Xin chào 2024 (4)

by Rose & Cactus

Tháng Một vừa tới lại sắp đi được một nửa chặng đường, Tết Tây chưa qua bao lâu thì Tết ta đã lại sầm sập đến. Dường như giờ đây quyển lịch chỉ có yếu tố trang trí vì  thời tiết và mật độ dòng người trên đường dường như đã cho ta biết rằng Tết ấy đang đến rất gần rồi.

Mấy hôm trước mình và con lượn lờ chỗ đường sách mới mở, chán chê thấy nàng ra cầm có (lại) mấy quyển truyện tranh. Mình bảo sao con không lấy thêm vài cuốn khác ? Thôi, con sợ mẹ tốn tiền :))). Ở đây gần thích rẽ vào lúc nào chẳng được. Khi nào đi làm có tiền con sẽ mua tùy thích!

Ối giời, đợi đến lúc chị ý đi làm chắc là  Tết công gô :)). Mà thôi biết thương mẹ thế cũng được, mới đầu năm chưa cần kích cầu tăng GDP :)).

Quay trở lại câu chuyện kinh tế của chúng ta, trong 430 tỷ USD quy mô GDP của Việt Nam  năm 2023 thì khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp khoảng 160 tỷ USD, chiếm 37% (nếu chỉ xét riêng lĩnh vực sản xuất là 28%).

Tính từ năm 2012, tức hơn 10 năm trở lại đây tỷ lệ này luôn dao động trong khoảng 35-38%. Nhìn sang các nền kinh tế tương đối tương đồng với chúng ta như Thái Lan hay Malaixia, con số cũng ở mức xấp xỉ 40%.

Với Trung Quốc tỷ lệ này là 40-45% trong khi Nhật Bản và Mỹ là những nền kinh tế phát triển cao, khu vực công nghiệp nhường vị trí thống lĩnh cho ngành dịch vụ, khi nó chỉ chiếm từ 25-28%.

Như vậy có thể thấy mỗi quốc gia khi muốn đạt tới trình độ phát triển cao thì ban đầu luôn phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, nói cách khác nếu không xây dựng được một nền sản xuất vững mạnh thì mãi chúng ta sẽ chỉ dậm chân tại chỗ, ở mức trung bình khá là tốt lắm rồi. Cái mà các nhà phân tích chính sách gọi bằng cái tên “bẫy thu nhập trung bình”, tức GDP sau một thời gian tăng trưởng sẽ bị chững lại và nằm yên ở mức đó mà không thể đột phá để đưa nền kinh tế biến đổi về chất, sang một tầm cao hơn.

Vậy tại sao  Sản xuất (Manufacturing) lại quan trọng thế ?

Chúng ta biết rằng sản xuất là việc tạo ra hàng hóa với sự trợ giúp của thiết bị, lao động, máy móc, công cụ nhờ vào một chu trình có tính công thức về mặt hóa học hay  sinh học. Thuật ngữ này có thể đề cập đến một loạt hoạt động của con người, từ thủ công đến công nghệ cao, nhưng nó được áp dụng phổ biến nhất cho kiểu dáng công nghiệp.

Về cốt lõi, sản xuất liên quan đến việc chuyển đổi nguyên liệu thô thành sản phẩm hoàn chỉnh thông qua một loạt quy trình cẩn trọng. Từ ô tô đến điện thoại thông minh, mọi sản phẩm chúng ta sử dụng hàng ngày đều là kết quả của quá trình lập kế hoạch, thiết kế, sản xuất và kiểm soát chất lượng tỉ mỉ. Quá trình sản xuất bao gồm nhiều hoạt động đa dạng, từ nghiên cứu và phát triển, kỹ thuật, lắp ráp, đóng gói và phân phối.

Sản xuất đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (growth) và đổi mới (innovation). Từ việc tạo ra những hàng hóa thiết yếu đến những tiến bộ công nghệ mang tính đột phá, ngành sản xuất là đòn bẩy cho nhiều lĩnh vực khác, tạo ra nhiều việc làm  và đóng góp đáng kể vào sự thịnh vượng toàn cầu.

Bằng cách thúc đẩy đổi mới và tiến bộ công nghệ, các ngành sản xuất sẽ nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế tổng thể, có tác động sâu sắc đến toàn xã hội.

Mình cứ lấy ví dụ đơn giản thế này đi, một loại dược phẩm đặc trị bệnh A nào đó, nếu làm thương mại bạn chỉ việc nhập vào và bán ra. Rất đơn giản và vì vậy cái bạn đóng góp được cho xã hội chỉ  là tạo công ăn việc làm cho  một số lượng lao động nhỏ (bán thuốc). Nhưng nếu bạn tiến hành sản xuất thì:

Đầu tiên bạn cần xây dựng nhà xưởng, lúc này các anh bán vật liệu xây dựng cho bạn  sẽ mừng hết xảy vì các ảnh có doanh thu 

tiếp đến các bạn phải nhập máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất để sản xuất là loại thuốc đó: Như vậy là ngành cơ khí chế tạo máy lại phải cám ơn bạn

Rồi nữa, bạn phải nhập nguyên vật liệu đầu vào hoặc phải xây dựng vùng nguyên vật liệu cho riêng sản phẩm của mình: Điều này gián tiếp lại khiến ngành nông nghiệp địa phương đi lên 

Rồi bạn phải tiến hành nghiên cứu và phát triển nữa chứ: Cái này đặc biệt quan trọng, vì sản phẩm phải không ngừng được cải tiến để nâng cao giá trị hoặc sản phẩm cũ lạc hậu rồi thì phải nghiên cứu ra sản phẩm mới thay thế. Điều này không thể có được trong thương mại mà chỉ có thể phát sinh trong quá trình bạn mày mò, thực hiện việc chế tạo ra sản phẩm. Tức là phải bắt tay vào làm thì mới nảy sinh ra những sáng kiến, những cải tiến mới. Cho nên các bạn thấy các nhà sản xuất công nghiệp, các nhà phát minh sáng chế họ gần như suốt ngày trực tiếp ở phòng thí nghiệm hay xưởng sản xuất. Một sản phẩm ra đời từ lúc lên ý tưởng trên giấy đến khi thành hình là cả một quá trình dài.

Điểm sơ thì thấy sản xuất quá tuyệt vời đúng không các bạn ? Nhưng làm nó không dễ dàng đâu, khó hơn thương mại rất nhiều bởi sự phức tạp trong quy trình và vận hành, chi phí lớn nhưng rủi ro cao.  Nhìn đâu cũng thấy rủi ro, về thị trường, về nguyên liệu, về sản phẩm, về ảnh hưởng của các chính sách quản lý ….nên không phải ai cũng đủ can đảm, dũng khí, sự kiên trì và tiềm lực để đeo đuổi ngành sản xuất.

