Xin chào 2024 (9)

by Rose & Cactus

Một trong những vấn đề toàn cầu nổi bật nhất trong năm 2023, cũng như trong nhiều năm trở lại đây, là vấn đề di cư (Immigration): Từ Á, Phi sang Âu Mỹ hoặc từ những vùng nghèo khó và bất ổn sang nơi giàu có và dễ kiếm việc làm hơn trong một châu lục.

Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR) mới đây đưa ra báo cáo “Xu hướng tị nạn” chấn động về tình hình người di cư, tị nạn trên khắp thế giới trong những tháng đầu năm 2023. Theo đó, số người phải rời bỏ nhà cửa, quê hương “do chiến tranh, đàn áp, bạo lực và vi phạm nhân quyền trên toàn thế giới” tính đến tháng 9/2023 ước tính đã vượt quá 114 triệu người, một con số kỷ lục.

Trong báo cáo, UNHCR đưa ra, số liệu cho thấy số người phải di dời trên toàn thế giới đã không ngừng tăng từ 108,4 triệu người vào cuối năm ngoái lên 110 triệu người vào cuối tháng 6/2023. “Động lực” chính của tình trạng đáng báo động này là các cuộc xung đột ở Ukraine, Sudan, Myanmar và Cộng hòa Dân chủ Congo; cùng với đó là cuộc khủng hoảng nhân đạo kéo dài ở Afghanistan, sự kết hợp của hạn hán, lũ lụt và tình trạng bất ổn ở Somalia, theo UNHCR.

Người đứng đầu UNHCR, Filippo Grandi, ngày 25/10 bày tỏ: “Trọng tâm của thế giới hiện nay là tình hình chiến sự Israel-Hamas và thảm họa nhân đạo ở Gaza, điều này không có gì sai. Nhưng trên phạm vi toàn cầu, có quá nhiều cuộc xung đột đang gia tăng hoặc leo thang, cướp đi nhiều sinh mạng vô tội và khiến người dân phải rời bỏ quê hương”.

Cộng đồng quốc tế đã không có những hành động đủ quyết liệt trong giải quyết hoặc ngăn chặn xung đột, ông Filippo Grandi nói thêm, đồng thời kêu gọi sự hợp tác toàn cầu để chấm dứt bạo lực và tạo điều kiện cho những người phải di dời trở về quê hương.

Con số 114 triệu là mức kỷ lục kể từ khi UNHCR bắt đầu thu thập dữ liệu vào năm 1975, ông Filippo Grandi nhấn mạnh. Báo cáo của UNHCR cũng đưa ra tỷ lệ đáng báo động, cứ 73 người thì có hơn 1 người bị buộc phải di dời ở bất kỳ đâu trên thế giới. Vào giữa năm 2023, có 35,8 triệu người tị nạn đã tìm đường ra nước ngoài và 57 triệu người phải di dời trong nước. Hàng triệu người khác đang xin tị nạn hoặc cần được quốc tế bảo vệ.

Gần một phần ba số người bị di dời đến từ ba quốc gia: Afghanistan, Syria và Ukraine. Các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình tiếp nhận 75% người tị nạn và những người có nguyện vọng được quốc tế bảo vệ. Các quốc gia tiếp nhận nhiều người tị nạn nhất là Iran và Thổ Nhĩ Kỳ với 3,4 triệu người mỗi nước, tiếp đến là Colombia với 2,5 triệu và Pakistan với 2,1 triệu. Đức là nước có thu nhập cao hiếm hoi tiếp nhận đến 2,5 triệu người tị nạn.

Gần một nửa dân số Syria vẫn phải di dời vào giữa năm 2023: 6,7 triệu người di tản đến các địa điểm trong nước và 6,7 triệu người tị nạn và xin tị nạn ở nước ngoài, chủ yếu đều ở Thổ Nhĩ Kỳ. Trên toàn cầu, 1,6 triệu đơn xin tị nạn cá nhân mới đã được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 6/2023, đây cũng là con số lớn nhất từng được ghi nhận trong cùng kỳ các năm qua. Trong số đó, 540.600 đơn được nộp đến cơ quan chức năng của Mỹ, 150.200 đơn ở Đức và 87.100 đơn ở Tây Ban Nha.

Tuy vậy, điều đáng nói là những ước tính trong báo cáo của UNHCR được đưa ra trước khi xung đột Israel-Hamas bùng nổ. Quân đội Israel ngày 26/10 thông báo đã tiến hành chiến dịch tấn công trên bộ vào nhiều “ổ khủng bố”, cơ sở hạ tầng và các địa điểm phóng tên lửa chống tăng ở Dải Gaza.

Theo Đài phát thanh quân đội Israel, cuộc tấn công trên bộ nhằm mục đích tấn công các vị trí của Hamas. Các tay súng của phong trào Hồi giáo Hamas tràn vào Israel vào ngày 7/10, bắt đầu cuộc tấn công khiến hơn 1.400 người thiệt mạng, chủ yếu là dân thường, đồng thời bắt cóc hơn 220 người khác. Cơ quan y tế tại Gaza cho biết các cuộc tấn công trả đũa của Israel đã khiến hơn 6.500 người Palestine thiệt mạng.

Theo Văn phòng Điều phối các vấn đề nhân đạo của Liên hợp quốc (OCHA), số người phải di tản trong nội địa ở Gaza ước tính vào khoảng 1,4 triệu người. Nhiều chuyên gia quan ngại rằng số người bị ảnh hưởng và phải di dời tại đây có thể cao hơn nhiều, nhưng do tình hình bất ổn, chưa thể đưa ra những số liệu chính xác có thể được kiểm chứng.

“Khi chúng ta theo dõi các sự kiện diễn ra ở Gaza, Sudan và những nơi xảy ra xung đột khác, triển vọng hòa bình và các giải pháp cho người tị nạn và những nhóm dân cư phải di dời khác có vẻ như rất xa vời”, người đứng đầu UNHCR nhận định. “Nhưng chúng ta không thể bỏ cuộc”, ông Filippo Grandi nói thêm, khẳng định rằng “cùng với các đối tác của mình, UNHCR sẽ tiếp tục thúc đẩy và tìm kiếm các giải pháp cho người tị nạn”.

Một tia sáng hiếm hoi trong báo cáo của UNHCR đó là khoảng 3,1 triệu người đã trở về nhà trong nửa đầu năm 2023, bao gồm 2,7 triệu người phải di dời trong nội bộ một quốc gia. Ngoài ra, hơn 404.000 người tị nạn được ghi nhận đã trở về nước, cao hơn gấp đôi năm 2022, bất chấp những điều kiện an toàn chưa được đảm bảo tại quê nhà.

Báo cáo của UNHCR được đưa ra trước thềm Diễn đàn về người tị nạn toàn cầu (GRF) lần thứ hai, sự kiện lớn nhất thế giới về người tị nạn và những người bị buộc phải di dời khác, tại Geneva, Thụy Sĩ từ ngày 13 đến ngày 15/12 năm nay. Đại diện các chính phủ, người tị nạn, chính quyền địa phương, tổ chức quốc tế, xã hội dân sự và khu vực tư nhân sẽ tham gia diễn đàn nhằm tăng cường phản ứng toàn cầu và tìm kiếm giải pháp cho cuộc khủng hoảng này.

Các cuộc di cư hàng loạt lớn đang diễn ra ở các tuyến:

– Tuyến đường Địa Trung Hải

– Tuyến đường Trung Mỹ

– Tuyến đường Đông Nam Á

Tính đến thời điểm Tháng 9/2023, 2.500 người đã chết hoặc mất tích khi cố gắng vượt Địa Trung Hải để đến châu Âu, trong khi khoảng 186.000 người đã đến các nước châu Âu trong cùng thời kỳ, Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn cho biết.

Các gia đình di cư đến El Paso, Texas, từ Mexico chỉ vài ngày trước khi Điểu khoản 42 hết hạn, một hạn chế về sức khỏe cộng đồng trong thời đại đại dịch cho phép chính phủ Hoa Kỳ nhanh chóng từ chối những người di cư ở biên giới Mỹ-Mexico.
John Moore / CNN

Nhật ký Jack,

Jan 22

Có lẽ tất cả các bạn của tôi đã về đến quê hương. Chỉ còn tôi vẫn đang trên chuyến hành trình của mình, nó đã kéo dài hơn dự kiến. Và hoàn toàn không nằm trong kế hoạch ban đầu của tôi. Để tôi kể cho các bạn nghe đầu đuôi là thế này:

Ấy là khi rời khỏi lâu đài nho ở Vùng Tuscany, nước Ý tôi chợt nảy ra ý muốn lang thang vài nơi nữa để khám phá hết vẻ đẹp của đất nước ven bờ Địa Trung Hải này.

Từ Tuscany tôi nhảy tàu thủy vượt biển tới thành phố cổ với kiến trúc Ba rốc tuyệt đẹp Catania, nằm trên hòn đảo Sicily. Bạn nào đam mê tiểu thuyết bất hủ “Bố già” thì không thể không biết đến địa danh này.

Quả là không vô ích, vẻ đẹp mê hoặc của biển Địa Trung Hải với làn nước và bầu trời xanh ngắt, với bãi cát trải dài và mịn màng đã lấy đi của tôi hàng giờ ngắm cảnh trên những phiến đá được mài giũa không ngừng nghỉ bởi những con sóng tung bọt trắng xóa.

Thật với các bạn, lúc đó trong đầu tôi cũng hy vọng có nàng tiên cá xinh đẹp nào đó bất ngờ xuất hiện như hình ảnh được mô phỏng ở thủ đô Copenhaghen , Đan Mạch :))). Được thế thì chuyến đi của tôi không còn có thể hoàn hảo hơn nữa, chấm điểm 10/10 :))).

Áy nhưng, chờ đợi mãi mà không có nàng tiên cá  nào hiện ra trước mắt cả.  Có lẽ vùng Sicily này nhiều các anh hùng hảo hán quá nên nàng sợ chăng ? :))). Tôi đoán thế và vì vậy, sang ngày thứ năm, tôi quyết định sẽ nhổ neo.

