Tháng Mười một của trái tim (4)

by Rose & Cactus

Bản tin dự báo thời tiết phát đi vài ngày trước cho biết miền Bắc bắt đầu đón cơn gió lạnh đầu tiên. Cái lạnh đủ để phải mặc một chiếc  áo len dày dặn chứ không phải mấy kiểu áo mỏng manh lúc vào Thu.

Mùa đông thực sự đã về !
Cũng là theo đúng quy luật vì Lập Đông thường được xác định vào ngày cuối của tuần đầu tiên tháng mười Một.

Có bạn nào để ý cả ngày hôm nay thời tiết phương Nam của chúng mình thế nào không? Tuyệt vời các bạn nhỉ ? Sau nhiều ngày nắng vỡ đầu thì tự nhiên sáng nay ông trời lại trở nên dịu dàng hơn hẳn, ổng nhường sân khấu chính cho  cô Mây, cô Gió thể hiện chút đỉnh gọi là có tí chút đón chào Đông.

Mây. Nhưng không phải mây Thu trắng bồng bềnh cũng chẳng phải Mây hạ đen kịt lúc chuyển mưa. Đông tới là lúc nó mang một sắc thái khác, ở giữa lưng chừng trắng và đen.

Xám.

Gió thì vẫn thế, vẫn mang cái e thẹn của cái mùa lãng mạn nhất năm dù Đông đã ngập ngừng bên khung cửa. Nó chỉ đủ mạnh để làm những chiếc lá rời khỏi cành và xào xạc dưới những bước chân. Những chiếc lá vàng, lá đỏ già cỗi hoá con nít chơi trò đuổi bắt dọc theo vỉa hè con đường ngay đối diện cái hiệu sách lớn góc ngã ba đường.

-Lại đến giờ của mẹ rồi đấy!

-Mày cứ nói toạc ra là đến giờ “điên” của mẹ rồi đấy thì có phải chuẩn hơn không :)))

Đúng là điên thật mà. Thời tiết đẹp thế này mà không có chút “điên” thì thật phí!

Mình nghĩ thế và vô tình ngước lên thì bắt gặp những tia nắng lấp lánh ló ra sau tầng mây mỏng.  Đã gần năm giờ chiều.

Mặt trời mọc lúc năm giờ chiều ? Thi cứ cho là thế đi!

Đông về nghĩa là nhiệt độ xuống thấp đến mức khiến một số loài rau chính thức bị “khai tử”: muống, ngót, mùng tơi, dền, giờ đây là thời của họ nhà Cải cùng một số loại rất ưa cái lạnh như su hào, cà chua, cà rốt….

Thực sự thì nhà mình ngoài quê không làm nông nghiệp.  Ngày xưa ông ngoại mình có trồng lúa để đỡ phí ruộng được cấp thôi chứ cái khoảnh ruộng bé tí tẹo thì được mấy hạt gạo. Ông chỉ trồng rau, ngoài cung cấp bữa ăn cho gia đình thì xem như một thú vui vì vườn rất rộng. Bà mình thi thoảng có đi bán, thì cũng vẫn chỉ là cho vui. Còn mẹ mình thì mê vườn tược số 1 nên ở đâu bà cũng phải trồng cái này cái kia, cho nên nhà mình chỉ có vườn nhỏ nhưng quanh năm có rau ăn.

Nhưng mình có người họ hàng làm thuần nông. Ông là em trai ông ngoại mình, hai anh em rời quê hương miền biển Trung Bộ gió lào cát trắng ra xây dựng vùng kinh tế mới ở cái tỉnh trung du Bắc Bộ quê mình. Không giống ông bà ngoại mình đều là công nhân nhà nước, em ông mình lấy vợ ở một làng quê chỉ cách nhà mình khoảng hơn hai chục cây, vùng đất đồng bằng duy nhất của tỉnh và nằm sát Hà Nội.

Nhiều vụ đông khi mình còn nhỏ, mấy chú con ông chú thường chở xe đạp rau từ nhà lên đến chợ trên khu mình bán vì trên mình gần như là trung tâm thành phố. Cái xe đạp cọc cạch hai bên yên xe đằng sau buộc hai sọt chất đầy rau củ quả mùa lạnh, nhiều nhất là cà chua.

Các bạn chắc chưa bao giờ thử cảm giác hái một quả cả chua chín mọng ngoài vườn, đem lau lau chùi chùi qua loa bằng vạt áo và cho vào miệng cắn phập một cái đâu nhỉ? Ồ, cảm giác kiểu rất yomost ấy, ngon tuyệt. Đó là vì nó hoàn toàn được trồng tự nhiên và được ăn tươi, chứ cái kiểu nấu rau củ chín hoàn toàn  thì làm gì còn được tí Vitamin nào, may ra vớt vát được chút chất xơ là cùng.