Và vì vậy mới rất cần đến bàn tay của nhà nước ở tầm vĩ mô: Nhà nước cần có chính sách ưu tiên nâng đỡ khu vực sản xuất như: Đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển; ưu đãi về thuế, phí cho các doanh nghiệp sản xuất; tạo môi trường làm việc cởi mở và  trân trọng đãi ngộ các nhà khoa học bằng lương thưởng  tránh chảy máu chất xám, nhất là ở những ngành khoa học cơ bản…Các bạn đọc thì thấy rồi đó ngay cả ở những nước phát triển hoặc đầy ưu thế như Hoa Kỳ hay Trung Quốc, Chính phủ của họ cũng có những chính sách công nghiệp nhằm khuyến khích, thúc đẩy và cả bảo hộ cho  sản xuất trong nước một cách rất mạnh mẽ.

Một đất nước có nhiều doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm cốt lõi cho đời sống sẽ tạo ra một hệ sinh thái sản xuất và dịch vụ bao quanh nó. Và từ đó thúc đẩy khoa học  cùng  nền kinh tế phát triển.

Còn nếu không, tất nhiên rồi, ta sẽ có điều ngược lại.

Các kỹ thuật viên thử nghiệm vật liệu mới tại phòng thí nghiệm nghiên cứu của Công ty Vật liệu mới Shuxiang Ninh Ba ở Ninh Ba, Trung Quốc. AFP/Getty Images

Sự phát triển lịch sử của kỹ thuật sản xuất

Qua nhiều thế kỷ, kỹ thuật sản xuất đã phát triển đáng kể, được thúc đẩy bởi sự khéo léo của con người và nhu cầu xã hội. Từ những kỹ thuật ban đầu như thủ công và rèn cho đến sự ra đời của Cách mạng Công nghiệp, ngành sản xuất đã liên tục thích nghi với bối cảnh toàn cầu đang thay đổi.

Cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu từ thế kỷ 18 đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử sản xuất. Nó mang lại sự cơ giới hóa các quy trình sản xuất, dẫn đến tăng hiệu quả và sản xuất hàng loạt hàng hóa. Thời đại này chứng kiến ​​sự trỗi dậy của các nhà máy chạy bằng động cơ hơi nước và máy móc chạy bằng năng lượng, đã cách mạng hóa hoạt động sản xuất trên quy mô lớn.

Kể từ đó, sản xuất đã trải qua nhiều biến đổi. Vai trò của tự động hóa và robot tiếp tục cách mạng hóa nền sản xuất hiện đại. Những công nghệ này nâng cao hiệu quả, độ chính xác và tốc độ, cho phép nhà sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng trong khi vẫn đảm bảo sản phẩm chất lượng cao.

Các xu hướng chính, chẳng hạn như in 3D, Internet vạn vật (IoT) và trí tuệ nhân tạo (AI), đang định hình tương lai của ngành sản xuất, mang đến những cơ hội tuyệt vời cho sự phát triển và đổi mới.

Với sự ra đời của in 3D, còn được gọi là sản xuất phụ trợ, bối cảnh sản xuất đã được cách mạng hóa hơn nữa. Công nghệ này cho phép tạo ra các thiết kế phức tạp và tùy chỉnh mà không gặp khó khăn trong sản xuất truyền thống. Nó có khả năng phá vỡ chuỗi cung ứng truyền thống, giảm chất thải và cho phép sản xuất theo yêu cầu.

Trong 50 quốc gia hàng đầu tính theo tổng giá trị sản lượng sản xuất trong năm do Ngân hàng Thế giới công bố, Việt Nam chúng ta đứng ở vị trí 24. Bạn thấy thế nào, mình thì cũng có chút ngạc nhiên đấy. Vì không ngờ chúng ta cũng đạt được thứ hạng cao như vậy.

Một vài ví dụ thế này để các bạn dễ hình dung vì sao điều này lại đúng: Trên thế giới, tại bất kỳ văn phòng làm việc nào, cứ 3 máy tính đang hoạt động, ít nhất1 chiếc có “bộ não” – CPU, được xuất xưởng từ TP HCM; trên đường phố bất cứ đâu, New York chẳng hạn, cứ 10 người qua lại thì có một người mang giày được sản xuất ở một nhà máy nào đó ở Việt Nam.

Tuy nhiên, khoan vội mừng. Hãy phân tích sâu vào các con số thể hiện giá trị hàng hóa xuất khẩu và chúng ta sẽ thấy có một  vài sự trúc trắc đáng suy ngẫm ở đây. Đó là cái gì thì chúng ta sẽ có câu trả lời khi  tìm hiểu về một số ngành công nghiệp giữ vị trí chủ chốt trong từng giai đoạn phát triển ở bất cứ quốc gia nào.

NGÀNH DỆT MAY

Dệt may là lĩnh vực có bước biến chuyển mạnh mẽ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất tại Anh Quốc. Thế cho nên người ta còn gọi đó là Thời đại của bông, sắt và năng lượng nước.

Có thể nói qua về thời kỳ này:

Cuối thế kỷ 18, đã có sự chuyển đổi trong một số bộ phận lao động chân tay và nền kinh tế dựa trên sức người trước đây của Vương quốc Anh sang sản xuất dựa trên máy móc. Khởi đầu với việc cơ giới hóa các ngành dệt may, phát triển kỹ thuật sản xuất sắt và tăng cường sử dụng than tinh luyện. Việc mở rộng thương mại được thực hiện nhờ sự ra đời của kênh đào, đường bộ và đường sắt được cải thiện. Các nhà máy đã kéo hàng nghìn người từ công việc năng suất thấp trong nông nghiệp sang công việc năng suất cao ở thành thị.

Dệt may được xác định là chất xúc tác cho những thay đổi công nghệ và do đó nó có tầm quan trọng trong Cách mạng Công nghiệp. Việc ứng dụng năng lượng hơi nước đã kích thích nhu cầu về than. Nhu cầu về máy móc và đường ray đã kích thích ngành công nghiệp sắt.

Nhu cầu vận chuyển để vận chuyển nguyên liệu thô vào và thành phẩm ra ngoài đã kích thích sự phát triển của hệ thống kênh đào và (sau năm 1830) hệ thống đường sắt. Sự ra đời của năng lượng hơi nước chủ yếu chạy bằng than, sử dụng rộng rãi bánh xe nước và máy móc chạy bằng năng lượng trong sản xuất dệt may đã củng cố sự gia tăng mạnh mẽ năng lực sản xuất.

Sự phát triển của máy công cụ hoàn toàn bằng kim loại trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất nhiều máy móc phục vụ sản xuất trong các ngành công nghiệp khác. Những ảnh hưởng lan rộng khắp Tây Âu và Bắc Mỹ trong thế kỷ 19, cuối cùng ảnh hưởng đến hầu hết thế giới.

Việc phát minh ra tàu con thoi bay của John Kay cho phép dệt vải rộng hơn nhanh hơn nhưng cũng tạo ra nhu cầu về sợi không thể đáp ứng được. Do đó, những tiến bộ công nghệ quan trọng gắn liền với Cách mạng Công nghiệp đều liên quan đến việc kéo sợi.

