi lịch sử bắt đầu được ghi lại. Quả thực, nó gần như chắc chắn có niên đại lâu đời hơn lịch sử rất nhiều…