Có thể vì vậy mà nước da của các cô gái Bắc vào mùa đông nó cứ hồng hào  y như vỏ trái cà chua vậy!

Nhưng đấy là nói chuyện người thưởng thức thôi, còn nhà nông là ngừoi sản xuất thì cực lắm bạn ơi. Các chú nhà mình chở rau đi bán trước khi lên đến chợ thi thoảng lại tạt vào nhà mình chơi. Mỗi lần vào các chú lại nói  với mẹ mình :”Chị thích lấy bao nhiêu thì lấy mà ăn” nhưng nhà mình rau ngoài vườn cũng ê hề,  toàn vừa ăn vừa cho.

Mùa đông, rau rất dễ trồng và cứ xanh tươi mơn mởn!

Giọng chú nghe chán nản lắm vì biết mang lên chợ bán cũng chẳng bao giờ hết. Mất bao công chăm sóc nhưng thu về đâu được là bao nên nhiều khi nông dân họ chán, họ thà để cà chua, cà rốt, khoai tây thối hay chặt bỏ ngay tại đồng ruộng còn hơn phải chở nặng nhọc hàng mấy chục cây số và bán với cái giá còn hơn cho.

Bao năm đã qua, bây giờ khu nhà ông chú ở đã khác lắm. Nhà máy Samsung được chọn đặt ở vùng quê của ông, vì vị trí địa lý thuận lợi của nó,  gần Thủ đô và các cảng sông, biển. Cả làng ông gần như đã bỏ nông nghiệp hết để đi làm công nhân.

Đời sống khấm khá hơn rất nhiều và dĩ nhiên ruộng sẽ bị bỏ hoang.

Tuy vậy, không hiểu sao nhiều năm, ngoài Bắc vẫn thấy mọi người đăng lên mạng kêu gọi giải cứu. Hầu hết là rau củ mùa đông. Có năm phải chở tận vào trong này để  “cứu”, hàng xe rau  bắp cải, su hào  đứng đầy đường.

 Đầu ra cho nông sản vẫn là vấn đề muôn thưở!

-Người anh em giờ thì chúng ta đã no say rồi, giờ mày hãy kể tao nghe  hành trình của mày đến với xứ sở lạnh giá này xem nào.

Charlie phều phào cứ như thể nó đã là ông cụ 75 chứ không phải 15. Nó không nghĩ rằng mình lại chịu lạnh kém thế

Mountain thấy  vậy với tay nhấc cái ấm tích bằng sứ mà  đầu vòi đã ố vàng bởi nước trà, kỳ thực là do bao đời rồi chưa được đánh rửa, ra khỏi cái giỏ mây bọc vải. Nó từ từ rót ra một chén  và đưa cho thằng bạn. Nước trà nóng, bốc hơi nghi ngút làm cả không gian ấm hẳn.

-Mày uống đi cho ấm bụng, thời tiết càng về khuya sẽ càng lạnh

Nó hành động tự nhiên cứ như thể nó là chủ cái quán cóc ven đường mãi tận cái thị trấn miền núi vùng biên này

-Cô hỏi khí không phải thế cháu là người vùng nào lang bạt đến đây?

Tất nhiên Mountain trả ngại ngần gì mà không làm một tràng về quê quán của nó. Nó xuất thân chốn bưng biền của Đất rừng phương Nam nhưng với nó chân trời góc bể nào cũng là nhà, anh em miền nào cũng có thể là huynh đệ. Đấy, mới lưu lạc ra chốn rừng thiêng nước độc này được mấy bữa đâu  mà nó đã có thể nói được cả tiếng của người H’mong rồi chứ giọng Bắc ấy hả, dễ ợt nó chả thèm:

-Dạ vâng, con xin chả nhời cô: Con là Cò đến từ vùng rừng U Minh Thượng. Con vừa hoàn thành vai diễn nhân vật cùng tên cúng cơm này của con trong bộ phim Đất rừng phương Nam được chuyển thể từ tác phẩm của nhà văn Đoàn Giỏi. Đây con còn dư một vé xem phim xin được biếu cô.

Nó vừa nói vừa thò tay vô túi quần móc ra cái vé xem phim rồi đưa cho người chủ quán. Khổ, nó cứ làm như cái chốn xa xôi hẻo lánh này là cái đất Sài thành không bằng. Làm gì có rạp rủng gì quanh đây mà phim với ảnh.

Thực tình thì , Mountain nó tếu táo thế thôi chứ nó đâu có ham hố gì làm diễn viên. Cơ bản nhân vừa rồi về quê, một làng quê miệt vườn Tây Nam Bộ, nó bỗng cảm thấy buồn quá. Gì đâu mà làng xóm vắng tiêu điều, bà con bỏ lên các thành phố công nghiệp miền Đông hết cả. Ruộng vườn cứ trống hươ trống hoác, hạn mặn xâm nhập nặng và nước lũ thì không về. Ngược lên vựa cam, xoài…vùng Tiền Giang, Đồng Tháp trái cây thu hoạch chất đầy các ghe không tiêu thụ kịp. Cầu vượt quá cung khiến giá bán xuống thấp thảm hại.