James Hargreaves đã tạo ra máy quay jenny, một thiết bị có thể thực hiện công việc của một số bánh xe quay. Tuy nhiên, trong khi phát minh này có thể được vận hành bằng tay thì khung nước do Richard Arkwright phát minh có thể được cung cấp năng lượng bằng bánh xe nước. Arkwright được ghi nhận là người đã giới thiệu rộng rãi hệ thống nhà máy ở Anh và là ví dụ đầu tiên về chủ nhà máy và nhà công nghiệp thành công trong lịch sử nước Anh.

Tuy nhiên, khung nước nhanh chóng được thay thế bằng con la quay (sự kết hợp giữa khung nước và jenny) do Samuel Crompton phát minh. Những con la sau đó được chế tạo bằng sắt.

Trong khoảng thời gian từ những năm 1770 đến những năm 1820, nước Anh đã trải qua một quá trình thay đổi kinh tế nhanh chóng, chuyển đổi một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Những thay đổi này có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài trên nhiều khu vực của nước Anh, cuối cùng ảnh hưởng đến toàn bộ thế giới.

Động cơ hơi nước được phát minh và trở thành nguồn cung cấp năng lượng nhanh chóng vượt qua thác nước và mã lực. Động cơ hơi nước thực tế đầu tiên được phát minh bởi Thomas Newcomen và được sử dụng để bơm nước ra khỏi mỏ. Một động cơ hơi nước mạnh hơn nhiều đã được phát minh bởi James Watt. Nó có một động cơ pittông có khả năng cung cấp năng lượng cho máy móc.

Các nhà máy dệt chạy bằng hơi nước đầu tiên bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ 18, góp phần to lớn vào sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của các thị trấn công nghiệp. Sự tiến bộ của thương mại dệt may đã sớm vượt xa nguồn cung cấp nguyên liệu thô ban đầu. Vào đầu thế kỷ 19, bông Mỹ nhập khẩu đã thay thế len ở vùng Tây Bắc nước Anh, mặc dù len vẫn là vật liệu dệt chính ở Yorkshire.

Mức độ tăng trưởng kinh tế chưa từng có như vậy không chỉ được duy trì bởi nhu cầu trong nước. Việc áp dụng công nghệ và hệ thống nhà máy đã tạo ra mức độ sản xuất hàng loạt và hiệu quả chi phí cho phép các nhà sản xuất Anh xuất khẩu vải và các mặt hàng khác giá rẻ ra toàn thế giới.

Vị thế của nước Anh với tư cách là nhà kinh doanh ưu việt trên thế giới đã giúp tài trợ cho nghiên cứu và thử nghiệm. Hơn nữa, một số người đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên hoặc tài chính mà Anh nhận được từ nhiều thuộc địa ở nước ngoài hoặc lợi nhuận từ việc buôn bán nô lệ của Anh giữa Châu Phi và Caribe đã giúp thúc đẩy đầu tư công nghiệp.

Một tàu lặn biển sâu chuẩn bị khám phá xác tàu Titanic ở Bắc Đại Tây Dương. Con tàu bị mất tích, mở ra một cuộc tìm kiếm kéo dài nhiều ngày thu hút sự chú ý của quốc tế. Câu chuyện kết thúc một cách bi thảm khi có thông báo rằng chiếc tàu lặn đã trải qua một “vụ nổ thảm khốc” và cả 5 người trên tàu đều thiệt mạng.
AFP/Getty Images

Các nước công nghiệp tiên tiến thế giới đều bắt đầu bằng ngành dệt may, sau đó tìm cách đi lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị. 

Và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ khi tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may luôn chiếm đâu đó loanh quanh 10% giá trị sản lượng xuất khẩu. Một ví dụ có thể thấy là dù năm 2023 là một năm đầy khó khăn, đặc biệt với ngành may mặc do các đơn hàng giảm sút (tăng trưởng -11,6%) thì nó vẫn đạt doanh số xuất khẩu 33,2 tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 355 tỷ USD chung và sử dụng 2,5 triệu lao động.

Tuy nhiên, giá trị gia tăng của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam còn thấp trong chuỗi giá trị xuất khẩu mặt hàng này.

Chúng ta cùng đọc bài phân tích dưới đây để biết thêm chi tiết:

Phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam

(Tiến sĩ Hà Văn Hội )

Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là quy luật tất yếu. Mỗi sản phẩm được tạo ra đều có giá trị bao gồm một xâu chuỗi mắt xích nhiều giá trị kết nối tạo nên. Trong bối cảnh hội nhập, các mắt xích tạo nên giá trị cuối cùng của một sản phẩm đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia – lãnh thổ, hoặc một sản phẩm thuần túy ra đời tại một địa phương cụ thể nhưng vẫn mang giá trị toàn cầu.

Dệt may Việt Nam cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân đã tích cực tham gia vào thị trường thế giới. Mặc dù trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam có tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu tương đối lớn với kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai sau dầu mỏ – khí đốt nhưng giá trị gia tăng và lợi nhuận thu được lại thấp.

Chuỗi giá trị có thể được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý hoặc trải rộng trong phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị toàn cầu (global value chain). Theo cách nhìn này, các doanh nghiệp từ nhiều quốc gia trên thế giới sẽ đóng vai trò như những mắt xích quan trọng và có thể chi phối sự phát triển của chuỗi giá trị.

Việc phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo quan điểm chuỗi giá trị chính là một phương pháp hữu hiệu để đánh giá tốt nhất năng lực cạnh tranh cũng như vai trò và phạm vi ảnh hưởng của quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu  

Đối với ngành dệt may, quan hệ theo chiều dọc của ngành này được biểu hiện dưới dạng chuỗi giá trị như sau:

Sản xuất nguyên vật liệu – Dệt vải – Nhuộm, in vải – Cắt may – Phân phối sản phẩm dệt, may

Trong chuỗi giá trị trên, các giai đoạn sản xuất nguyên liệu, kéo sợi, dệt vải, nhuộm, in vải được gọi là nguồn nguyên liệu đầu vào. Đây cũng chính là các ngành công nghiệp phụ trợ và có liên quan chặt chẽ đến ngành cắt may.

Còn các giai đoạn cắt may, phân phối hàng may được coi là các công đoạn sản xuất và phân phối sản phẩm. Công đoạn này có vai trò tác động ngược trở lại các công đoạn đầu và được coi là là “động lực” thúc đẩy các công đoạn đầu phát triển.

Trên thực tế, mặc dù không nhất thiết cần phát triển tất cả các khâu trong hệ thống sản xuất dệt may một cách đồng đều, song nếu tạo ra được mối liên hệ hữu cơ giữa các khâu trong những điều kiện sẵn có thì sẽ có tác động rất lớn trong việc đảm bảo tính chủ động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường nội địa và thế giới.

 Trong chuỗi giá trị dệt may nêu trên, sự liên kết giữa ngành dệt và ngành may được coi là một trong những liên kết quan trọng bởi vì sự liên kết giữa khâu dệt và khâu may có thể góp phần nâng cao chất lượng nguyên liệu các doanh nghiệp may do ngành dệt có thể bám sát hơn nhu cầu của ngành may về các loại nguyên liệu.