Tuy vậy, cuộc đời khá là công bằng, khi thượng đế không cho tôi cái này thì sẽ cho tôi một sự trải nghiệm khác. Một buổi sáng,  là buổi cuối cùng tôi lưu lại đây, thì tôi tình cơ nghe thấy thông báo phát đi từ một con tàu mang tên “Responder” đậu ngay sát chỗ phiến đá tôi vẫn đứng ngắm biển. Nội dung bản thông báo là Thủy thủ đoàn tàu này đang cần tuyển một tình nguyện viên để giúp đỡ  họ trong việc giải cứu những người tị nạn đi từ  bờ bên kia Địa Trung Hải phía lục địa châu Phi.

Tôi nghe đi nghe lại đến hai, ba lần và quyết định thử sức với dịp may hiếm hoi trong đời. Cũng dễ,  bởi vì tôi chưa mua vé về quê hương. 

Và như thế, tôi đã bước lên chiếc Responder ngay khi bình minh hé rạng những tia nắng đầu tiên. Tất nhiên đây là tàu cứu hộ nên không thể to lớn và đẹp đẽ như con tàu Titanic được. 

Nhưng điều đó chẳng khiến tôi buồn phiền tí nào, nếu có một chút tiếc nuối nào đó thoáng qua thì chỉ bởi vì chắn chắn trên con tàu này không bao giờ có nàng Rose  nào cả :))). 

Đó là tất cả những ý nghĩ tôi có thể joke với các bạn thời điểm mà tôi mới chỉ đứng dưới con tàu Responder. Và những thứ này hoàn toàn biến mất một cách tự nhiên, ngay khi tôi lênh đênh trên biển, được chứng kiến và đối mặt với thực tại nghiệt ngã của những phận người mỏng manh và đầy ám ảnh.

Bạn hãy đi cùng tôi để biết tại sao tôi lại nói như vậy.

 

NHỮNG CUỘC VƯỢT BIỂN NÀY KHÔNG CÓ GÌ NGOÀI CÁI CHẾT

Câu chuyện về người cứu hộ và một ngày tuyệt vọng trên biển

These crossings are nothing but fatal

The tale of one rescuer and one desperate day at sea

By Moni Basu/ CNN

Video by Joe Sheffer/ CNN

Mặt trăng chỉ là một mảnh mờ nhạt vào buổi sáng đầu tháng Bảy này và không có ánh sáng, bầu trời và biển hòa vào bóng tối sâu đến mức trước khi John Hamilton có thể nhìn rõ những người mà ông đến để cứu, ông  có thể ngửi thấy mùi của họ. Đó là mùi chua chát của nỗi khốn cùng của con người. Mồ hôi, nước tiểu, chất nôn, máu. Ông cầu nguyện đó không phải là mùi của cái chết.

Vào lúc mặt trời mọc ngày hôm trước, Hamilton đứng trên cầu tàu của mình, Topaz Replyer, và ngắm nhìn toàn cảnh thủ đô Valletta kiên cố của Malta. Màn đêm nhường chỗ cho cảnh tượng những tòa nhà bằng đá vôi hàng thế kỷ chìm trong màu sắc rực lửa. Phía trước là lối vào biển Địa Trung Hải, lung linh trong ánh sáng mới của buổi sáng.

Không khí trong lành; nước gần như tĩnh lặng. Hoàn hảo cho những người đi biển và đi thuyền — nhưng đối với Hamilton thì không như vậy. Đối với ông, những điều kiện này báo trước sự nguy hiểm.

Ở tuổi 50, người lãnh đạo lực lượng tìm kiếm và cứu hộ này biết một Địa Trung Hải còn đáng sợ hơn những gì mà những người đi nghỉ thờ phượng. Ông đã chứng kiến ​​vùng nước yêu dấu của nó gây ra nỗi kinh hoàng, độ sâu tối tăm của nó trở thành luyện ngục.

Vùng biển định hình cuộc đời ông đã trở thành tuyến đường di cư nguy hiểm nhất thế giới. Thời tiết xấu trong vài ngày qua đã mang lại mốt sự bình yên tương đối cho Hamilton và thủy thủ đoàn của ông, những người đang tuần tra vùng biển giữa Libya và Ý.

Gió giật và biển động ngăn cản những chiếc thuyền di cư nhỏ ra khơi, nhưng điều trớ trêu tàn khốc là vào một ngày huy hoàng như thế này, mọi thứ có thể trở nên tồi tệ.Một chiếc thuyền hoa tiêu hộ tống chiếc Responder dài 167 feet ra khỏi Cảng Grand của Malta.

Trên tàu cùng với Hamilton có năm thành viên trong nhóm của Trạm cứu trợ người di cư ngoài khơi, hay MOAS, một tổ chức nhân đạo tư nhân có trụ sở tại Malta với một nhiệm vụ duy nhất: giải cứu mọi người. Một bác sĩ và bốn y tá từ nhóm hỗ trợ y tế Khẩn cấp của Ý cũng có mặt trên tàu, cùng với một đầu bếp, các sĩ quan và nhân viên bảo trì của “Topaz Marine and Energy”, công ty sở hữu Replyer.

Ít ai biết rõ vùng biển này hơn Hamilton.Ông đã đi biển gần như suốt cuộc đời mình, đầu tiên bởi ông là  con trai của một người Scotland khao khát được gia nhập Hải quân – mặc dù hoàn cảnh đã dẫn đến sự nghiệp trong Quân đội – và sau đó là một thủy thủ. Như thể nước mặn chảy qua huyết quản của ông.

Nhưng phải đến cuối những năm 1990, Hamilton, người từng phục vụ trong phi đội hàng hải của Lực lượng Vũ trang Malta, lần đầu tiên chứng kiến ​​sự tuyệt vọng của con người.Đó là khi làn sóng di cư “bất thường” của người châu Phi qua Địa Trung Hải bắt đầu gia tăng và các thiết giáp hạm của Malta thường xuyên giải cứu những người tị nạn gặp nạn. Họ đến từ các quốc gia gặp khó khăn như Bờ Biển Ngà, Liberia, Somalia và Eritrea và lên thuyền từ Maroc và Tunisia để đến Tây Ban Nha và Ý.

Hai thập kỷ sau, người dân từ khắp châu Phi và một phần châu Á khởi hành từ các cảng Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Libya để thực hiện chuyến vượt biển nguy hiểm.Bây giờ nó xảy ra ở quy mô mà Hamilton không thể tưởng tượng được; vào năm 2015, một triệu người đã đến châu Âu, chủ yếu là Hy Lạp và Ý, qua Địa Trung Hải.

Họ là những người tị nạn và di cư kinh tế chạy trốn khỏi những đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, đàn áp và nghèo đói. Cuộc hành trình của họ đầy nguy hiểm trên những chiếc thuyền đánh cá bằng gỗ quá đông đúc và những chiếc xuồng hơi mỏng manh bằng polyurethane khó có thể vượt sông chứ đừng nói đến một vùng biển rộng lớn.

Họ mạo hiểm mọi thứ để có được cơ hội tự do và nhân phẩm. Nhiều người đã chết. Chỉ riêng năm nay, hơn 3.000 người đã chết hoặc mất tích ở Địa Trung Hải. Tổ chức Di cư Quốc tế cố gắng hết sức để thống kê nhưng con số thực tế có thể cao hơn nhiều. Có bao nhiêu chiếc thuyền không bao giờ được phát hiện? Có bao nhiêu người không bao giờ được cứu vớt từ biển?

Hamilton lo ngại năm nay có thể là năm tồi tệ nhất trong lịch sử. Mặt trời bắt đầu nhô cao hơn trên bầu trời và xuyên qua nhiều cửa sổ trên mũi tàu chiếc  Responder. Khuôn mặt phong trần của Hamilton thậm chí còn có vẻ hồng hào hơn trong ánh sáng này. Ông đã nghỉ hưu và quay trở lại với công việc mà ông đã làm tốt nhất với tư cách là một sĩ quan bảo vệ, đổi đồng phục của mình lấy quần cộc và chiếc áo polo màu xanh nước biển có in logo MOAS.

Ông nhìn ra boong chính, được trang bị hai chiếc tàu cứu hộ nhanh được sơn màu cam rực rỡ giống như hàng trăm chiếc áo phao được nhét trong những chiếc túi khổng lồ. Hai chiếc tàu cao tốc mang tên Alan và Ghalib, hai anh em người Syria bị chết đuối vào tháng 9/2015.

Hình ảnh thi thể nhỏ bé của cậu bé 3 tuổi Alan Kurdi dạt vào bãi biển Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến cả thế giới thức tỉnh về mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng di cư tới châu Âu. Hamilton nhìn thấy tên của Alan và Ghalib hàng ngày. Chúng khiến ông nhớ lại khoảnh khắc đau buồn nhất trên biển – khoảnh khắc xảy ra vào một đêm đen như mực vào tháng 1 năm ngoái.

Ông đang dẫn đầu các nhiệm vụ tìm kiếm và cứu hộ trên tuyến đường di cư từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Hy Lạp thì nhóm của ông phát hiện một chiếc thuyền nhỏ gần đảo Agathonisi của Hy Lạp. Một kẻ buôn lậu người Thổ Nhĩ Kỳ đã lái tàu quá nhanh. Hắn ta rẽ ngoặt, va vào đá và lật úp.

Hai chục hành khách, hầu hết là các gia đình người Syria và Iraq, đã lao xuống biển và bám chặt vào mũi tàu, phần duy nhất của con thuyền vẫn nổi.Hamilton nghe thấy tiếng rên rỉ của những người tị nạn. Ông biết thủy thủ đoàn của mình phải làm việc nhanh chóng, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ không thể chịu đựng được nước lạnh lâu.

Hamilton tăng tốc đến hiện trường và thợ lặn cứu hộ đã có mặt trên biển trong vòng bảy phút.Ba đứa trẻ được buộc chặt vào mẹ để đảm bảo an toàn. Một cậu bé 2 tuổi có khuôn mặt xanh xao. Những người còn lại, một bé trai 2 tuổi và một bé gái 4 tuổi, đều không thở. Mẹ của chúng không nhận ra bọn trẻ đã chết.“Con trai của cô không còn sống nữa,” Hamilton nói với một người trong số họ bằng tiếng Malta, một ngôn ngữ gần với tiếng Ả Rập mà người Syria có thể hiểu được. Tiếng khóc của cha mẹ xuyên thấu màn đêm.