-Cực lắm con ơi, giờ con ai tha thiết với nông nghiệp nữa đâu con!

Nó nghe ông Tư cạnh nhà ngoại nó giãi bày thì tự dưng nó cứ cảm thấy có vị đắng dâng lên trong cổ. Giá mà nó có thể làm gì đó cho bà con nông dân? Nhưng làm gì? Làm thế nào và tiền đâu để làm? Nó chịu, dù sao cũng như thằng Charlie, nó mới chỉ 15 tuổi.

Thế là chuyến về quê dự định chỉ 2 ngày của nó kéo dài đến tận ngày thứ 13. Vì nó cứ men theo con nước đi tìm lại ký ức của “rừng phương Nam” cũ mà chẳng thấy đâu.

Nhưng liệu có phải chỉ nông nghiệp và nông dân quê nó chịu ảnh hưởng của những tác nhân  tự nhiên và các tác động của suy thoái kinh tế.

Có lẽ là không.

In Texas, Vietnamese American Shrimpers Must Forge a New Path Again

By Amy Qin/ The New York Times

Mặt trời vẫn đang lên khi Vinh Nguyễn đánh mẻ cá đầu tiên trong ngày.

Trong nửa giờ tiếp theo, anh thao tác một cách thuần thục, dùng tay trần để phân loại những loài giáp xác trơn từ Vịnh Matagorda. Tôm nâu Texas nổi tiếng được đựng trong một thùng. Tôm trắng Texas ở một thùng khác. Những con mòng biển và bồ nông bay lượn quanh anh trong không khí mát mẻ, nhớp nháp, trong khi những chú cá heo bơi dọc theo thuyền. Tất cả đều háo hức với những con cá bị bỏ đi – một bữa sáng miễn phí.

Đến trưa, ông Nguyễn bắt đủ tôm để mang về nhà, trị giá  khoảng 600 USD, một khoản lãi kha khá thời nay, nhưng vẫn thấp hơn so với những năm trước khi 1.000 USD là một ngày tốt.

“Không nhiều lắm,” ông cau mày khi đứng trên boong tàu bóng loáng đánh giá những thùng đá giờ đã chứa đầy tôm.

Ông Nguyễn, 63 tuổi, là một trong hàng ngàn người tị nạn Việt Nam định cư dọc Bờ Vịnh sau Chiến tranh Việt Nam. Tại đây, trong những cộng đồng ngư dân yên tĩnh, họ đã làm việc chăm chỉ để xây dựng lại cuộc sống. Trên đường đi, họ đã vượt qua nỗi đau chiến tranh và sự di dời, rào cản ngôn ngữ và định kiến ​​sâu sắc từ cư dân địa phương.

Nhưng trở ngại mới nhất nằm ngoài tầm kiểm soát của họ: sự suy thoái của ngành tôm Mỹ.

Trên khắp Bờ Vịnh, chi phí nhiên liệu cao, thiếu nhân công và làn sóng nhập khẩu giá rẻ đã khiến nghề nuôi tôm trở thành một đề xuất ít khả thi hơn đối với bất kỳ ai.

Một số người dân địa phương nói rằng việc đánh bắt quá mức và các yếu tố môi trường như biến đổi khí hậu cũng đã dẫn đến sự suy giảm số lượng hải sản, khiến việc kiếm được một chuyến hàng tốt càng trở nên khó khăn hơn.

“Rất nhiều người đánh tôm Việt Nam đã khóc với tôi,” Thụy Vũ, 57 tuổi, người chạy trốn khỏi một Việt Nam bị chiến tranh tàn phá khi còn nhỏ, cho biết. Cô hiện là giám đốc kinh doanh của cơ sở nuôi tôm của gia đình ở Palacios, Texas, một trong những cộng đồng nhỏ nơi người Việt nhập cư định cư.

Bà Vũ cho biết, thế hệ ngư dân đầu tiên đến đây từ hàng chục năm trước đều mơ ước bán được thuyền và cơ sở kinh doanh của mình cho các thuyền viên trẻ hơn. “Nhưng bây giờ điều đó có vẻ không có nhiều khả năng xảy ra ,” cô than thở.

Sau chuyến thăm Palacios (phát âm là puh-LASH-es) vào tháng trước, không khó để tưởng tượng thị trấn trông như thế nào khi nhóm khoảng 100 người tị nạn Việt Nam đầu tiên đến vào năm 1976.