Đồng thời, việc tăng cường liên kết dệt may sẽ tạo điều kiện giảm chi phí do giảm chi phí trung gian, hạ giá thành sản phẩm may, tăng sức cạnh tranh của hàng may mặc do tỷ lệ nội điạ hóa được nâng cao.

Liên kết dệt – may còn có tác dụng giảm bớt nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu nước ngoài, nâng cao giá trị gia tăng, góp phần tăng ngân sách quốc gia. Bên cạnh đó, liên kết dệt – may góp phần tạo điều kiện cung cấp vải sợi ổn định, chủ động cho may hàng xuất khẩu.

Thực tế nhiều nước cho thấy, việc nhập khẩu vải sợi và phụ liệu khiến các doanh nghiệp gặp nhiều bất lợi, không chủ động được tiến độ sản xuất cũng như thời gian giao hàng. Nhiều doanh nghiệp chịu chi phí bổ sung cao do phải vận chuyển vải và phụ liệu nhập khẩu bằng đường hàng không để đảm bảo thời gian giao hàng và giữ chữ tín với đối tác.

 Tuy nhiên, việc làm này chỉ có thể là giải pháp tạm thời, về lâu dài sẽ khiến doanh nghiệp thua lỗ và bị phá sản. Vì vậy, nếu được cung cấp vải và phụ liệu từ nguồn nguyên liệu ổn định trong nước, các doanh nghiệp may sẽ giảm bớt rủi ro xuất khẩu. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp dệt.

Ngoài ra, liên kết dệt – may tạo điều kiện mở rộng thị trường ngành dệt, từ đó tăng quy mô sản xuất để đạt lợi thế về quy mô, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của hàng dệt, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng tích lũy để tiếp tục tái đầu tư cho công nghệ mới nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành may.

Xét trên góc độ chuỗi giá trị dệt may toàn cầu: khâu thiết kế kiểu dáng sản phẩm được thực hiện ở các trung tâm thời trang nổi tiếng thế giới như Paris, London, New York… Nguyên liệu chính là vải được sản xuất tại Hàn Quốc, Trung Quốc hoặc các phụ liệu khác được sản xuất tại Ấn Độ. Khâu sản xuất, gia công sản phẩm cuối cùng được thực hiện ở các nước có chi phí nhân công rẻ như Việt Nam, Trung Quốc… Các sản phẩm dệt may hoàn chỉnh sẽ được đưa ra bán trên thị trường bởi các công ty thương mại danh tiếng.

 Trong chuỗi giá trị toàn cầu hàng dệt may, khâu có lợi nhuận cao nhất là thiết kế mẫu, cung cấp nguyên phụ liệu và thương mại. Tuy nhiên, dệt may Việt Nam chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng với lượng giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị.

Theo ước tính, khoảng 90% doanh nghiệp may mặc của Việt Nam tham gia vào khâu này của chuỗi giá trị dưới hình thức gia công. Vì thế, tuy sản phẩm dệt may của Việt Nam được xuất đi nhiều nơi, Việt Nam có tên trong top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới nhưng giá trị thu về rất thấp.

Muỗi được đánh dấu bằng bột huỳnh quang phát sáng màu xanh lá cây khi chúng được kiểm tra qua kính hiển vi tại phòng thí nghiệm thực địa ở Príncipe, một hòn đảo ngoài khơi bờ biển phía tây châu Phi. Một nhóm các nhà khoa học cho rằng họ có thể sử dụng kỹ thuật di truyền để ngăn chặn loài muỗi mang mầm bệnh sốt rét lây lan bệnh.
Natalija Gormalova/The New York Times

Sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may thường tồn tại dưới bốn hình thức:

(1) gia công hoàn toàn,

 (2) sản xuất theo thiết kế có sẵn và mua nguyên phụ liệu theo chỉ định của khách hàng,

 (3) sản xuất theo thiết kế có sẵn và được toàn quyền mua nguyên phụ liệu

và (4) sản xuất trọn gói từ thiết kế đến thành phẩm.

Cho đến nay, phần lớn các nhà sản xuất sản phẩm dệt may của Việt Nam đang thực hiện các hợp đồng xuất khẩu theo loại hình thứ nhất: gia công hoàn toàn. Hình thức này còn được gọi là xuất khẩu CMT (Cuting – Making – Trimming) cho các đại lý mua hàng và cơ sở thu mua. Phần còn lại đang ở hình thức thứ hai và ba (FOB I, II). Phổ biến nhất vẫn là nhập vải, nguyên phụ liệu, sản xuất theo thiết kế của khách hàng để xuất khẩu.

Ngành may mặc của Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng bị phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Các nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam hiện đang nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Hồng Kông…, với trị giá nguyên phụ liệu nhập khẩu thường chiếm gần 70-80% so với giá trị kim ngạch xuất khẩu.

Tuy được chú trọng đầu tư về công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn nhưng nguyên liệu sản xuất trong nước hoặc không đủ cho nhu cầu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn của khách hàng nước ngoài. Đối với nhiều đơn đặt hàng, phía nước ngoài cũng chỉ định luôn nhà cung cấp nguyên vật liệu khiến cho các doanh nghiệp may Việt Nam không có điều kiện sử dụng những nguyên liệu sản xuất trong nước với giá thành rẻ hơn.

Như vậy, giá trị thực tế mà ngành may mặc thu được không hề cao so với con số kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc vận chuyển, hải quan, thiết bị, chi phí vận chuyển liên quan đến nhập khẩu nguyên liệu vào Việt Nam làm cho chi phí nguyên vật liệu ở Việt Nam cao hơn so với Trung Quốc và Ấn Độ.

Chi phí đầu vào của nguyên liệu ở Việt Nam cao hơn khoảng 25- 30% ở Trung Quốc. Vì chi phí nguyên liệu chiếm một phần lớn -45% tổng chi phí, nên đây là một bất lợi lớn cho ngành dệt may nước ta.

 Trong năm phân khúc chính của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu gồm: sản xuất nguyên liệu thô, sản xuất nguyên phụ liệu, may, xuất khẩu và phân phối bán lẻ thì ngành dệt may Việt Nam chủ yếu vẫn hoạt động ở phân khúc may – là phân khúc tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất.

Nhìn lại quá trình phát triển của chuỗi giá trị ngành dệt may, có thể thấy sự phát triển thiếu đồng bộ giữa các phân khúc trong toàn bộ chuỗi cung ứng, đặc biệt là sự yếu kém trong liên kết sợi – dệt nhuộm – may là nguyên nhân chính làm cho ngành dệt may Việt Nam không thể dịch chuyển sang các phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn.