20 người khác mà được cứu vớt chắc chắn sẽ chết vì hạ thân nhiệt hoặc chết đuối nếu phi hành đoàn MOAS không tìm thấy họ. Nhưng đối với Hamilton, đêm đó được định nghĩa bằng sự ra đi của ba sinh mạng vô tội, một đêm mà ông cảm thấy Chúa thoáng chốc rời xa ông.

Ông nói với những người được ông cứu rằng ông thà chết trên đất liền; điều gì đó về việc chết trên biển đặc biệt ám ảnh. Có lẽ vì đó là một cái chết lặng lẽ, cô đơn. Có lẽ vì trong khoảnh khắc đó, giữa biển nước bao la,  sự sống dường như thật tầm thường. Khi chiếc Responder tiến vào vùng biển rộng, tin nhắn về những chiếc thuyền di cư vang lên trên đài phát thanh.

Hoạt động ở trung tâm Địa Trung Hải đã tăng lên vào mùa xuân này, đặc biệt là sau khi Thổ Nhĩ Kỳ đạt được thỏa thuận với Liên minh châu Âu để đóng tuyến đường di cư đến Hy Lạp và các nước ở phía bắc áp đặt các hạn chế biên giới. Cho đến nay, mùa hè đã khiến Hamilton bận rộn.

Replyer bay theo hướng tây nam, hai động cơ Caterpillar của nó quay với tốc độ 1600 vòng/phút. Hamilton đặt ống nhòm xuống, với lấy một tách trà và bắt đầu một cuộc hành trình khác đầy ẩn số.

Khủng hoảng ngày càng gia tăng. Trời tối khi chiếc Responder tiếp cận “the zone”, vùng biển gần bờ biển Libya giữa Zuwarah và Sabratha, các thành phố phía tây Tripoli đã trở thành trung tâm di cư. Con tàu đến đủ gần đất liền để Hamilton và thủy thủ đoàn nhìn thấy ngọn lửa từ các ống khói của nhà máy lọc dầu.

Có các tàu cứu hộ khác trong khu vực do Frontex, cơ quan biên giới Liên minh Châu Âu và các tổ chức nhân đạo như Sea Watch và Medecins Sans Frontieres (Bác sĩ không biên giới) điều hành. Tất cả phải cách bờ biển ít nhất 7 dặm; bất cứ điều gì gần hơn là lãnh thổ Libya.

Trước cái chết khủng khiếp của mình vào năm 2011, Moammar Gadhafi đã cảnh báo rằng nếu không có một Libya ổn định, tình trạng di cư sang châu Âu sẽ trở nên không thể kiểm soát được. Gần 5 năm sau, lời tiên tri của ông đã trở thành hiện thực.Việc Libya rơi vào tình trạng hỗn loạn đã giúp thúc đẩy hoạt động buôn lậu người sinh lợi.

Những người di cư châu Phi đến miền nam Libya được vận chuyển qua sa mạc đến các bãi biển phía bắc, nơi họ lên thuyền đến châu Âu. Nhiều người được thông báo rằng họ sẽ đến Ý trong vài giờ nữa. Thực tế là chuyến đi đến đảo Lampedusa của Ý, lãnh thổ châu Âu gần bờ biển Bắc Phi nhất, phải mất ít nhất 40 giờ trên những chiếc thuyền nhỏ chạy với tốc độ 5 dặm một giờ.Trái tim Hamilton trở nên trĩu nặng khi nói về Mare Nostrum, hay Biển của chúng ta, cái tên mà người La Mã đặt cho Địa Trung Hải.

“Tại sao những người vô tội phải gặp nguy hiểm đến tính mạng chỉ vì họ không biết sự nguy hiểm của biển?” ông tự hỏi. Ông  đoán rằng nhiều người mà ông giải cứu chưa bao giờ nhìn thấy một vùng nước dường như vô tận trước đây.

Có thể họ đến từ một quốc gia không giáp biển như Mali, Niger hay Ethiopia, hoặc từ một ngôi làng nội địa xa xôi ở Sudan hoặc Nigeria. Thật bi thảm biết bao khi cái nhìn đầu tiên về biển lại trở thành lần cuối cùng của họ. Hamilton đã trải qua 27 năm cuộc đời trên các tàu quân sự của Malta tuần tra Địa Trung Hải.

Khi ông nghỉ hưu vào đầu năm 2014, vợ ông, Mary, đã nói với ông rằng ông sẽ không thể rời xa vùng nước được. Và dù ông cố gắng sống một cuộc sống nhàn nhã trên đất liền, Mary vẫn đúng.Cuộc phiêu lưu của ông với MOAS bắt đầu khi một triệu phú trẻ người Mỹ, Chris Catrambone, thành lập chiến dịch giải cứu cùng với người vợ người Ý của anh, Regina.

Cặp đôi đã chi 8 triệu đô la tiền riêng của mình để biến chiếc tàu đánh cá Phoenix năm 1973 thành một tàu tìm kiếm và cứu hộ được trang bị hai máy bay trực thăng không người lái điều khiển từ xa với máy quay video HD sẽ mở rộng đáng kể việc tìm kiếm người di cư trên biển.

Hamilton cảm động trước sự cam kết của cặp đôi; rằng họ sẽ dùng tài sản của mình để cứu mạng sống.  đã đi thuyền Phoenix từ Virginia trở về Malta và chỉ huy sứ mệnh đầu tiên của nó vào ngày 30 tháng 8 năm 2014; Cuộc giải cứu đầu tiên của nó là một chiếc thuyền gỗ chở 320 người Syria và Palestine.Tính đến thời điểm năm 2014 kết thúc, 3.279 người đã chết hoặc mất tích ở Địa Trung Hải.

Năm ngoái, con số này đã tăng vọt lên 3.673 và MOAS đã thuê tàu Replyer hoàn toàn mới của Topaz Marine and Energy gia nhập Phoenix.MOAS ước tính nó đã cứu sống 22.000 người kể từ khi bắt đầu hoạt động.Hamilton không hề tỏ ra biết cách ngăn chặn những chuyến đi biển chết người.

Ông chỉ biết một điều: Cuộc khủng hoảng di cư đang gia tăng.Ông hiểu rằng hoàn cảnh khủng khiếp đã thúc đẩy mọi người đi tới hành trình của họ. Ông đề cập đến những người Syria chạy trốn chiến tranh kéo dài và người thiểu số Yazidis ở Iraq, bị phiến quân IS săn lùng.“Nhưng tôi sẽ không vượt biển như vậy,” ông nói. “Ngay cả một mình tôi cũng không, đừng bận tâm đến gia đình tôi. Những cuộc vượt biên này chẳng là gì ngoài việc sẽ bỏ mạng.

Hamilton đoán rằng có rất nhiều người đang mong chờ thời tiết tạnh ráo và hiện đang chuẩn bị khởi hành từ nhiều bãi biển khác nhau trên bờ biển Libya. Ông không thể nhìn thấy họ, nhưng ông biết họ ở đó. Họ luôn rời đi vào lúc nửa đêm để có thể lẻn ra ngoài mà không bị phát hiện trong bóng tối.Phi hành đoàn của ông không thể làm gì ngoài việc chờ đợi.

Hamilton đi ngủ sớm. Đến 9 giờ tối, ông đã chui vào giường của mình. Linh cảm của ông: Ông sẽ cần tất cả năng lượng của mình vào lúc bình minh.

Với 400 USD, một chiếc xuồng hơi và sự nguy hiểm

Cách con tàu MOAS vài dặm về phía nam, rất nhiều người tập trung trên các bãi biển Libya để vượt biển. Sau những chuyến hành trình dài bằng đường bộ, thời điểm quyết định cuối cùng của họ đã đến. Họ bị những kẻ buôn lậu người Libya cầm súng AK-47 lùa từ những khu nhà có tường bao quanh đến lướt sóng.

Một trong những người di cư là Mogahid Sabeel của Sudan.

Sabeel cố gắng ngủ trên sàn đất của một nhà kho nơi anh bị bắt nhưng anh quá lo lắng, lạnh và đói – hôm nay là tháng Ramadan và anh đã nhịn ăn từ lúc mặt trời mọc.Những kẻ buôn lậu hứa với Sabeel rằng 400 đô la sẽ mua cho anh ta một chuyến đi trên một tàu container chở hàng hoặc một tàu đánh cá.

Không có con tàu nào như vậy trong tầm mắt; chỉ có một chiếc xuồng ba lá bơm hơi dài 20 foot chạy bằng động cơ phía ngoài.Sabeel có thể nói chiếc xuồng hơi gây nguy hiểm. Nhưng đến giờ, nỗi sợ hãi của anh đối với dân quân Libya và những kẻ buôn lậu đã lớn hơn những rủi ro trên biển khơi.

Anh  yêu cầu một chiếc áo phao. Được, được, anh sẽ có được một chiếc, những kẻ buôn lậu nói. Họ cũng hứa sẽ cung cấp điện thoại vệ tinh trong trường hợp khẩn cấp. Không còn câu hỏi nào nữa, họ hét lên, chĩa súng. Họ ném năm sáu can nhựa chứa nhiên liệu xuống thuyền.

Lúc đó là 2h30 sáng khi Sabeel hành quân ra mép nước cùng 75 đàn ông, 53 phụ nữ và 4 trẻ em. Họ được lệnh cởi giày và mang xuồng hơi ra ngoài lướt sóng. Những kẻ buôn lậu sắp xếp họ thành ba hàng. Những người ở mép ngoài thuyền đặt một chân xuống nước và một chân vào trong. Một số phụ nữ nằm ở giữa với những người ở trên để 133 người có thể chen chúc vào chiếc xuồng  hơi  dành cho 25 người.

Sự sắp xếp của con người gần giống với những bức vẽ về những người bị nhồi nhét trên những con tàu nô lệ từng đi đến châu Mỹ, chỉ ở quy mô nhỏ hơn. Một trong những kẻ buôn lậu nhảy lên xuồng, nổ máy và lái những người di cư ra biển. Sau một giờ, anh ta xuống tàu và lên một chiếc thuyền đã đến để đưa anh ta trở lại đất liền.

“Hãy nhìn những ngôi sao đó,” anh ta nói và chỉ lên trên. “Chúng có nghĩa là hướng bắc. Hãy đi theo chúng.”Đột nhiên đại dương và bầu trời có cùng một màu: đen. Không có áo phao, không có điện thoại hoạt động. Không có nước. Không có thức ăn.