Nằm khoảng giữa Houston và Corpus Christi, thị trấn nằm trên vùng đất trang trại xanh tươi trải dài ra một vịnh lấp lánh. Dân số vẫn giữ nguyên, 4.400 người và trung tâm thành phố vẫn chỉ có một đèn giao thông. Nó khác xa so với những trung tâm rộng lớn như Houston và Quận Cam, California, những nơi thường tạo nên bối cảnh cho những câu chuyện của người Việt ở Mỹ.

Những người tị nạn Việt Nam ban đầu bị thu hút đến Palacios bởi lời hứa về việc làm tại một nhà máy điện hạt nhân gần đó và một nhà máy chế biến cua. Nhưng họ nhanh chóng chuyển sự chú ý sang ngành đánh bắt tôm và cua địa phương.

Làm việc ngoài khơi, thì không cần tiếng Anh. Và nhiều người trong số họ đã có những kỹ năng phù hợp. Khi ở Vũng Tàu, một thị trấn ven biển ở miền Nam Việt Nam, một số người từng làm nghề đánh cá và đan lưới.

Tuy nhiên, không lâu sau, những người nuôi tôm và cua địa phương cảm thấy bị đe dọa. Người dân địa phương phàn nàn rằng những người mới đến đã không tuân thủ các quy định về mặt nước. Khi những người nhập cư Việt Nam trả tiền mặt cho những chiếc thuyền của họ bằng cách góp chung tiền tiết kiệm, người dân địa phương cáo buộc họ đã nhận được các khoản vay đặc biệt của chính phủ.

Căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào năm 1979 tại thị trấn Seadrift, cách Palacios 45 dặm về phía bờ biển, khi một ngư dân Việt Nam bắn chết một ngừoi đánh bắt cua da trắng, người đã quấy rối anh ta trên lãnh thổ đánh cá. Bồi thẩm đoàn đã tuyên trắng án cho người đánh cá sau khi anh ta lập luận rằng vụ nổ súng là để tự vệ.

Vụ việc, vốn là chủ đề của một bộ phim tài liệu gần đây, đã gây ra sự phẫn nộ trong giới ngư dân da trắng, họ đã ném bom ba chiếc thuyền của người nhập cư Việt Nam để đáp trả.

“Chúng tôi không thể đi đâu, chúng tôi chỉ ở trong nhà, rất sợ hãi”, ông Thế Nguyễn, 66 tuổi, một ngư dân ở Seadrift nhớ lại. “Và sau đó chúng tôi lấy thuyền của mình và chạy trốn.”

Tranh chấp ở thị trấn nhỏ nhanh chóng leo thang thành một chiến dịch rộng lớn hơn, trong đó các thành viên của Ku Klux Klan đốt một số tàu thuyền gần Vịnh Galveston và đốt thánh giá gần nhà của ngư dân Việt Nam. Căng thẳng chỉ giảm bớt sau khi Trung tâm Luật cho người Nghèo miền Nam cùng với Hội Ngư dân Việt Nam đệ đơn kiện liên bang nhằm ngăn chặn chiến thuật đe dọa của Klan.

Một số người Việt nhập cư bỏ trốn cuối cùng đã quay trở lại Seadrift và các thị trấn lân cận. Sức hấp dẫn của cuộc sống bắt tôm, cua quá mãnh liệt.

Ông T.V. Trần, 75 tuổi, một trong những người Việt đầu tiên đến Palacios, cho biết: “Nếu dồn con người ta vào chân tường, họ sẽ chống trả.

Theo thời gian, mối quan hệ được cải thiện. Những ngư dân nhập cư từ Việt Nam đã thích nghi với các quy định của địa phương nhằm duy trì đàn tôm, chẳng hạn như không kéo lưới trước khi mặt trời mọc. Họ bắt đầu nhận được sự tôn trọng của ngư dân da trắng và người Latinh.

David Aparicio, 67 tuổi, một ngư dân đánh bắt tôm người Mỹ gốc Mexico thế hệ thứ hai ở Palacios, cho biết: “Họ tự đóng thuyền và trả mọi thứ bằng tiền của mình. “Họ không làm gì sai ngoài việc làm việc quá chăm chỉ.”

Trong những năm 1980 và 1990, ngày càng có nhiều người Việt nhập cư đến Palacios để bắt đầu nghề đánh bắt tôm. Nhiều người sống trong những ngôi nhà di động, dồn tới 20 người vào một chiếc xe kéo. Một số nâng cấp từ thuyền dành cho vịnh nhỏ lên mức lớn hơn, để có thể mang lại lợi nhuận cao hơn.

Khi còn là học sinh cấp 3, Yến Trần thức dậy lúc 5 giờ sáng để nhặt thịt cua với giá một đô la một pound, sau đó cô về nhà, tắm rửa rồi đến lớp. Sau giờ học, khi vào mùa, cô sẽ đến thẳng bến tàu để đánh tôm, bà Trần, người không liên quan đến T.V. Trần, cho biết.