Theo đánh giá của các chuyên gia, kết quả yếu kém này là do công đoạn dệt nhuộm của Việt Nam “đang chậm hơn các nước trong khu vực, nhất là công đoạn nhuộm, với 30% máy móc thiết bị cần khôi phục, hiện đại hóa do đã sử dụng trên 20 năm” . Sự yếu kém của khâu dệt nhuộm đã hạn chế sự phát triển của hoạt động sản xuất sợi và may mặc, do đó ảnh hưởng đến khả năng phát triển của ngành dệt may.

Điều này thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, làm hạn chế khả năng tiêu thụ sợi sản xuất trong nước. Đa số lượng sợi sản xuất ra đều xuất khẩu. 

Thứ hai, dệt nhuộm đóng vai trò quan trọng đối với ngành may vì vải là yếu tố quan trọng quyết định đến chi phí và chất lượng cuối cùng của một sản phẩm may mặc. 

Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu tại chỗ cho ngành may nhưng trên thực tế, ngành dệt nhuộm Việt Nam chưa thực hiện tốt vai trò đó.

Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam đều không hài lòng cả về số lượng lẫn chất lượng vải nội vì không đáp ứng được yêu cầu về sản xuất hàng may mặc của họ.

 Khâu trung gian là một mắt xích quan trọng của chuỗi giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Lý do chính giải thích vì sao trong hầu hết các đơn hàng dệt may từ Việt Nam mà khách hàng quốc tế lựa chọn đều thông qua các nhà trung gian là vì hiện tại, chỉ có một số ít nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam có khả năng cung cấp được các dịch vụ như nguồn nguyên liệu, thiết kế, các hoạt động hậu cần, dịch vụ trọn gói cho người mua, mà đây lại là những điều kiện tiên quyết để khách hàng trực tiếp lựa chọn nguồn hàng từ một quốc gia.

Bức ảnh này, được chụp dưới nước, cho thấy vận động viên lướt sóng người Brazil Gabriel Medina đang tập luyện ngoài khơi đảo Tahiti của Polynesia thuộc Pháp.
Ben Thouard/AFP

30 năm thất thế

“Doanh nghiệp Việt thua ngay trên sân nhà”, bà Nguyễn Thị Xuân Thúy, chuyên gia có gần 20 năm nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ, kết luận về thực trạng của ngành dệt may và da giày.

Bà Thuý cho rằng điều đáng buồn là Việt Nam từng có hệ thống chuỗi cung ứng dệt may hoàn chỉnh nhưng ngày nay lại lép vế. Trước đây, ngành dệt may xuất khẩu cả áo quần lẫn vải sản xuất trong nước. Nhưng công cuộc hội nhập kinh tế đã đưa ngành này đến một khúc quanh mới: đổ xô vào gia công, dựa trên lợi thế so sánh lớn nhất là giá nhân công.

Bà Thuý phân tích đó là lựa chọn đúng đắn vào thời điểm mở cửa thu hút FDI, bởi Việt Nam khi ấy tụt hậu về công nghệ nên đương nhiên không thể cạnh tranh về chất lượng sợi, vải so với Nhật Bản, Hàn Quốc. Nhưng vấn đề là trạng thái thất thế về nguyên vật liệu kéo dài suốt 30 năm qua.

“Lúc đầu, chúng ta chấp nhận dùng vải nước ngoài, nhưng lẽ ra phải tiếp tục nuôi dưỡng ngành dệt, sợi trong nước, học hỏi công nghệ với mục tiêu bắt kịp họ”, bà Thuý nói và cho rằng chính dệt may đã tự chặt đứt các mắt xích trong chuỗi cung ứng của mình.

Theo chuyên gia Thuý, những lỗ hổng trong chuỗi cung ứng của doanh nghiệp chỉ thật sự lộ ra hậu quả khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA, CPTPP. Muốn được hưởng ưu đãi thuế khi xuất khẩu, hàng may mặc “made in Việt Nam” phải đảm bảo nguyên liệu cũng xuất xứ trong nước. Doanh nghiệp chỉ may gia công nay nhận “bàn thua” vì phụ thuộc hoàn toàn vào vải nước ngoài.

“Người hưởng lợi từ các hiệp định cuối cùng lại là doanh nghiệp FDI vì họ có nguồn lực lớn, đầu tư đồng bộ hoàn thiện chuỗi sợi – dệt – may”, bà Thuý phân tích. Trong giai đoạn 2015-2018, ngay trước khi EVFTA và CPTPP có hiệu lực, Việt Nam chính là nước đón FDI nhiều nhất từ nhà đầu tư dệt may Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc.

Theo chuyên gia, lỗi này không chỉ của nhà nước mà còn do doanh nghiệp.

Các nước công nghiệp tiên tiến thế giới đều bắt đầu bằng ngành dệt may, sau đó tìm cách đi lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị. Ví dụ, Đức vẫn duy trì hoạt động nghiên cứu các loại vật liệu, công nghệ dệt mới ứng dụng trong dệt may. Mỹ nhiều thập kỷ qua giữ vai trò là nước cung ứng bông, sợi cotton lớn nhất thế giới, Chính phủ duy trì trợ cấp cho nông dân trồng bông. Nhật suốt nhiều năm làm chủ các công nghệ vải như giữ nhiệt, làm mát, chống nhăn… ứng dụng trong thời trang cao cấp.

“Tất cả những gì mang đến giá trị cao nhất, cốt lõi, họ đều giữ lại cho đất nước mình”, chuyên gia Thúy đúc kết.

Trong khi đó, Việt Nam trong suốt 35 năm thu hút FDI gần như lãng phí thời gian vàng. Năm 1995, khi Mỹ – Việt bình thường hóa quan hệ, cũng là thời điểm ngành dệt may bùng nổ. Tuy nhiên, ba thập kỷ qua ngành chỉ làm tốt gia công may, không đầu tư vào nghiên cứu phát triển, sản xuất vải…

“Chính sách đã không nhìn xa và doanh nghiệp quá tập trung vào cái lợi trước mắt”, chuyên gia nói.

Ban đầu, dệt may Việt Nam vẫn đi theo xu hướng chuỗi, tức các doanh nghiệp đều có nhà máy dệt, sản xuất sợi, may. Tuy nhiên, khi đơn hàng xuất khẩu quá lớn, khách hàng chỉ muốn đặt gia công may thì doanh nghiệp Việt bỏ luôn các công đoạn khác. Chỉ còn một số ít tập đoàn nhà nước được đầu tư đồng bộ từ hàng chục năm trước như Thành Công, các công ty thành viên của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) là còn làm chủ chuỗi cung ứng.

Tình trạng này dẫn đến cán cân lệch pha hiện nay: tổng số doanh nghiệp kéo sợi, dệt, nhuộm vải, và các ngành phụ trợ liên quan cộng lại mới bằng hơn nửa lượng công ty may, theo số liệu từ Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS).