Thực tế giáng xuống  nặng nề đến nỗi hầu hết mọi người thậm chí không thể thốt nên lời hoảng sợ. Họ ngồi im lặng, sợ đến mức không thốt nên lời. Họ uống nước muối để làm dịu cơn khát. Sabeel ngồi ở đuôi tàu, chân phải ngâm trong nước — và bắt đầu run rẩy.

Anh mới 33 tuổi, còn quá trẻ để chết. Hiện tại anh đã phải chịu đựng rất nhiều rồi. Từ quê hương Sudan, anh đã đi nhiều tháng và qua ba quốc gia để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một cuộc nội chiến đẫm máu đã chấm dứt kế hoạch điều hành trang trại của gia đình anh ở Darfur; gia đình anh đã bỏ nhà cửa ruộng vườn để thoát khỏi cảnh đổ máu và di chuyển về phía nam để bắt đầu lại.

Liên doanh đó cũng kết thúc sau khi Nam Sudan giành được độc lập vào năm 2011 và xung đột nội bộ xảy ra sau đó. Sabeel, người nghiên cứu khoa học nông nghiệp tại Đại học Gezira, đã thử sức mình với các doanh nghiệp kinh doanh nhỏ ở Ethiopia và Dubai nhưng gặp khó khăn.

Cuối cùng anh đã trốn sang Cairo vào năm 2014 sau khi bị nhắm đến ở Sudan vì tham gia vào các cuộc biểu tình Mùa xuân Ả Rập. Anh  nghĩ mình là một người Hồi giáo tự do và chắc chắn rằng anh sẽ bị bắt ở quê nhà. Anh nghe nói tình hình việc làm ở Libya tốt hơn và đã trả tiền để nhập cảnh vào nước này bất hợp pháp, nhưng mọi thứ không diễn ra như kế hoạch và anh  rơi vào tay dân quân và bọn buôn lậu.

Anh nói rằng họ đòi nhiều tiền hơn, bắt anh làm con tin và nhốt anh nhiều ngày liền. Sau nhiều tuần trải qua đau khổ, anh đã đến được nhà người anh họ ở Tripoli. Nhưng anh biết mình không thể ở lại Libya. Khoảng trống chính trị sau Gadhafi đã mở đường cho lực lượng dân quân và thậm chí cả ISIS thiết lập quyền lực.

Một số ít công việc sắp có hầu như không ổn định. Anh sống trong nỗi sợ hãi bị bắt cóc hoặc bị giết. Anh biết rằng các con tàu đã rời Libya đến Ý, vì vậy anh đã bỏ hai chiếc áo sơ mi, một chiếc quần đùi và đồ lót vào một chiếc túi đeo  bằng da có khắc chữ do một người bạn nghệ sĩ ở Sudan làm và sắp xếp cho chuyến đi. Những kẻ buôn lậu cử một tài xế lái chiếc Nissan Maxima cũ màu trắng đưa anh và hai người đàn ông Sudan khác về phía tây dọc theo bờ biển.

Họ di chuyển qua các trạm kiểm soát cho đến Zawiyah, nơi họ thay đổi ô tô và lộ trình để tránh lực lượng dân quân được trang bị vũ khí hạng nặng. Cuối cùng họ cũng đến được nhà kho ở Sabratha vào cùng thời điểm John Hamilton chuẩn bị đi ngủ trên Replyer.

Bây giờ, dưới bầu trời đầy sao, Sabeel cố gắng bình tĩnh lại. Giá như họ có thể đến được châu Âu bằng một phép màu nào đó, có thể ai đó sẽ công nhận tấm  bằng đại học của anh và cuối cùng anh có thể sống sung túc.  Nhưng hai giờ đã trôi qua và đằng sau anh, anh vẫn có thể nhìn thấy ánh đèn của Libya. Ở mũi tàu, một trong hai tấm ván ép gia cố bắt đầu nứt do sức nặng của hành khách.

Con thuyền đang nghiêng.

Bức ảnh này do Lực lượng bảo vệ bờ biển Hy Lạp cung cấp, cho thấy mọi người trên một tàu đánh cá đông đúc trước khi nó bị lật úp ngoài khơi bờ biển.
Chiếc thuyền chở tới 750 người tị nạn và người di cư Pakistan, Syria, Ai Cập và Palestine. Hàng chục thi thể đã được tìm thấy, nhưng hàng trăm thi thể khác vẫn mất tích và được cho là đã chết.
Cảnh sát biển Hy Lạp

Mùi hôi của sự khốn khổ của Con Người.

Tín hiệu đầu tiên trên radar xuất hiện lúc 3:45 sáng. Một máy bay không người lái được điều động từ tàu trong đội MOAS gần đó, Phoenix. Đó là máy bay không người lái Schiebel cấp quân sự với camera hồng ngoại có khả năng phát hiện tàu vào ban đêm.

Gần 70% số thuyền di cư mà MOAS giải cứu được xác định bằng máy bay không người lái đang lùng sục trên biển. Hamilton và đội cứu hộ của ông mặc bộ áo liền quần bảo hộ màu trắng, mũ bảo hiểm và áo phao rồi báo cáo lên boong chính. Các nhân viên y tế cũng làm như vậy – điều quan trọng là phải duy trì các điều kiện vệ sinh trên tàu, đặc biệt là khi đón những người mắc bệnh chưa rõ hoặc chưa được chẩn đoán.

Chiếc Responder chạy về phía tọa độ được xác định bởi máy bay không người lái. Hamilton ra lệnh hạ Ghalib, một trong những tàu cứu hộ nhanh màu cam, xuống biển. Ông nhảy vào cùng với một thợ lặn cứu hộ được chứng nhận, Nick Romaniuk.

Romaniuk đã từ bỏ một công việc thương mại đầy lợi nhuận sau trải nghiệm ở trại tị nạn ở Hy Lạp. Ở đó, ông gặp một cậu bé Yazidi mặc áo Sesame Street, người đã bị các chiến binh IS ném vào lửa và có những vết sẹo dọc cánh tay. Một tuần sau, Romaniuk gia nhập MOAS.

Đèn pha của Replyer cuối cùng cũng nhìn thấy chiếc thuyền di cư. Nó chẳng thể khác hơn được, một chiếc xuồng hơi nhỏ với những người chen chúc nhau dưới cái nóng.

Mùi hăng nồng; họ không có nơi nào để giải tỏa, và một số người phát bệnh vì chuyến đi. Những người khác đang chảy máu vì những vết thương trong cuộc hành trình của họ cho đến thời điểm này.

Hamilton và Romaniuk bắt đầu ném áo phao xuống biển. Đó luôn là bước đầu tiên phòng trường hợp xuồng bị lật trong quá trình cứu hộ. Những người di cư la hét sau mỗi chiếc áo phao được tung lên không trung, nghĩ rằng chiếc áo này có thể là chiếc cuối cùng. Romaniuk lên xuồng, ngồi ở mũi tàu và cố gắng giữ cho mọi người bình tĩnh. Ông nghĩ nếu những người đồng hương Anh quốc của mình căm ghét người di cư có thể ở đây lúc này, họ cũng sẽ nhảy xuống nước để cứu ai đó.

Hamilton quyết định biển đủ yên  để điều động chiếc xuồng đến chiếc Responder và trực tiếp dỡ người xuống thay vì chuyển họ lên tàu Ghalib.

“Hãy nghe tôi nói,” ông hét lên. “Việc chúng tôi sắp làm là đưa chiếc xuồng này đến cạnh chiếc thuyền lớn và tôi cần các bạn cho chân vào trong.

Những người di cư di chuyển xung quanh và một số cố gắng đứng dậy. Những chiếc xuồng lắc lư từ bên này sang bên kia.

“Bình tĩnh nào,” Hamilton hét lên lần nữa, biết rằng hầu hết những người di cư có thể không hiểu được tiếng Anh. “Đừng đứng lên. Hãy ngồi xuống. Đừng đánh nhau. Mọi người, im đi.”

Ông ghét phải hung hăng với những người quá dễ bị tổn thương, nhưng không có cách nào khác để kiểm soát tình hình. Xuồng có thể bị lật, hoặc ai đó có thể rơi xuống nước và bị đè bẹp giữa các thuyền. Khi chiếc xuồng đi cùng với chiếc Responder, mọi người đều cố gắng thoát ra ngoài cùng một lúc.

“Chờ đã, chờ đã,” Hamilton nói với họ. “Không cần vội. Hiện tại các bạn đều an toàn.”Lần lượt 108 người được kéo ra khỏi xuồng, bắt đầu từ trẻ em và phụ nữ. Hamilton hồi hộp chờ đợi. Đôi khi ông đã chứng kiến ​​một chiếc thuyền di cư trống rỗng chỉ để lộ thi thể của những người đã chết vì ngạt thở, mất nước hoặc kiệt sức. Sáng nay ông cảm thấy nhẹ nhõm. Mọi người đều đã sống sót.

Họ đến từ Châu Phi: Ethiopia, Gambia, Guinea, Senegal, Nigeria, Mali. Một người đàn ông không mặc gì ngoài đồ lót. Một người khác mặc áo khoác phao North Face màu xám dành cho mùa đông. Hầu hết đều đi chân trần, những đôi chân như gỗ mun phủ đầy bụi và muối biển màu trắng.

Họ mang theo một ít đồ – một bàn chải đánh răng nhét trong túi ngực, một túi nhựa đựng ảnh của những người thân yêu bị bỏ lại. Ba người đàn ông Hồi giáo quay mặt về hướng đông về phía Mecca và quỳ xuống cầu nguyện. Một người Công giáo làm dấu thánh giá.

Đội cứu hộ MOAS vỗ nhẹ vào những người đàn ông để đảm bảo không ai mang theo vũ khí hoặc bật lửa. Các y tá cấp cứu hỏi xem họ có bị thương tích gì không.

Một người đàn ông đến từ Guinea cho biết những kẻ buôn lậu đã dùng thanh sắt đánh vào chân anh.Y tá Yohanes Ghebray dẫn bệnh nhân vào phòng khám được bố trí bên trong cabin tàu. Ông biết hoàn cảnh của những người di cư. Cách đây nhiều năm, ông cũng là một trong số đó khi chạy trốn khỏi quê hương Eritrea trên một chiếc thuyền ọp ẹp và được giải cứu theo cách tương tự.