Bà Trần, 60 tuổi, một giáo viên toán đã nghỉ hưu vẫn sống ở Palacios, cho biết: “Đó là công việc vất vả và nặng mùi”. “Nhưng hầu hết bọn trẻ đều làm được.”

Dần dần, người Mỹ gốc Việt trở thành một phần cơ cấu của thị trấn. Tại trường trung học Palacios, các em đã trở thành nữ hoàng, ngôi sao bóng đá và thủ khoa. Các nhà hàng phục vụ món Việt như phở, chả giò tôm bắt đầu mọc lên. Những chiếc thuyền mang tên “Hoa hậu Anh Đào” được nhìn thấy cập bến bên cạnh “Kris và Cody”. Năm 2020, thị trấn đã bầu được thị trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên, Linh Văn Châu.

Jim Gardner, thị trưởng đương nhiệm của Palacios, cho biết: “Trước đây có thể đã có một số phản kháng, nhưng ngày nay người Việt Nam được đánh giá rất cao ở đây và họ là một phần rất nổi bật trong thị trấn của chúng tôi”. người bạn thân và người cố vấn.

“Và món phở,” ông Gardner nói thêm, “nó khá ngon đấy.”

Tôm là loại hải sản được tiêu thụ nhiều nhất ở Hoa Kỳ, nhưng phần lớn trong số đó đến từ nơi khác. Trong những năm gần đây, nhập khẩu toàn cầu tăng từ các nước như Ấn Độ và Ecuador, tàn phá ngành tôm trong nước. Các nhà nuôi tôm trên khắp Bờ Vịnh đã kêu gọi chính phủ liên bang hạn chế nhập khẩu.

Nhiều người đánh tôm người Mỹ gốc Việt đã làm việc chăm chỉ và tiết kiệm đủ tiền để cho con đi học đại học và giúp chúng thoát khỏi công việc lao động cực nhọc mà nghề đánh tôm đòi hỏi.

Tuy nhiên, một số người trong số họ đang phải đối mặt với tình trạng bất ổn về tài chính khi gần đến tuổi nghỉ hưu. Bà Vũ, giám đốc doanh nghiệp tôm, cho biết những năm gần đây, nhiều người đã tìm được công việc ổn định hơn ở công trường xây dựng hoặc tiệm nail.

“Có lẽ vì đến đây tay trắng nên chúng tôi cũng không dám phàn nàn nhiều”, bà Vũ nói. “Nhưng có cảm giác rằng ngành này không còn hứa hẹn gì nữa”.

Người đánh tôm Vinh Nguyễn vẫn chưa bỏ cuộc. Ông nói rằng chỉ cần cầm cự thêm ba năm nữa – đủ lâu để đưa đứa con út của ông, Dorothy, vào đại học, để cô ấy có thể đạt được ước mơ trở thành bác sĩ.

“Mỹ vẫn còn cơ hội”, ông Nguyễn nói trong cabin tàu đánh cá của mình trong giờ nghỉ giải lao. Ở phía sau, giọng của một người đánh tôm Việt Nam vang lên trên hệ thống vô tuyến của thuyền để cập nhật thông tin. Có nhiều tôm hơn để đánh bắt ở phần khác của vịnh.

Ông Nguyên nắm lấy tay lái. Đã đến lúc phải tiếp tục.

Chuyến về quê đã tác động đến nhận thức của Mountain về các vấn đề kinh tế, xã hội. Và rồi giống như thằng Charlie, lần đầu tiên trong đời nó mất ngủ liền 13 đêm….

 “Tôi ngồi bên cửa sổ gần như suốt đêm và nhìn ra khoảng không tối tăm nhất, lòng tràn đầy mong đợi. Ai đó đi ngang qua nhà tôi và đi thẳng vào rừng. Một cửa sổ sáng đèn phản chiếu xuống mặt nước phía bên kia vịnh. Có thể có một bữa tiệc đang diễn ra và có thể không. Đêm trôi qua lặng lẽ trong khi tôi chờ đợi xem mình muốn làm gì.

Có một khoảnh khắc trong bóng tối của buổi bình minh sớm, tôi biết rằng mình muốn đến một thung lũng nơi tôi đã từng đến từ rất lâu rồi. Có thể là tôi chỉ nghe nói về thung lũng này, hoặc có thể tôi đã đọc về nó, nhưng điều đó thực sự không có gì khác biệt. Điều quan trọng nhất là con suối chảy qua thung lũng. Hoặc có thể đó là một dòng sông?