(Vnexpress)

Hàng trăm người ném ủng Wellington – ủng đi mưa bằng cao su được gọi là “wellies” – khi chúng phá kỷ lục Guinness thế giới bất thường ở Ratheniska, Ireland. Có 995 người ném ủng cùng một lúc.
Niall Carson/AP

Công nghiệp sợi, dệt và may mặc

Kei Takeuchi

Từ cuối Thế chiến thứ hai cho đến những năm 1960, chính ngành dệt may đã mang lại cho Nhật Bản danh tiếng lớn về xuất khẩu. Thông qua thị trường nước ngoài, ngành công nghiệp này đã hoàn thành chức năng lịch sử là thu được ngoại tệ, vốn rất quý giá vào thời đó.Gần đây, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chi phí lao động trong lĩnh vực này ngày càng tăng cao, trong khi sự cạnh tranh với các nước NIES ngày càng khốc liệt.

Ngành dệt may Nhật Bản mất khả năng cạnh tranh ở nước ngoài, lực lượng xuất khẩu chính đã chuyển sang các ngành khác. Đặc biệt kể từ cuối những năm 1980, khi đồng Yên bắt đầu tăng giá đều đặn, các sản phẩm dệt may đã được nhập khẩu vào Nhật Bản. Nhập khẩu các sản phẩm sợi hiện đã bắt đầu vượt quá xuất khẩu. Hơn nữa, một số công ty Nhật Bản trong lĩnh vực này đã xây dựng cơ sở sản xuất hoặc đặt gia công ở nước ngoài và hiện họ đang thực hiện nhập khẩu ngược hàng hóa vào Nhật Bản.

Sản xuất trong toàn ngành dệt may đạt đỉnh điểm vào giữa những năm 1970 và sau đó đã giảm sút. Năng suất lao động luôn ở mức cao nhất trong thời kỳ này do việc làm trong ngành sợi giảm mạnh. Sản phẩm sợi trải qua nhiều công đoạn từ sản xuất sợi đến khâu thành phẩm đến tay người tiêu dùng; do đó tồn tại một cơ cấu công nghiệp và cơ cấu phân phối phức tạp.

Ngoài ra, giá của sản phẩm và số lượng bán ra rất khác nhau tùy theo những thay đổi về thời trang và nền kinh tế. Rủi ro rất lớn kéo theo. Trong những điều kiện khắc nghiệt, ngành công nghiệp sợi Nhật Bản đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu sau đây và tìm cách tồn tại.

Thứ nhất, ngành đã nâng cao năng suất lao động thông qua đổi mới công nghệ. Nghề dệt vải nhanh chóng được tự động hóa vào những năm 1970 và 1980. Kết quả là hàng dệt may chất lượng cao được sản xuất đã nâng cao giá trị gia tăng của ngành. Ngày nay, bên cạnh các loại vải có số lượng sợi cao, các loại sợi tổng hợp mới đang được phát triển.

Thứ hai, ngành đã giảm thiểu rủi ro bằng cách sử dụng thông tin liên quan trực tiếp đến nhu cầu của khách hàng. Các sản phẩm đang được “đặt hàng tại nhà máy” thông qua việc sử dụng thông tin liên lạc và máy tính.

Thứ ba, ngành này đã phát triển được những lĩnh vực tăng trưởng mới. Các loại sợi mới dùng cho nội thất xây dựng cũng như cho các công trình xây dựng và kỹ thuật dân dụng nhằm bảo vệ môi trường đang được tiên phong.Chiến lược của công ty hiện nay bao gồm những thay đổi có lợi trong việc phân phối giá trị gia tăng bằng cách kết nối trực tiếp hơn với các nhà thiết kế thời trang và nhà bán lẻ.

Hoạt động của họ đa dạng hóa để tận dụng công nghệ được tích lũy trong lịch sử lâu đời của ngành sợi.Đặc biệt vì ngành sợi là một trong những ngành lâu đời nhất nên nó đã phát triển rất nhanh trước các ngành công nghiệp khác ở Nhật Bản. Nó cũng trưởng thành trước khi toàn bộ nền sản xuất của Nhật Bản bắt đầu trải qua từng đợt tăng giá của đồng yên bắt đầu từ năm 1992.

Ngành công nghiệp sợi của Nhật Bản ở một quốc gia công nghiệp hóa tốt. Mục tiêu của doanh nghiệp lĩnh vực này là tìm ra những cách thức mới để tạo ra những sản phẩm chất lượng cao. Như đã nêu trước đó, nhiệm vụ quản lý doanh nghiệp là phát triển các chiến lược với tầm nhìn rõ ràng đồng thời phấn đấu đi tiên phong trong các hướng đi đa dạng.

Công nghiệp sợi Nhật Bản Thời kỳ thịnh vượng trước chiến tranh

Lịch sử lâu đời của ngành công nghiệp sợi Nhật Bản có thể bắt nguồn từ hơn một nghìn năm trước, khi kỹ thuật kéo sợi và dệt vải được du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Trong thời kỳ Edo kéo dài gần ba thế kỷ, từ 1603 đến 1867, dệt may đã trở thành một ngành công nghiệp thị trường.

Ngoài lụa, một mặt hàng xa xỉ, bông cũng được sản xuất rộng rãi, thay thế vải gai dầu trong hàng may mặc cho người dân nói chung. Những hàng dệt may này được tạo ra bởi các ngành tiểu thủ công nghiệp theo định hướng thị trường phụ thuộc vào hoạt động sản xuất tự chủ của các hộ gia đình ở nông thôn. Vào giữa thế kỷ 19, các nhà máy tương tự như các cơ sở sản xuất ngày nay đã xuất hiện.

Các sản phẩm khác biệt được sản xuất ở mọi vùng của Nhật Bản, tạo ra các kênh phân phối thương mại. Các trung tâm phân phối tích cực xuất hiện ở Edo (Tokyo ngày nay), Kyoto, Osaka và nhiều thị trấn lâu đài khác nhau trên khắp đất nước. Trong thời kỳ Edo, các kỹ thuật kéo sợi, dệt, nhuộm, may, v.v. đã đạt đến trình độ nghệ thuật cao.

Những thiết kế rất tinh xảo đã được tạo ra để thu hút các tầng lớp samurai và thương gia cũng như những người nông dân thịnh vượng. Do đó, thị trường toàn quốc có thể được phục vụ bởi hoạt động sản xuất riêng biệt của từng địa phương, và chính quyền của mỗi thái ấp phong kiến ​​đã khuyến khích hoạt động sản xuất quy mô lớn như vậy. Một hệ thống phân phối hàng hóa phát triển, qua đó kích thích sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó mang lại tiến bộ công nghệ và cải tiến về chất lượng.

Vào thời điểm Nhật Bản mở cửa sang phương Tây vào năm 1868, hệ thống công nghệ sản xuất cũng như hệ thống ở các khía cạnh mềm như thiết kế và phân phối thương mại đã được thiết lập tốt. Sự chuẩn bị cho quá trình hiện đại hóa diễn ra vào thời Meiji (1868-1912) đã thúc đẩy sự phát triển này hơn nữa. Với sự mở cửa của Nhật Bản, việc sản xuất sợi tơ thô nhanh chóng xuất hiện cho thị trường nước ngoài, do sự phát triển tự chủ được thực hiện bởi các doanh nghiệp tư nhân trước cuộc cải cách Minh Trị.