Ông đã được hỗ trợ bởi Jean de Dieu Bihizi, người nghiên cứu triết học tại nhà ở Burundi nhưng cảm thấy việc đưa ra lý thuyết về các vấn đề của thế giới là chưa đủ – ông cần phải làm điều gì đó thực tế hơn. Ông nhớ lại một cuộc giải cứu trong đó có hai người phụ nữ đến từ Mali đã nhìn thẳng vào mắt ông và nói: Nếu chúng tôi chết, xin hãy mang  các con của chúng tôi đi và đảm bảo rằng chúng được học hành. Bihizi ngạc nhiên trước sự tin tưởng của họ.

Bên trong, bác sĩ Mimmo Risica viết nguệch ngoạc một con số lên băng che màu đỏ và dán nó lên ngực của những ca bệnh nghiêm trọng nhất. Khi chiếc Responder chuyển những người di cư sang một con tàu hoặc bến cảng khác ở Ý, các bác sĩ sẽ hướng tới những bệnh nhân được gắn thẻ trước tiên.

Risica là một bác sĩ tim mạch đã nghỉ hưu đến từ Venice, một người đàn ông trầm tính, tình nguyện dành thời gian để làm điều gì đó tốt đẹp và mang theo một miếng Parmigiano-Reggiano yêu thích mà ông cạo lên mì ống mỗi  bữa tối.

Ông đã giữ bình tĩnh một cách đáng kinh ngạc khi tiếp xúc hết bệnh nhân này đến bệnh nhân khác.Chẳng bao lâu sau, một phần ba boong chính của Replyer đã chật kín người.

Nhưng ngày vẫn còn dài.  Hamilton cảm nhận được nhiều điều hơn nữa sẽ đến.

 

‘Các anh đang đưa chúng tôi đi đâu?’

Vào lúc 7:10 sáng, máy bay trực thăng xác nhận có thêm hai chiếc thuyền nữa gần vị trí của chiếc Responder. Một chiếc – chở Mogahid Sabeel – đang cách bờ biển Libya 27 dặm về phía bắc. Bây giờ trời đã sáng nhưng Sabeel không thể biết phải làm gì với chiếc Responder. Những hành khách đồng hành của anh nghĩ rằng đó là một chiếc thuyền cướp biển Libya và sợ hãi rằng họ sẽ bị đưa trở lại Libya hoặc bị giết và bỏ xác trên biển.

Họ hét vào mặt người lái thuyền của mình để lái về phía tây, tránh xa chiếc Responder. Nhưng sau đó, họ nhìn thấy dòng chữ “MOAS” được viết bằng tiếng Anh ở mạn tàu. Khi chiếc Responder đến gần hơn, những người di cư phát hiện tàu cứu hộ nhanh Ghalib đang lao xuống nước. Họ nhìn thấy những người da trắng đứng trên boong.

Họ nhận ra con tàu là của châu Âu. Sabeel liếc nhìn chiếc điện thoại di động đang nhanh chóng cạn pin của mình: Bây giờ là 7:35 sáng. Khi tàu cứu hộ lao về phía họ, anh cảm thấy một niềm an ủi mà anh đã không biết đến trong nhiều tháng.

Anh nhìn thấy Hamilton đang đứng gần mũi tàu Ghalib và nhận ra những chiếc áo phao bay trong không trung. Sau đó, Ghalib đẩy chiếc xuồng về phía chiếc Responde.  Từng người một lên tàu MOAS. Đầu tiên là những phụ nữ Nigeria. Đầu gối của họ bị bó cứng sau nhiều giờ ngồi và họ đi khập khiễng trên boong, xin nước. Sabeel là một trong những người cuối cùng bước ra.

Chiếc Responder tràn đầy tính nhân văn; 366 người được cứu sáng nay. Khuôn mặt của họ thể hiện sự sốc, hoài nghi, lo lắng và nhẹ nhõm.“Các anh đang đưa chúng tôi đi đâu vậy?” họ hỏi.

Đôi khi những người di cư được giải cứu được chuyển lên những con tàu lớn hơn trong khu vực. Những lần khác, Chiếc Responder vận chuyển họ đến một cảng ở Ý, nơi họ được sắp xếp tại các trung tâm nhập cư. Hamilton đang chờ chỉ thị từ Trung tâm Điều phối Cứu hộ Hàng hải, cơ quan ở Ý giám sát giao thông ở Địa Trung Hải.

Hầu hết những người được giải cứu hôm nay đều cho biết gia đình họ đã trả những khoản tiền lớn – lên tới 5.000 USD – cho những kẻ buôn lậu. Đối với nhiều người, số tiền trên là khoản tiết kiệm cả đời của họ.

Bada Mbye, 19 tuổi, rời nhà ở Banjul, thủ đô của Gambia, sau khi cha anh bị bắt vì lý do chính trị. Anh đã đi qua Mali, Burkina Faso và Niger để đến tây nam Libya. Anh mặc chiếc áo sơ mi màu đỏ tươi của đội tuyển Anh và nói rằng anh muốn trở thành một cầu thủ bóng đá nổi tiếng ở châu Âu, có thể là ở Berlin, nơi anh có một người chị gái.

Anh lặp lại tiếng vang của những người khác khi nói về sự lạm dụng người châu Phi da đen ở Libya, được ghi lại gần đây bởi nhóm nhân quyền Tổ chức Ân xá Quốc tế.

Những kẻ buôn người và buôn lậu thường hãm hiếp, bắt cóc và tra tấn người di cư. Những người di cư cũng phải đối mặt với sự đàn áp và bóc lột tôn giáo của người sử dụng lao động.

Esther Iroghama và anh trai cô đã đi bằng đường bộ từ bang Edo của Nigeria đến Libya. Những kẻ buôn lậu đặt họ ở phía sau một chiếc xe bán tải nhưng đâu đó trên sa mạc, các tay súng đã bắn vào lốp xe rồi vào thân xe tải.

Cô ấy sống sót; anh trai cô thì không.Có khoảng 30 người Bangladesh đã trả cho các trung tâm lao động số tiền lên tới 2.500 USD để đưa họ từ những ngôi làng nghèo khó  đến làm việc trong ngành gốm sứ của Libya. Họ bỏ trốn sau khi bị buộc phải làm việc không lương.

“Tôi là một trong những người may mắn,” Sabeel nói, nhìn quanh boong chính của Replyer. Anh rón rén đi qua mọi người để đổ đầy chai nước bằng nhựa từ một thùng chứa trên boong. Anh đang nhìn qua Địa Trung Hải. Đâu đó ngoài kia là Châu Âu.

“Ít nhất là bây giờ,” anh nói, “tôi sẽ đến một nơi văn minh và được đối xử như một con người”.

Boong chính của chiếc Responder nhanh chóng lấp đầy những người được cứu trên biển.

Có lẽ chúng ta đã lên được thiên đường

Từ bờ biển Libya, Replyer có thể mất tới 36 giờ để đến cảng ở Sicily. Đó là một thời gian dài để ngồi trên một bề mặt cứng trong khoảng cách gần. Đến ngày thứ hai trên tàu Replyer, nhiều người di cư được giải cứu đã trở nên bồn chồn rõ rệt.

Đội cấp cứu phát bánh quy giòn và nho khô nhưng trên tàu không có phương tiện nào để phục vụ bữa ăn cho nhiều người như vậy. Hamilton bước ra boong khi đến lượt ông canh gác. Ông chào Mbye, chàng trai trẻ người Gambia mặc áo đội tuyển Anh.

“Đừng chơi cho đội tuyển Anh,” Hamilton đùa. Mọi người xung quanh đều cười. Họ biết về thất bại nhục nhã của tuyển Anh trước Iceland ở Euro Cup. Hamilton tận hưởng sự vui vẻ giữa bầu không khí khắc nghiệt.

Hamilton nói với họ: “Tôi thích ủng hộ những đội yếu thế như Iceland.Nhưng phần lớn thời gian tôi ủng hộ Malta và Scotland. Cha tôi là người Scotland.” Sabeel đã nghe cuộc trò chuyện và rất mong được gặp Hamilton.

Bộ phim yêu thích của tôi là Trái Tim Dũng Cảm,” Sabeel nói về bom tấn Mel Gibson. Đột nhiên, một cuộc hỗn loạn nổ ra trên tàu. Hamilton lo sợ rằng một cuộc chiến đã nổ ra và vui mừng khi thấy mình đã sai: Mọi người đang trèo lên nhau để nhìn thoáng qua một đàn cá heo đang bơi cạnh chiếc Responder.

Hamilton nói với Sabeel: “Tôi coi cá heo là điềm may mắn. “Khi tôi nhìn thấy chúng, chúng tôi luôn bắt gặp một chiếc thuyền di cư.”

Hamilton hỏi Sabeel về tình hình ở Libya và những kẻ buôn lậu đã đưa anh lên xuồng. Ông cố gắng để hiểu tại sao mọi người lại chấp nhận rủi ro lớn như vậy.

Hamilton nói: “Những chiếc xuồng cao su này rất nguy hiểm. “Tuần trước, 10 phụ nữ đã chết vì bị thủng thân trước.”

Sabeel trả lời: “Thật ra, nếu biết nguy hiểm đến thế thì tôi đã không mạo hiểm đi như thế này”.

Ừ, ai cũng nói với tôi như vậy. Nếu ở vào hoàn cảnh của anh, có lẽ tôi cũng làm như anh, chỉ có điều tôi sẽ không vượt biển vì tôi biết mình sẽ không bao giờ vượt qua được.”

Sabeel mô tả việc họ bị buộc phải tiếp tục trước họng súng.

Hamilton nói: “Nó giống như những chuyến tàu tới Auschwitz. “Mọi người bị ép lên xe ngựa và tàu hỏa. Họ giống như cá mòi vậy.”

“Lịch sử lặp lại,” Sabeel nói.

Hamilton nói: “Vấn đề là người dân ở châu Âu không thực sự biết chuyện gì đang xảy ra ở đây. Họ chỉ nhìn thấy những chuyến tàu chở hàng đang đến”.