Nhưng chắc chắn không phải là một dòng sông, tôi quyết định rằng đó là một con suối, vì tôi thích những con suối hơn là những dòng sông. Một dòng suối trong vắt, tôi ngồi trên cầu, đung đưa đôi chân nhìn những chú cá nhỏ bơi lội quanh nhau. Không ai hỏi thăm tôi có khoẻ không rồi sau đó bắt đầu nói về những chuyện khác mà không cho tôi thời gian để xem liệu tôi có cảm thấy khỏe hay không. Ở đó cũng có một nơi mà người ta có thể chơi và hát suốt đêm, và tôi sẽ là người cuối cùng về nhà vào lúc bình minh.

Tôi không rời đi ngay. Tôi đã học được tầm quan trọng của việc trì hoãn điều mình đang khao khát và tôi biết rằng việc bào chữa cho những điều chưa biết phải được chuẩn bị với sự cân nhắc thích hợp.

Trong nhiều ngày, tôi lang thang trên những ngọn đồi bao quanh vịnh dài tối tăm, ngày càng chìm sâu hơn vào sự lãng quên, và tôi bắt đầu cảm thấy thung lũng ngày càng gần hơn.

Những chiếc lá đỏ vàng cuối cùng rụng khỏi cây, tụ lại quanh chân tôi khi tôi bước đi (tôi quả là vẫn còn đôi chân rất khỏe) và thỉnh thoảng tôi dừng lại dùng gậy nhặt một chiếc lá và tự nhủ: đó là cây phong. Tôi đã không quên điều đó. Tôi biết rất rõ mình muốn nhớ điều gì.

Thật không thể tin được là tôi đã thành công đến mức nào trong việc quên đi trong vài ngày đó. Mỗi buổi sáng, tôi thức dậy với niềm mong đợi thầm kín như vậy, và ngay lập tức bắt đầu công việc quên đi để làm cho thung lũng đến gần hơn. Không ai làm phiền tôi, không ai nói cho tôi biết mình là ai.

Tôi tìm thấy một cái giỏ dưới gầm giường và gói vào đó tất cả thuốc men và một chai rượu mạnh nhỏ để chữa bệnh bao tử. Tôi làm sáu chiếc bánh sandwich và rút chiếc dù của mình ra. Tôi đang chuẩn bị ra đi, khỏi nhà.

Qua nhiều năm, nhiều thứ đã tích tụ trên sàn nhà của tôi. Có rất nhiều thứ bạn không bao giờ thèm nhặt, và có rất nhiều lý do để không nhặt chúng lên. Những đồ vật này nằm rải rác khắp nơi giống như bao hòn đảo, một quần đảo chứa đầy những thứ thất lạc và không cần thiết. Theo thói quen, tôi bước qua chúng và đi vòng quanh chúng, chúng tạo cho những bước đi hàng ngày quanh phòng của tôi một sự phấn khích nhất định, đồng thời có một cảm giác lặp đi lặp lại và lâu dài. Tôi quyết định rằng chúng không cần thiết nữa. Tôi lấy một cây chổi và quét qua căn phòng.

Mọi thứ, những mẩu thức ăn thừa, những chiếc dép bị mất, những mẩu lông tơ, những viên thuốc đã lăn vào góc nhà, những danh sách mua hàng bị bỏ quên, những chiếc thìa, nĩa, những chiếc cúc áo và những lá thư chưa mở, tôi đều chất thành một đống. Từ đống lớn này, tôi chọn ra tám cặp kính và bỏ chúng vào giỏ: Mình sẽ được ngắm nhìn những thứ hoàn toàn mới, tôi nghĩ.

Thung lũng bây giờ đã khá gần, chỉ ngay góc đường, và tôi có cảm giác rằng thậm chí còn chưa phải là Chủ nhật.

Vào thứ Sáu hoặc thứ Bảy, tôi rời khỏi nhà và đương nhiên tôi không thể không viết lời chia tay “Bây giờ tôi sắp đi xa và tôi cảm thấy ổn”, tôi viết. “Tôi đã nghe tất cả nhiều chuyện trong một trăm năm qua bởi vì tôi không hề bị điếc và tôi biết có những bữa tiệc luôn được tổ chức một cách lén lút”. Không có chữ ký.

Rồi tôi mặc áo choàng và đi tất dày, cầm chiếc giỏ nhỏ lên, mở cửa rồi đóng lại sau lưng, đóng lại  một trăm năm tuổi. Được củng cố bởi quyết tâm và tên mới của mình, tôi  tiến về phía bắc tới Thung lũng Hạnh Phúc và không ai trong vịnh biết rằng tôi đã đi.

Những chiếc lá đỏ và vàng nhảy múa quanh đầu tôi và từ xa trên những ngọn đồi lại một trận mưa mùa thu trút xuống để cuốn trôi những thứ mà tôi không muốn nhớ đến.”

(Tove Jansson – Moomivalley in November)

How the Vikings became skilled shipbuilders, navigators and seamen?

(Làm thế nào người Viking trở thành thợ đóng tàu, hoa tiêu và thủy thủ lành nghề?)

By Bertil Almgren

3.