Chính phủ Meiji nỗ lực giới thiệu và trau dồi công nghệ hiện đại. Mô hình nhà máy tơ lụa do chính phủ xây dựng ở Tomioka, tỉnh Gunma, như một phần của chính sách giới thiệu công nghệ phương Tây và thúc đẩy các ngành công nghiệp đã được nhiều người biết đến.

Tuy nhiên, công ty đầu tiên áp dụng các phương pháp sản xuất hoàn toàn hiện đại vào ngành bông là Osaka Boseki, Inc, công ty đã giới thiệu máy kéo sợi nồi cọc với 10.500 cọc sợi vào năm 1882. Ngành công nghiệp bông Nhật Bản được phát triển bởi các công ty tư nhân và được coi là ngành công nghiệp hiện đại đầu tiên của Nhật Bản ở những năm 1890.

Nó trở thành hạt nhân của sự tăng trưởng tư bản Nhật Bản. Mặt hàng xuất khẩu sợi chính của Nhật Bản là sợi tơ thô cho đến khoảng năm 1920. Sau Chiến tranh Trung-Nhật (1895), bông được xuất khẩu chủ yếu, đặc biệt là sang các nước châu Á. Cũng trong khoảng thời gian đó, xuất khẩu lụa dệt tăng lên.Chiến tranh thế giới thứ nhất đã giúp Nhật Bản nâng cao vị thế quốc tế, nền kinh tế và công nghiệp của nước này đều phát triển.

Ngành công nghiệp sợi sau đó đã mở rộng đáng kể và Nhật Bản trở thành nước xuất khẩu bông lớn nhất thế giới. Trong giai đoạn trước Thế chiến thứ hai, hàng bông chiếm 20% tổng khối lượng xuất khẩu tính bằng yên của Nhật Bản. Từ cuối Thế chiến thứ hai đến khoảng những năm 1960, sợi đã trở thành trung tâm của ngành xuất khẩu kiếm tiền ở nước ngoài.

Trước chiến tranh, sản lượng trong ngành sợi đạt đỉnh cao từ năm 1935 đến năm 1940. Khối lượng sản xuất đạt khoảng 30% mức tối đa sau chiến tranh.Vào đầu thời Minh Trị, công nghệ được du nhập chủ yếu từ Anh. Nhưng ngành công nghiệp này trở nên độc lập về mặt công nghệ tương đối sớm và bắt đầu tạo ra công nghệ của riêng mình dưới dạng máy dệt tự động vào khoảng năm 1900.

Khả năng cạnh tranh của ngành sợi thâm dụng lao động phụ thuộc vào lực lượng lao động lương thấp, chủ yếu là phụ nữ trẻ. Sợi có chi số thấp, sợi bông và các sản phẩm của chúng chiếm phần lớn hàng bông xuất khẩu. Tuy nhiên, xét về chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, Nhật Bản vẫn chưa sánh bằng các nước công nghiệp phát triển khác.

Một đứa trẻ làm việc tại mỏ than Chinarak. Hàng ngàn người Afghanistan đã đổ xô đến các khu mỏ nổi tiếng nguy hiểm của đất nước, tuyệt vọng để kiếm sống trong bối cảnh nền kinh tế đang bị tàn phá.
JIM HUYLEBROEK / The New York Times

Những thay đổi sau chiến tranh

Do sự thay đổi nhu cầu trong Thế chiến thứ hai sang sản xuất trong thời chiến và thiệt hại từ các cuộc ném bom trên không, chưa kể đến việc ngừng nhập khẩu nguyên liệu thô từ nước ngoài, đến năm 1945, ngành công nghiệp sợi đã giảm xuống chưa đến 1/10 so với mức trước chiến tranh. . Tuy nhiên, sau chiến tranh, ngành sợi đã phục hồi nhanh chóng nhờ vị thế hoàn toàn phi quân sự. Đến năm 1955, mười năm sau khi chiến tranh kết thúc, khối lượng sản xuất đã được khôi phục lại mức trước chiến tranh. Ngành sợi phục hồi trở lại trạng thái một lần nữa trở thành ngành thu ngoại tệ hàng đầu, giống như trước chiến tranh. Năm 1955, các sản phẩm liên quan đến sợi chiếm 37,2% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Tuy nhiên, ngành sợi sau chiến tranh đã phải đối mặt với những thay đổi lớn về cấu trúc của nguyên liệu sợi. Các loại sợi tổng hợp như nylon được phát minh trước chiến tranh đang được sản xuất ở cả Mỹ và châu Âu, lụa rõ ràng bị ảnh hưởng bởi sự phát triển này. Vị thế của lụa chiến tranh Nhật Bản trong thương mại quốc tế suy giảm mạnh.

Trên thực tế, việc sản xuất sợi nhân tạo như tơ nhân tạo và axetat đã được thực hiện ở Nhật Bản trước Thế chiến thứ hai. Sản xuất và xuất khẩu tơ nhân tạo và axetat tiếp tục phát triển sau chiến tranh cho đến giữa những năm 1960. Sau đó, chúng được thay thế bằng sợi hóa học tổng hợp như những mặt hàng tăng trưởng lớn.

Nhật Bản từ đó đã đóng góp vào công nghệ sợi tổng hợp với công nghệ độc đáo của riêng mình như vinylon. Nhưng quá trình công nghiệp hóa của ba loại sợi tổng hợp lớn là nylon, polyester và acrylyl được phát triển chủ yếu thông qua công nghệ nhập khẩu. Từ giữa những năm 1960, sợi tổng hợp và các sản phẩm dệt của chúng, cùng với bông, đã trở thành mặt hàng then chốt trong xuất khẩu sản phẩm sợi của Nhật Bản. Sau này họ thậm chí còn thay thế bông.

Sự tăng trưởng liên tục của ngành công nghiệp sợi trong những năm 1960 trùng hợp với thời kỳ nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng cao chưa từng thấy. Tuy nhiên, trước sự mở rộng mạnh mẽ của các ngành công nghiệp nặng như máy điện, thiết bị vận tải, hóa dầu và kim loại, tỷ trọng tương đối của ngành sợi trong toàn bộ ngành sản xuất của nền kinh tế Nhật Bản đã bắt đầu giảm dần.

Về cơ bản, trong khi công nghệ của ngành sợi Nhật Bản được cải tiến hơn nữa sau chiến tranh và năng suất tăng lên thì cường độ lao động vốn là nền tảng cho khả năng cạnh tranh quốc tế của nước này lại giảm sút. Bắt đầu từ những năm 1970, xuất khẩu hàng bông của Nhật Bản bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi sự tăng giá của đồng yên cùng với việc bãi bỏ chế độ bản vị trao đổi vàng cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp sợi ở Hàn Quốc và Trung Quốc.