Ông nói với Sabeel rằng ông đã từng gặp hai chiếc thuyền bị lật với 500 người trên đó. Trong số những người sống sót có một bác sĩ người Syria đã mất vợ và ba đứa con.

“Điều đó khiến bạn buồn vì, được thôi, anh ấy đã sống sót, nhưng sau đó anh ấy sẽ sống để làm gì? Anh ấy muốn đến Châu Âu để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng anh ấy đã mất gia đình. Bây giờ anh ấy phải tự lập và phải bắt đầu một cuộc sống mới.

Sabeel cho rằng tương lai của chính mình đang bị che mờ bởi sự bất định. Điều gì sẽ xảy ra nếu anh không thể rời Ý để cùng anh trai sang Pháp? Hoặc tệ hơn, nếu anh bị trục xuất về Sudan thì sao?

Ở mạn trái của con tàu, mũi Sicily hiện ra trong tầm mắt. Tầm nhìn là một sự thúc đẩy ngay lập tức. Sabeel nói: “Chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy nước Ý.“

“Cuộc sống ở châu Âu thật khó khăn,” Hamilton nói với anh. “Người châu Âu muốn anh hòa nhập, tuân thủ luật pháp và tuân thủ những điều cơ bản như vệ sinh. Nếu anh sẵn lòng, anh sẽ đạt được điều đó.”

“Đúng, tôi đã nghe câu nói này: Khi ở Rome, hãy hành động như người La Mã.

“Vậy anh có nghĩ chiếc thuyền cao su của anh sẽ đến được Sicily không?

Sabeel mỉm cười. “Có lẽ chúng tôi đã đến được thiên đường.

Hamilton luôn khuyên mọi người hãy báo với quê hương của họ về hành trình nguy hiểm của người di cư. Ông khuyến khích Sabeel nói về thử thách của mình.Một giờ trôi qua. Ca làm việc của Hamilton trên boong đã kết thúc.

Sabeel đưa tay phải ra: “Cảm ơn rất nhiều, John. Ông đã cứu sống tôi.”

Nhiều gia đình di cư thực hiện hành trình đầy rủi ro bằng đường biển cùng con nhỏ.

Cầu mong một sự kết thúc

Vào ban đêm, boong tàu Replyer trông giống như Reynolds Wrap. Những người di cư được giải cứu co ro trong những tấm chăn rộng rãi, những tấm nhựa phủ nhôm bốc hơi để che chắn họ khỏi những cơn gió biển thổi mạnh và giúp giữ nhiệt cơ thể.

Người ta đã sắp xếp theo chiều ngang trên các tấm gỗ một cách hoàn hảo như trò chơi ghép hình, tận dụng từng inch vuông trên boong chính.

Họ kiệt sức đến nỗi không có sự khó chịu nào có thể ngăn cản giấc ngủ. Hamilton quan sát những gương mặt mới và cân nhắc những điều kiện thúc đẩy con người thực hiện những biện pháp tuyệt vọng như vậy.  Rất nhiều quốc gia với rất nhiều vấn đề.

Ông nghĩ rằng Liên minh Châu Âu nên tập trung vào lý do tại sao mọi người lại chạy trốn thay vì dựng lên những bức tường. Chiếc Responder lao về phía trước và ôm lấy bờ biển Sicily, được sưởi ấm bởi ánh sáng rực rỡ của Núi Aetna, ngọn núi lửa đang hoạt động ở tỉnh Catania.

Hamilton muốn thả hành khách của mình xuống đây nhưng lưu lượng giao thông tăng cao đã làm quá tải mọi trung tâm xử lý người nhập cư ở Sicily. Chiếc Responder đã được lệnh di chuyển gần 15 giờ nữa về phía bắc tới Crotone, một cảng trên đất liền Ý.

Vào đêm thứ hai trên tàu Replyer, nhiều người di cư lần đầu tiên nhận ra khoảng cách rộng lớn giữa Libya và Ý.

Họ thở hổn hển và lắc đầu trò chuyện khi sự thật kinh hoàng lộ ra. Hơn 100.000 người di cư được giải cứu trên Địa Trung Hải đã vào Ý trong năm nay và Sicily được mệnh danh là Lesbos mới, hòn đảo của Hy Lạp, nơi nửa triệu người di cư đã cập bến vào năm 2015.

Một dòng suy nghĩ ở châu Âu đổ lỗi cho những người cứu hộ như MOAS vì sự gia tăng số lượng. Một số nhà lãnh đạo châu Âu thậm chí còn cho rằng hoạt động cứu hộ giống như một “dịch vụ taxi” khuyến khích những kẻ buôn lậu, buôn người đưa thêm người ra biển.

Hamilton đã nghe thấy những tranh luận. Ông nói, vấn đề là công việc của ông không phải là giải quyết cuộc khủng hoảng di cư phức tạp. Mối quan tâm của ông là cứu sống những người có thể sẽ chết.

Ông nói: “Tôi ước tất cả những điều này sẽ chấm dứt, sẽ có hòa bình và không còn những cuộc vượt biên nữa”. “Và tôi có thể nghỉ hưu một cách lặng lẽ.”

Sáng hôm sau, bầu trời không một gợn mây và lục địa Ý trông gần đến mức có thể chạm vào.

Những người di cư thay nhau hát những bài hát dân tộc và nhảy múa. Nụ cười trên khuôn mặt họ dường như đã đủ phần thưởng cho Hamilton. Đối với một số người, cuộc hành trình đã kéo dài nhiều tháng. Họ đã phải chịu đựng rất nhiều để cuối cùng đến được châu Âu.

Tuy nhiên, Hamilton biết thử thách của họ khó có thể kết thúc. Một cuộc hành trình mới được định sẵn sẽ bắt đầu ở một vùng đất mới, một vùng đất có thể không bình dị như tưởng tượng.

Hơn 50 giờ sau cuộc giải cứu, chiếc Responder đã đến Crotone. Một sự im lặng bao trùm boong chính. Trên bến tàu là một đám đông quan chức, bao gồm lực lượng bảo vệ bờ biển, hải quân và cảnh sát Ý.

Ở một bên là hai nhân viên cứu trợ người Ý với những hộp các tông chứa đầy dép sản xuất tại Trung Quốc cho những người di cư đi chân không. Năm người di cư xuống tàu cùng lúc, bắt đầu từ phụ nữ mang thai, trẻ em và những người bị đánh dấu đỏ vì vết thương.

Hầu hết đều buồn bã, nhưng Mbye, cầu thủ bóng đá đầy tham vọng thì không.“Grazie,” anh ấy nói với phi hành đoàn MOAS. “Đó là từ tiếng Ý đầu tiên của tôi.”

Sabeel hồi hộp chờ đợi, gần như thể anh không muốn rời tàu. Có rất nhiều điều chưa biết trên đất liền.

Cuối cùng, khi đến lượt mình, anh cầm chiếc túi da có khắc dấu, vật sở hữu duy nhất còn lại của anh từ Sudan và chỉnh lại kính. Anh bước xuống ván cầu, đặt đôi chân trần trên đất Ý.

Hamilton nhìn Sabeel được trao một đôi dép tông cao su màu cam và xanh lá cây và được gắn số: 335. Anh được các bác sĩ kiểm tra và rồi biến mất sau một chiếc lều.

Đối với Hamilton, câu chuyện này đã kết thúc. Một cuộc giải cứu khác sẽ bắt đầu khi Replyer quay trở lại bờ biển Libya. Ông thường nghĩ về những người ông gặp trên tàu, liệu họ có thành công trong việc thiết lập cuộc sống mới ở châu Âu hay không.

Đôi khi, ông nhận được lời nhắn “cảm ơn” thông qua MOAS. Và đôi khi, khi ông đang đi dạo trên đường ở Malta hoặc Ý và tình cờ gặp một người nước ngoài , ông tự hỏi liệu người đó có phải là người mà ông đã cứu hay không.

Người di cư xếp hàng bên ngoài khách sạn Roosevelt ở thành phố New York. Roosevelt, trung tâm tiếp nhận của thành phố ở Manhattan, đã bị choáng ngợp bởi dòng người di cư.
Yunghi Kim/CNN

Rời chiếc Responder, tôi cám ơn toàn bộ đoàn cứu hộ và đặc biệt là Ông Halmilton đã cho tôi một cái nhìn rõ hơn về mặt tối khác trên vùng biển được mệnh danh là Thiên đường nghỉ dưỡng này.

Đó là những thứ ta vẫn thường thấy trong cuộc sống, bên này bờ là sự xa hoa, thịnh vượng với rượu vang và hoa hồng thì phía bên kia là tận cùng của sự cùng quẫn, khổ đau với máu và nước mắt.

Những người di cư không chỉ đến từ Châu Phi, lục địa nghèo đói, lạc hậu nhất trên hành tinh mà còn đến từ rất nhiều những quốc gia kém phát triển hơn. Họ đi vì họ không giàu, và họ muốn được giàu, hiển nhiên rồi.

Nhưng cũng như bao nhiêu người nghèo khó khác, họ không bao giờ lường trước được những hiểm nguy khủng khiếp đang chờ đợi mình ở phía trước. Họ quá ngây thơ và đầy ảo tưởng hão huyền về một thứ gì đó lấp lánh luôn chờ đón mình ở những đất nước giàu có.

Cộng thêm  gánh nặng gia đình nơi quê nhà chồng chất trên vai; những lời đường mật có cánh từ những kẻ bất nhân về một vùng đất trong mơ nơi họ không cần học hành gì cũng có thể hái ra tiền…

Nhiều lắm những thứ thúc đẩy những cuộc di cư bất hợp pháp bằng mọi giá. Cái giá phải trả ở những chuyến đi như thế này có thể đắt  đến mức không tiền bạc nào mua nổi. 

Bởi đó là mạng sống .

Ký ức kinh hoàng của người “vượt biên” sang châu Âu, sống sót trở về

(Báo Công an Tp.HCM)

Thông tin vụ 39 người nhập cư trái phép vào Anh được phát hiện tử vong trong xe container đã gây chấn động. Những đường dây đưa người “vượt biên” sang châu Âu đã hoạt động từ lâu và vô số người đã trở thành nạn nhân.