Chúng ta biết đến những thương nhân này qua câu chuyện về một người Na Uy tên là Ottar, hay Ohthere, đến từ Halgoland ở cực bắc Na Uy, nơi người Lapps sinh sống. Ông mô tả cuộc đời của mình cho Vua Alfred của Wessex và Alfred đã viết lại câu chuyện của mình:“ Ông ta (Ottar) rất giàu, một sự giàu có trong những thứ của họ (tức là những người Scandinavi) bao gồm, tức là, động vật hoang dã.”

Khi đến gặp nhà vua (Alfred), ông vẫn còn 600 con vật thuần hóa chưa bán được. Ông gọi những con vật đó là tuần lộc, và trong số đó có sáu con tuần lộc làm mồi, rất đắt tiền ở người Lapps, vì chúng dùng để bắt tuần lộc hoang dã.

Ông là một trong những người đàn ông vĩ đại nhất ở khu vực lân cận đó, vậy mà ông ấy chỉ có hai mươi con bò, hai mươi con cừu và hai mươi con lợn, và ông  cày cấy rất ít và nếu có thì ông ấy cày bằng ngựa. Và hầu hết thu nhập của ông ấy đến từ thuế mà người Lapps trả cho ông  bao gồm da thú vật, lông chim, xương cá voi và dây thừng làm từ da cá voi và hải cẩu. Mọi người đều trả tiền tùy theo vị trí của mình trong cuộc sống.

Những người thuộc dòng dõi cao quý nhất phải trả mười lăm con chồn marten, năm con tuần lộc, một bộ da gấu và mười bó lông vũ, một con gấu hoặc rái cá và hai sợi dây tàu, mỗi dây dài 20 feet, một dây làm bằng da cá voi và một dây da hải cẩu.

“Ở một nơi khác, chúng ta được biết về chuyến thám hiểm của Ottar tới Biển Trắng, trên bờ biển cực bắc của Na Uy, nơi ông ta nắm giữ ngà hải mã, giống như các bài báo đã đề cập, lông thú, lông vũ và dây thừng, có nhu cầu lớn ở miền nam châu Âu.

Hàng năm ông rời Na Uy với hàng hóa quý giá của mình để đến thị trấn thương mại Hedeby ở Đan Mạch, một chuyến đi khoảng 1.600 dặm mỗi chiều. Tại Hedeby, ông gặp các thương nhân từ các quốc gia khác – chủ yếu là Tây Âu – để mang về nhà những mặt hàng xa xỉ hấp dẫn như rượu vang, lụa và các vật liệu đắt tiền khác, vàng và bạc.

Những chuyến đi dài và khó khăn không kém đã được các thương nhân Thụy Điển thực hiện trên các con sông của Nga, đến tận Byzatium, thủ đô của Đế chế Byzatine. Có một mô tả đương thời về những khó khăn của tuyến đường này, được viết bởi Hoàng đế Constantine Porphyrogenitus.

Anh ta kể về những chuyến đi của những người buôn bán trên sông Dnieper với hàng hóa của họ và cách họ đàm phán về sự nguy hiểm của những thác nước lớn. Họ vượt qua những thác nước nhỏ hơn bằng cách bắt các thủy thủ nhảy xuống nước và kéo tàu cẩn thận qua những nơi nguy hiểm.

Nhưng đến thác nước thứ năm phải được vượt qua như sau: “Tại những thác nước này, tất cả các tàu đều dừng lại, đuôi tàu hướng vào bờ, những thủy thủ được chọn canh gác sẽ lên bờ và di chuyển tới các vị trí của họ, và họ luôn cảnh giác cao độ vì người Pechenegs (một bộ tộc cướp ở miền nam nước Nga). Nhưng những người khác đưa hàng hóa lên bờ và cả những nô lệ, những người bị xiềng xích, và đi bộ sáu dặm cho đến khi vượt qua thác nước.

Sau đó, họ đưa thuyền vượt thác, một phần bằng cách kéo, một phần bằng cách vác trên vai. Ở đó họ bắt đầu và tiếp tục cuộc hành trình của mình. “Tuyến đường có độ dài tương đương với hành trình từ phía bắc Na Uy đến Hedeby, nhưng mệt mỏi và nguy hiểm hơn nhiều vì nó đi qua những khu vực có dân cư thù địch.

Hoàng đế Constantine nói về một điều khoản khác ngoài những điều đã được đề cập: nô lệ. Chúng tôi không biết từ đâu hoặc bằng cách nào mà các thương nhân Viking có được món hàng được nhiều người thèm muốn này. Có thể giả định rằng họ hoặc là bắt nô lệ làm tù binh trong chiến tranh, hoặc là bắt trong các cuộc săn lùng nô lệ.