Khi nền kinh tế Nhật Bản bước vào thời kỳ tăng trưởng chậm sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, sản lượng của ngành sợi sụt giảm mạnh. Kể từ năm 1970, xuất khẩu của Nhật Bản bị hạn chế đến mức ngành công nghiệp sợi Nhật Bản hiện nay chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước.Kể từ cuối những năm 1970, việc nhập khẩu các sản phẩm sợi đã bắt đầu tăng lên. Xuất khẩu từ Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước châu Á khác – đặc biệt là quần áo cotton – đã chiếm lĩnh một phần lớn thị trường nội địa.

Trong khi phải đối mặt với những vấn đề như chi phí lao động ngày càng tăng, nguồn lao động thiếu hụt, sự cạnh tranh từ các nước NIES và Trung Quốc, hay thị trường nội địa trì trệ, ngành sợi Nhật Bản hiện đang nỗ lực mở ra những hướng đi mới. Đặc biệt, có sự cải thiện ở 5 lĩnh vực: năng suất lao động, hàng hóa chất lượng cao, nỗ lực tạo giá trị gia tăng, chấp nhận rủi ro trong kinh doanh và phát triển địa điểm ở nước ngoài.

Tạo ra thứ gì đó có chất lượng cao không chỉ có nghĩa là cải thiện đặc tính của sản phẩm mà còn liên quan đến năng suất giá trị gia tăng. Sản phẩm chất lượng cao có chi phí sản xuất cao hơn. Chất lượng cao của nguyên liệu thô và sản phẩm trung gian đã cho phép các quy trình tự động hóa và tốc độ cao ở các giai đoạn sản xuất sau này.Chất lượng lông xù của sợi tổng hợp quyết định chất lượng của sản phẩm dệt.

Shag được hình thành bằng cách cắt một sợi đơn giản. Với polyester, các nhà sản xuất Nhật Bản đã thành công trong việc giảm lượng lông xù xuống còn 5 cho 100 triệu mét, và mục tiêu tiếp theo của họ là đạt được tỷ lệ này lên 1 trên 100 triệu mét. Người ta nói rằng con số hiện nay ở các nước châu Âu là 100 trên 100 triệu mét. Sợi được sản xuất tại Nhật Bản vượt xa các quốc gia khác về chất lượng, đó là lý do tại sao họ vẫn có thị trường xuất khẩu ổn định mặc dù đồng Yên cao.

Sợi bông, là loại sợi tự nhiên chính, lần đầu tiên được sản xuất dưới dạng sợi chải thông qua quy trình sắp xếp hướng của sợi đồng thời loại bỏ tạp chất. Sợi được xe ra sau khi chải kỹ hơn và loại bỏ những sợi kém phát triển được gọi là “sợi chải kỹ”. Trong khi sợi chải kỹ này dần dần trở thành sợi có chi số tiêu chuẩn, gần đây các sản phẩm có chỉ số sợi cao đang được thêm vào.

Sợi không nút, dùng để buộc chặt các chỗ uốn của sợi cắt mà không có nút thắt, được tạo ra bằng quy trình kéo sợi. Hoạt động để loại bỏ các nút thắt bao gồm việc tháo dây tự động, tốc độ cao ở cả hai đầu đã cắt và sau đó xoắn lại chúng ngay lập tức.Việc phối màu tinh tế đã được tiến hành nhanh chóng và chính xác trong giai đoạn nhuộm bằng hệ thống màu được vi tính hóa mà không cần dựa vào công nhân lành nghề. In vải đôi khi yêu cầu 12 bản in riêng biệt sử dụng 12 tấm âm bản khác nhau.

Màu sắc được phân tích từ mẫu in và bản in có số lượng màu cần thiết sẽ được in trên phim. Sau khi cảm quang phim, âm bản được lắp ráp và in nhiều lần trên cùng một loại vải. Độ chính xác là cần thiết trong tất cả các giai đoạn này. Ví dụ, một tấm vải in có chất lượng vượt trội được tạo ra bằng cách sử dụng phim âm bản 180 lưới.

Gần đây CAD (thiết kế có sự hỗ trợ của máy tính), CG (Đồ họa máy tính) và máy in phun đã được đưa vào lĩnh vực in ấn. Công nghệ giúp rút ngắn thời gian giao hàng và robot hóa quy trình hiện đang được khám phá.Sự phát triển của sợi tổng hợp là một ví dụ điển hình về việc kiểm soát chất lượng. Cái gọi là sợi tổng hợp mới đang được tạo ra có những đặc tính độc đáo, vượt trội so với các loại sợi tự nhiên như lụa. Chúng được tạo ra bằng sự kết hợp tinh vi của các công nghệ có thể biến đổi polyme, cắt các hình dạng siêu mỏng khác nhau và trộn hoặc bện các sợi thành các sợi phức tạp.

Những chất tổng hợp mới này là thành quả của những nỗ lực chung của từng lĩnh vực trong ngành công nghiệp sợi để nghiên cứu không chỉ trạng thái sợi thô mà còn cả chất lượng xử lý sợi, nhuộm và hoàn thiện của chúng. Khái niệm đằng sau những chất liệu tổng hợp này không chỉ là tạo ra một sản phẩm nhất định từ một vật liệu nhất định mà còn tạo ra chính chất liệu đó với những đặc tính cần thiết để tạo ra một sản phẩm chắc chắn hơn. Nỗ lực mạnh mẽ nhằm sản xuất sợi tổng hợp mới này đã thành công trong việc tạo ra giá trị gia tăng trong ngành sợi.

Mình nhớ ngày sinh viên ở Hà Nội có mấy lần mình theo bạn bè sang một ngôi chợ bên kia bờ Bắc sông Hồng để mua vải về may quần áo vì vải vóc ở đó quá quá là rẻ, mình nhớ đâu có 5.000 là đã mua được một mảnh vải nhỏ đủ để may một chiếc áo. Đó là chợ vải Ninh Hiệp, vốn rất nổi tiếng trong giới học sinh sinh viên,  chuyên bán vải loại rẻ tiền nhập từ bên Trung Quốc sang. Vải ở đó thì nhiều vô cùng tận, đến là hoa mắt.

Lúc đó mình đúng ngây thơ thật, cứ thắc mắc sao ngay đó biết bao nhiêu bãi dâu (ở đồng bằng Bắc Bộ các bạn có thể bắt gặp rất nhiều các bãi trồng dâu ven sông: Có câu Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy. Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu là vậy; Xưa kia nghề trồng dâu nuôi tằm kéo tơ dệt lụa gần như làng nào cũng có) thì chắc chắn phải sản xuất ra nhiều vải chứ sao lại thấy toàn hàng nhập. 

Như vậy, cách đây mấy chục năm mặt hàng vải vóc của chúng ta đã thất thế rồi chứ không phải bây giờ khi phần lớn nguyên vật liệu cho ngành may mặc vẫn phụ thuộc vào thị trường nhập khẩu.

Không chỉ có ngành may mặc đâu, hãy cùng xem xét một số ngành công nghiệp chủ chốt khác trong nền kinh tế của chúng ta vào bài viết sau!

You may also like

Để lại bình luận