Phóng viên Báo Công an TPHCM đã tiếp cận với một trong số các nạn nhân của đường dây đưa người sang châu Âu trái phép để tìm “miền đất hứa”, may mắn toàn mạng trở về. Giờ nghĩ về chuyến đi của mình, anh vẫn không khỏi rùng mình, dù đã nhiều năm trôi qua.

“Với tôi đây là một chuyến đi, một bài học và sự trả giá của cuộc đời. Sự ưu ái của đấng từ bi, của tổ tiên chín đời mới giữ được mạng sống nơi xứ sở hoàn toàn xa lạ. Đó là cuộc hành trình xuyên khu rừng rậm lạnh cóng của mùa đông nước Nga – vùng giáp với biên giới Ba Lan suốt hơn hai tháng trời với cảnh đói khát, rét mướt, bẩn thỉu và nhất là nhiều mối nguy hiểm của bọn cướp, thú dữ luôn rình rập.

Đêm đi ngày ngủ, đoàn người giống như mất phương hướng, không có khái niệm về thời gian, không có ý niệm về không gian mà thứ duy nhất trước mắt là một bến bờ vô định, kèm với đó là sự ân hận. Trong ý thức của những con người này là làm sao phải bảo toàn được mạng sống.

Hành trình hơn hai tháng sống trong “địa ngục trần gian” cuối cùng cũng kết thúc. Tôi trở về Việt Nam mang theo tất cả sự uất hận, ê chề và căm phẫn tột cùng đối với những kẻ lừa đảo”, người đàn ông tên H.T.T. (45 tuổi, quê Hà Tĩnh) với dáng vẻ lương thiện, đôi mắt buồn, chậm rãi kể lại với chúng tôi hành trình “từ cõi chết trở về” một cách xót xa…

Anh H.T.T. kể:

Tôi sinh ra ở vùng quê nghèo Hà Tĩnh, cái xứ cát trắng gió Lào, mùa hè nóng hầm hập, mùa động lạnh đến thấu xương, đã làm cho tôi nói riêng và các thế hệ con người nơi đây thêm rắn rỏi.

Quyết tâm học hành để thoát ly khỏi quê hương hoặc chấp nhận tha phương cầu thực với những đồng lương đủ nuôi thân ở các khu chế xuất, công nghiệp tận miền Nam là một trong những phương án khả dĩ mà nhiều người trẻ như chúng tôi lựa chọn.

Do vậy nên làng quê nghèo thuần nông chất phác ngày nào có đủ tiếng cười của trẻ thơ, thanh thiếu niên, thì bây giờ ngôi làng chỉ còn lại các cụ già lớn tuổi và các cháu nhỏ.Lớp lớp thanh niên, những người có sức lao động tứ tán muôn phương. Tôi cũng thế, sau một thời gian vào Bình Thuận làm rẫy rồi khi cha mẹ già cũng phải về quê cưới vợ.

Hành trang mang về là sự tích góp được chút vốn ít ỏi của gần 15 năm lặn lội nơi đất khách quê người. Mơ về xứ “thiên đường” tôi và một người em vợ có người thân sinh sống tại Cộng hòa Pháp nên muốn qua thăm họ.

Mục đích chính của tôi là vừa tham quan nhưng đồng thời cũng tìm hiểu để sau này có điều kiện cho con cái qua nhờ người thân giúp đỡ học hành. Vì một số điều kiện bắt buộc như phải có hợp đồng lao động của công ty, tài sản thế chấp…, đó là những thứ mà bản thân tôi không có.

Vào khoảng tháng 11-2014, qua môi giới của ông H. (ngụ xã Thạch Kim, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh), tôi đã gặp được bà Nguyễn Thị Hồng O. – giám đốc một công ty ở Q.Phú Nhuận (TP.HCM). Qua sự giới thiệu, tất cả những điều kiện bắt buộc để tôi xin được visa đi Pháp đều được bà O. giải tỏa một cách chóng vánh.

Bà khẳng định, hồ sơ của các anh như vậy là đủ, không thiếu gì cả, cái các anh cần bổ sung duy nhất đó là … tiền, phần việc còn lại là của bà ấy. Tôi trộm nghĩ, thế là mình đã gặp được ân nhân…Sau nhiều ngày chạy đôn chạy đáo để thỏa mãn điều kiện “cần”, chúng tôi và bà O. đặt bút hợp đồng tư vấn dịch vụ du lịch tại Pháp với giá trọn gói gần 400 triệu đồng bao gồm phí xin visa và vé máy bay khứ hồi.

Theo hợp đồng, chúng tôi phải đặt cọc trước 8.000 USD/2 người, số tiền còn lại sẽ đóng khi nhận visa. Nếu ba tháng sau không có kết quả thì bà O. hoàn trả lại toàn bộ số tiền cọc.

Niềm hy vọng được dồn hết vào những đồng tiền đi mượn và chúng tôi sống trong tâm thế… chuẩn bị lên đường.

Tuy nhiên, khi quá thời hạn, bà O. không xin được visa, nên tôi đã yêu cầu phải trả lại số tiền như thỏa thuận nhưng bà xin gia hạn thêm thời gian nữa.

Đến tháng 6-2015, bà ta thông báo một tháng nữa sẽ có visa và yêu cầu đóng thêm tiền để làm thủ tục. Vì tin tưởng nên ngày 4-6-2015, tôi lại tiếp tục chuyển 80 triệu đồng cho bà O. qua tài khoản ngân hàng.

Tháng 9-2015, bà O. thông báo mọi thủ tục đã chuẩn bị xong, ra Hà Nội để nhận visa bay sang Pháp. Vậy là cuộc hành trình bắt đầu…Chiều ngày hôm đó, hai anh em chúng tôi đón xe ra đến Hà Nội thì được người tên Sơn đưa đến một căn nhà gần bến xe Mỹ Đình. Ở đây khoảng 3 tiếng đồng hồ thì có một người đàn ông khác tôi không biết tên dẫn ra sân bay Nội Bài nhận hộ chiếu kèm visa.


Một gia đình từ Honduras vượt Rio Grande đến Mỹ từ Piedras Negras, Mexico.
Trong những tuần gần đây, hàng nghìn người di cư đã vượt biên mỗi ngày, khiến chính quyền liên bang choáng ngợp và gây căng thẳng cho các thành phố biên giới của Mỹ.
Cheney Orr/Reuters

Từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ có biết mặt mũi như thế nào đâu. Họ nói sao thì chúng tôi tin vậy và làm theo răm rắp như robot.

Suy nghĩ của chúng tôi lúc đó rất đơn giản, qua cửa an ninh, có vé máy bay rồi và đã lên được tàu bay thì tất nhiên phải có giấy tờ hợp lệ. Người dẫn đường bảo tôi rằng chuyến bay sẽ sang Maxcova – Nga quá cảnh ở đó và sẽ có người hướng dẫn để tiếp tục hành trình đến Pháp.

Tàu bay cất cánh và hình ảnh sân bay Nội Bài dần khuất sau màn sương dày đặc. Viễn cảnh về thủ đô Paris hoa lệ cùng với người thân đang vẫy tay chào đón dường như đã đến rất gần khiến tôi rất hồi hộp.

Sau gần 10 tiếng đồng hồ hành trình, chúng tôi đến Maxcova. Chờ khoảng 30 phút ở cửa sân bay thì xuất hiện một người đàn ông, anh ta giời thiệu tên Á đến đón. Á gọi điện và một lát sau thì xuất hiện một người nữa tên Thìn. Cả hai chở chúng tôi trên một chiếc xe bán tải cũ kỹ về khu chợ Lưu – nơi có rất đông người Việt sinh sống, buôn bán.

Hai chúng tôi được bố trí ở trong nhà trọ của Thìn ở Maxcova và câu trả lời duy nhất của họ mỗi khi chúng tôi thắc mắc “khi nào đi” là hai tiếng… “cứ chờ”. Lúc này chúng tôi linh cảm có chuyện chẳng lành nhưng vì không biết phải làm sao nên buộc phải chờ đợi.

Lúc đầu họ còn cho chúng tôi mượn điện thoại gọi về nhà hỏi thăm gia đình, nhưng rồi sau đó cấm tiệt. Suốt một tuần sống khép kín trong một căn phòng có cái lò sưởi nhỏ, toàn bộ thức ăn nước uống đều được mang đến, chúng tôi được Thìn thông báo chuẩn bị lên đường.

Lúc chuẩn bị lên đường, họ bắt chúng tôi phải vứt hết quần áo mang theo, chỉ được mặc đúng một bộ trên người. Khi chúng tôi thắc mắc tại sao không bay sang Pháp thì họ không trả lời mà chỉ nói là đã thống nhất với đối tác ở Việt Nam…Chúng tôi được bố trí ở chung phòng với 6 người khác (3 người ở Hải Phòng, 3 người Nghệ An).

Tiếp xúc với họ, được biết chuyến đi này do hoàn cảnh đặc thù nên phải đi theo đường tiểu ngạch. Họ trấn an mọi người cứ yên tâm, có người bản địa giúp đỡ và tỷ lệ thành công từ trước đến nay là 100%.

Đến lúc này chúng tôi mới tá hỏa biết mình đi theo kiểu vượt biên trái phép nhưng bất lực vì không biết kêu cứu ai giữa đất khách quê người, hơn nữa số tiền mấy trăm triệu đã đưa trước và nếu bỏ cuộc lúc này không biết có toàn mạng để về quê hay không?

Và cũng kể từ thời điểm này, những người canh gác đã không cho chúng tôi ra khỏi phòng trọ nữa…Đánh cược mạng sống vào “canh bạc” Thìn không muốn giữa các nhóm chúng tôi có sự liên hệ quá mật thiết dẫn đến sự phản kháng có thể gây bất lợi cho công việc của anh ta.

Vả lại, sống vì trong hoàn cảnh này nên giữa chúng tôi luôn có sự đề phòng và ít giao tiếp. nếu ai có hỏi quê quán thì cũng nói qua loa cho xong hoặc không bao giờ nói thật nơi mình sinh sống.

Vì hai chúng tôi là người lạ mới đến nên 4 ngày ở chung thì 6 người cũ được đi trước. Lúc này, chúng tôi trở thành người cũ và Thìn tiếp tục đón một nhóm mới 6 người mới từ Việt Nam qua ở chung phòng.