Vào thời điểm đó, Hedeby có một thị trường nô lệ nổi tiếng thế giới, nơi các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo đôi khi phải đau buồn khi chứng kiến ​​​​những người đồng đạo của họ bị đem ra bán. Ngay từ rất sớm, các khu định cư của người Thụy Điển đã được xây dựng ở các nước vùng Baltic và ở Nga. Đây là những trạm giao dịch có chức năng như những mắt xích trong chuỗi giao thông hướng đông.

Ở khu vực này, những người buôn bán trở thành người định cư đơn giản vì hoạt động buôn bán của họ đòi hỏi điều đó chứ không phải chủ yếu là để xâm chiếm một vùng đất mới. Tuy nhiên, nhu cầu về vùng đất mới là lý do tại sao rất nhiều người dân thuộc địa Na Uy đã đến các đảo Đại Tây Dương.

Một số chạy trốn khỏi chế độ hà khắc của Vua Harald Fairhair (860-930 sau Công nguyên), nhưng hầu hết họ đều rời bỏ đất nước của mình vì đất đai ở Na Uy cực kỳ thiếu thốn. Họ rời đi với tất cả tài sản có thể di chuyển và gia súc và cố gắng kiếm sống bằng nghề định cư ở nước ngoài. Nhưng ngay cả ở nước ngoài, lịch sử cũng lặp lại. Vấn đề đất đai lại thường xuyên ập đến với họ.

Ví dụ, ở Iceland, quá trình thuộc địa hóa nghiêm trọng bắt đầu vào khoảng năm 874 sau Công nguyên và các cuộc di cư tiếp tục cho đến năm 930. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn này, tất cả đất đai có thể sử dụng được đều bị chiếm hữu. Điều này buộc nhiều người phải tiếp tục đến Greenland.

Ở Tây Âu, tức là ở Quần đảo Anh và Pháp, người Viking – đặc biệt là người Đan Mạch và người Na Uy – đóng ba vai trò của họ cùng một lúc. Đối với con mắt hiện đại, có vẻ đáng ngạc nhiên khi giao thông thương mại có thể tiếp tục bất chấp các hoạt động quân sự, và còn đáng ngạc nhiên hơn nữa là người Frank đã bán cho người Viking những vũ khí mà họ có thể chắc chắn rằng họ sẽ bị tấn công.

Tại một cuộc họp của người Frank do Hoàng đế Charles the Bald tổ chức tại Pitre vào tháng 6 năm 864, người Frank đã phải chính thức bị cấm bán vũ khí và ngựa cho người Bắc Âu . Vào năm 871, một trường hợp khác xảy ra về việc kinh doanh được ưu tiên hơn phòng thủ. Người Viking đã thường xuyên lui tới đảo Noirmoutier ở cửa sông Loire trong nhiều năm.

Người Frank đã phát hiện ra rằng họ có thể chuyển dòng sông sang một lòng sông khác, làm cho thuyền của kẻ thù mắc cạn và khiến chúng sẵn sàng tấn công. Điều này khiến người Viking sợ hãi đến mức họ phải đầu hàng, và có lần chính họ đã trả tiền cho Charles the Bald để gia tăng cuộc bao vây và để họ ra đi một cách an toàn.

Tuy nhiên, họ đã yêu cầu và nhận được sự cho phép ở lại đến tháng 2 để kinh doanh như họ đã lên kế hoạch. Charles đã cho phép, và sau đó, tất nhiên, người Viking ít nhất cũng được dung thứ. Tuy nhiên, với tư cách là những chiến binh, họ lo sợ vì sự tàn ác của mình: “Hãy giải thoát chúng tôi khỏi sự phẫn nộ của người Bắc Âu,” họ cầu nguyện trong các nhà thờ Frankish;

“Họ tàn phá đất đai của chúng tôi và giết hại phụ nữ, trẻ em và thậm chí cả người già”. Quả thực, họ đã giết chóc và tàn phá, nhưng có đội quân nào chưa làm điều đó ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào? Điều tự nhiên là những người theo đạo Cơ đốc nên coi đó là sự trừng phạt của Chúa khi các nhà thờ và tu viện của họ bất ngờ bị tàn phá và cướp bóc bởi những kẻ ngoại giáo, những kẻ đến như một tia sét từ trời xanh.

Có lý do chính đáng giải thích tại sao những cuộc tấn công chớp nhoáng này lại có thể khủng bố các quốc gia Tây Âu trong thời gian dài như vậy. Mặc dù những con tàu của người Viking có kích thước tương đương với những chiếc thuyền buồm nhỏ hiện đại, nhưng sống tàu của chúng thường cách mặt nước chưa đầy 40 inch.

Bài viết đến đây đã dài. Thôi mình để chuyện anh thợ thuyền, cô tiểu thư và dự án đóng thuyền của họ đến thứ Sáu nha các bạn. Cho nó máu :))).

Have you all a wonderful night!

You may also like

Để lại bình luận