Tiếp thêm hai ngày nữa, cả nhóm 8 người chúng tôi được thông báo bắt đầu lên đường.Chuyến đi không biết điểm đến giống như một canh bạc mà tài sản cược chính là mạng sống của mình. Tôi nói với Q. – người em đi cùng: Tết vừa rồi anh bắt số tử vi, thầy phán anh sống thọ được 81 tuổi nếu vượt qua cái hạn 49 tuổi và 53 tuổi.

Chắc năm nay chưa chết đâu. Q. còn trẻ hơn tôi và cũng lần đầu tiên xa nhà nên đượm buồn: “Em cũng không biết nữa…”.

Đoàn chúng tôi khởi hành khi trời vừa chợp tối. Khí hậu lạnh cóng, da thịt tê tái, tâm trạng lo âu. Cả đám nhìn nhau nhưng không ai nói với ai câu nào.

Lúc này Thìn và Á không đi theo, ngoài 8 người chúng tôi là “khách hàng” có thêm hai tài xế người Việt và một người dẫn đường là người nước ngoài được di chuyển trên 2 xe ô tô loại 7 chỗ. Đi được khoảng 20km, ra khỏi khu vực nội thị, họ dồn tất cả lên 1 xe, chiếc còn lại được một tài xế đưa về….

Chiếc xe 7 chổ nhưng nhét đến 10 người lao vun vút trong màn đêm. Dân cư thưa dần, phía trước xa xa là trập trùng núi đồi. Được một quãng đường tốt rồi sau đó rẽ vào một con đường nhỏ gồ ghề.

Chiếc xe lắc lư chao đảo với sức nặng quá tải. Xe chạy đến nửa đêm thì gặp một khu rừng, họ bảo chúng tôi xuống xe đi bộ với người nước ngoài dẫn đường, còn tài xế người Việt quay xe đi hướng khác. Cuộc hành trình xuyên rừng bắt đầu…

Chúng tôi đi bộ trong rừng đến sáng hôm sau thì được người dẫn đường ra tín hiệu cho dừng lại nằm nghỉ ngay trên những tảng đá lạnh cóng giữa rừng và được dùng bữa với nửa cái bánh mì và nước lọc mang theo. Cả ngày hết nằm lại ngồi, rồi lang thang quanh quẩn trong tầm mắt của người dẫn đường với bán kính 20m của gã râu ria ngoại quốc.

Anh ta không cho đốt lửa để sưởi ấm mà chỉ hướng dẫn cho phương pháp ngồi yên trong hốc đá và không cử động thì sẽ đỡ lạnh. Khi mặt trời bắt đầu lặn, cả nhóm được lệnh tiếp tục lên đường. Cứ thế, ngày nghỉ đêm đi từ cánh rừng này đến khu rừng khác mỗi lúc một sâu thẳm đến rạc cả hai bàn chân.

Sang đêm thứ 4 thì chúng tôi đến một con đường nhỏ xuyên rừng, ở đó có một chiếc xe tải cọc cạch, xì khói đen đã chờ sẵn. Gã tài xế mũi lõ khoảng hơn 50 tuổi, mặt bẳm trợn, nhem nhuốc, miệng rít thuốc lá liên hồi tiến đến nói gì đó với người dẫn đường và tất cả chúng tôi được tống lên thùng xe.

Chiếc xe bành bạch lắc lư khoảng hai giờ sau thì đến một ngôi nhà hoang tàn cũ nát, ẩm dột rộng khoảng 10m2 nằm hun hút giữa bạt ngàn cây cối.

Họ cho biết tất cả chúng tôi phải ở đây và chờ còn gã tài xế và người hướng dẫn thì mất hút đâu không rõ. Nệm không, lửa không, thức ăn cạn kiệt khiến tất cả rất lo lắng.

Sau hai ngày lưu lại đây, chúng tôi được người hướng dẫn lệnh cho phải di chuyển sang một ngôi nhà hoang khác cách đó khoảng chừng 2 giờ đi bộ đường rừng và không được dùng điện thoại. Trong 6 ngày tiếp theo tá túc ở đây, khẩu phần ăn của mỗi người là một cái bánh mì một ngày.

Sống trong cảnh đói khát, nước cũng chỉ được uống cầm chừng, chỗ ngủ là nền nhà ẩm mốc, kiến rừng, muỗi đốt nên chỉ đến khi mệt lả mới chợp mắt được. Ở trong rừng hơn 20 ngày mà gần như không được tắm rửa lần nào. Sau đó, không hiểu vì lý do gì chúng tôi bị đưa quay trở lại ngôi nhà hoang cũ (đã ở lần trước) và tiếp tục chịu cảnh đói rét, bẩn thỉu thêm … 20 ngày nữa.

Đến lúc này, hầu như trong đoàn người chúng tôi chỉ biết mình đã sống bao nhiêu ngày mà không nhớ ra hôm nay là thứ mấy, ngày bao nhiêu, của tháng mấy….!

Vào một buổi sáng khoảng ngày thứ 50 sống trong rừng, Người hướng dẫn cho biết 4 người được đi trước và 4 người còn lại phải chờ. Gần trưa thì một người nước ngoài lái xe 7 chỗ chạy đến, đưa 4 người đi trước, tôi và Q. được bố trí đi chuyến sau. Lúc này, nhóm còn lại chúng tôi đón thêm một người mới cũng từ Việt Nam sang và tiếp tục ở lại ngôi nhà hoang này thêm 10 ngày. Sang đêm thứ 11 thì chúng tôi được đưa đến một khu rừng khác không xác định được ở hướng nào, chỉ khoảng gần 2 giờ đi bộ.

Chúng tôi chỉ được phép tạm nghỉ và luôn trong tư thế sẵn sàng khởi hành. Khoảng 3 giờ sáng hôm sau, có một chiếc xe đến đón, họ bắt 3 người chui vào trong cốp xe và 2 người ngồi trên thùng xe được ngụy trang bằng cách bắt trùm mền kín mít. Tôi nhỏ con nên “vinh dự” được xếp nằm trong cốp. Chiếc xe lắc lư trong đường rừng khiến một người nôn ói, rồi tiếp đến cả ba cùng ói thốc ói tháo trong cái cốp chưa đầy 1,5m2.

Mùi khai hôi nồng nặc, tưởng như ngột ngạt đến tắt thở, nhưng không ai dám kêu. Lúc này chúng tôi chỉ mong rằng, xe bị hỏng hoặc gặp một sự cố gì đó để dừng lại cho chúng tôi ra ngoài hít thở không khí…

Xe chạy một mạch đến 5h sáng hôm sau thì đột ngột dừng lại. Tôi không hiểu chuyện gì nhưng qua cách giải thích của người nước ngoài và có sắc phục của cảnh sát chúng tôi mới biết rằng đoàn chúng tôi đã bị bắt tại biên giới Ba Lan.

Tôi thầm cảm ơn trời, biết đâu đây là sự may mắn và quẻ bói tử vi hồi đầu năm đã đúng. Nếu gặp được chính quyền địa phương cho dù có bị xử lý thế nào đi chăng nữa nhưng mạng sống chúng tôi vẫn còn.

Chúng tôi được chuyển đến giam tại một đồn cảnh sát, bị tịch thu hết tư trang. Họ giải thích rằng chúng tôi phạm luật vì đã nhập cảnh trái phép. Một ngày sau, cả nhóm chúng tôi được chuyển đến một trại giam khác gần đó cùng với nhiều người thuộc nhiều quốc gia. Chúng tôi được cung cấp thức ăn, quần áo và các nhu yếu phẩm.

Điều bất ngờ là tại đây, nhóm chúng tôi đã gặp lại 4 người cùng nhóm được đi trước trong ngôi nhà hoang giữa rừng sâu trước đó khi họ đang bị một nhóm người Trung Quốc hành hung.

Sau khi Tòa án Ba Lan có bản án, chúng tôi được trả lại Việt Nam một tháng sau đó trong niềm hạnh phúc vô bờ. Chúng tôi về lại quê hương mà cách đây không bao lâu tất cả đều cho rằng đã hết cơ hội.

Sau khi ổn định cuộc sống, chúng tôi đã tìm đến gặp ông H. – giới thiệu đầu tiên và được biết sau nhiều vụ việc bị “bể” ông này đã bị nhiều người đến đòi nợ. Chúng tôi tìm đến bà Nguyễn Thị Hồng O. để hỏi là tại sao ký hợp đồng đi du lịch, có visa hợp pháp nhưng thực tế lại đưa chúng tôi vượt biên suýt bỏ mạng nơi đất khách quê người?

Bà ta không những không đưa ra được câu trả lời thỏa đáng mà cho đến thời điểm hiện tại vẫn chỉ trả cho chúng tôi được 50 triệu đồng vào ngày 21-1-2016 và còn nợ chỉ riêng hai anh em chúng tôi 150 triệu đồng.  Bà ấy còn viện lý do bản thân cũng là kẻ bị lừa.

Theo anh H.T.T, hiện công ty của bà O. chuyển đi đâu không rõ. Anh cho biết thêm sở dĩ làm đơn gửi các cơ quan chức năng để tố cáo Nguyễn Thị Hồng O. lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không chỉ để đòi lại tiền mình mà còn cảnh tỉnh nhiều người ôm mộng thiên đường ở xứ trời Tây.

Các quan chức thực thi pháp luật ở San Antonio điều tra một xe đầu kéo nơi hàng chục người di cư đã chết được tìm thấy bên trong.
Tổng cộng, 53 người thiệt mạng trong vụ việc mà một nhân viên của Cơ quan Điều tra An ninh Nội địa gọi là vụ buôn lậu người nguy hiểm nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Jordan Vonderhaar / CNN

Chuyến đi cứu hộ trên biển đã giúp tôi hiểu rằng,

Nếu như tôi đang được sống trong một đất nước hòa bình, không  có chiến tranh hay xung đột,

đó đã là một sự may mắn và hạnh phúc.

Và có nhiều con đường khác nhau để hoàn thiện hơn niềm hạnh phúc đó. với mỗi người

nhưng cách dễ dàng nhất có thể thấy được là hãy HỌC HÀNH CHO TỬ TẾ.

Đó không phải là giải pháp duy nhất, như đã nói. 

Tuy vậy,  nó đúng với phần đông .

You may also like

Để lại bình luận